Jump to content

Joker

Quản Trị
  • Joined

Everything posted by Joker

    • 0 downloads
    Bộ phim tập trung vào các chị em tháng ba: Meg có trách nhiệm, Jo nóng nảy, Beth dịu dàng và Amy lãng mạn, đang lớn lên ở Concord, Massachusetts trong và sau Nội chiến Hoa Kỳ. Khi cha của họ chiến đấu trong chiến tranh, các cô gái phải vật lộn với những vấn đề lớn nhỏ dưới sự hướng dẫn của người mẹ có ý chí mạnh mẽ, được gọi một cách trìu mến là Marmee (phát âm là "Mahmee" ở New England thế kỷ 19). Như một phương tiện để thoát khỏi một số vấn đề của họ, hai chị em say sưa biểu diễn trong những vở kịch lãng mạn được viết bởi Jo trong nhà hát gác mái của họ. Sống bên cạnh gia đình là ông Laurence giàu có, có cháu trai Theodore, biệt danh là "Laurie", chuyển đến sống cùng ông và trở thành bạn thân của gia đình March, đặc biệt là Jo. Ông Laurence trở thành cố vấn cho Beth, người chơi piano tinh tế khiến anh nhớ đến cô con gái nhỏ đã mất và Meg phải lòng gia sư của Laurie, John Brooke. Khi ông March bị thương trong chiến tranh, Jo bán tóc của mình để Marmee có thể mua vé tàu để đi du lịch cho ông March và chăm sóc anh ấy khỏe mạnh trở lại. Khi Marmee đi vắng, Beth tiếp tục các chuyến thăm của Marmee đến một gia đình nhập cư đang gặp khó khăn để cung cấp cho họ thức ăn và củi. Trong thời gian này, cô bị sốt đỏ tươi từ trẻ sơ sinh của gia đình. Đang chờ sự trở lại của Marmee, Meg và Jo, cả hai trước đó đã sống sót sau cơn sốt đỏ tươi, gửi Amy đi sống an toàn với dì March của họ. Lo sợ rằng mình cũng có thể mắc bệnh, Amy than thở với Laurie rằng cô có thể chết mà không bao giờ được hôn. Laurie hứa với Amy sẽ hôn cô trước khi chết nếu cô bị bệnh. Trước khi bị bệnh của Beth, Jo đã là bạn đồng hành của dì March trong nhiều năm, và trong khi cô không hài lòng với vị trí của mình, cô đã chịu đựng điều đó với hy vọng một ngày nào đó dì sẽ đưa cô đến châu Âu. Khi tình trạng của Beth trở nên tồi tệ hơn, Marmee được triệu tập về nhà và chăm sóc cô hồi phục đúng vào dịp Giáng sinh, nhưng căn bệnh đã khiến cô suy yếu nghiêm trọng. Ông Laurence đưa cây đàn piano của con gái mình cho Beth, Meg chấp nhận lời cầu hôn của John Brooke và ông March gây bất ngờ cho gia đình bằng cách trở về nhà sau chiến tranh. Bốn năm trôi qua; Meg (hiện hai mươi tuổi) và John kết hôn, và sức khỏe của Beth đang xấu đi đều đặn. Laurie tốt nghiệp đại học, cầu hôn Jo (hiện 19 tuổi) và rủ cô đi Luân Đôn cùng anh, nhưng nhận ra cô nghĩ về anh như một người anh trai hơn là người yêu, cô từ chối lời đề nghị của anh. Jo sau đó nói với sự thất vọng thêm rằng dì March đã quyết định đưa Amy bây giờ mười bảy tuổi đến châu Âu thay vì Jo, vì bây giờ Amy làm việc như một người bạn đồng hành của dì và dì March mong muốn Amy tiếp tục được đào tạo như một nghệ sĩ ở châu Âu. Bị nghiền nát, Jo khởi hành đến thành phố New York để theo đuổi giấc mơ viết lách và trải nghiệm cuộc sống. Ở đó, cô gặp Friedrich Bhaer, một giáo sư người Đức, người thách thức và kích thích trí tuệ của cô, giới thiệu cô với opera và triết học, và khuyến khích cô viết những câu chuyện hay hơn những bản melodramas thời Victoria mà cô đã viết. Ở châu Âu, Amy được đoàn tụ với Laurie. Cô thất vọng khi thấy anh ta trở nên bất hòa và vô trách nhiệm, và mắng anh ta vì theo đuổi cô chỉ để trở thành một phần của gia đình March. Đổi lại, anh ta cay đắng khiển trách cô vì đã tán tỉnh một trong những người bạn đại học giàu có của anh ta để lấy tiền. Anh ta để lại cho Amy một lá thư yêu cầu cô ta đợi anh ta khi anh ta làm việc ở London cho ông nội và làm cho mình xứng đáng với cô ta. Jo được triệu tập về nhà để gặp Beth mười tám tuổi, người cuối cùng đã chết vì ảnh hưởng kéo dài của bệnh sốt đỏ tươi (có lẽ là bệnh thấp khớp) đã làm cô ta đau khổ suốt bốn năm qua. Một Jo buồn bã rút lui về sự thoải mái của căn gác và bắt đầu viết câu chuyện cuộc đời cô. Sau khi hoàn thành, cô gửi nó cho Giáo sư Bhaer. Trong khi đó, Meg sinh ra cặp song sinh huynh đệ Demi và Daisy. Một bức thư của Amy thông báo với gia đình rằng dì March quá ốm để đi du lịch, vì vậy Amy phải ở lại châu Âu với cô. Tại London, Laurie nhận được một lá thư từ Jo, trong đó cô thông báo cho anh về cái chết của Beth và đề cập Amy đang ở Vevey, không thể về nhà. Laurie ngay lập tức đi đến bên cạnh Amy. Cuối cùng họ trở về nhà tháng ba với tư cách là vợ chồng, khiến Jo rất ngạc nhiên và thích thú. Dì March qua đời và cô rời khỏi nhà Jo, nơi cô quyết định chuyển đổi thành một trường học. Giáo sư Bhaer đến với các bằng chứng in galley về bản thảo của cô, nhưng khi anh ta lầm tưởng Jo đã kết hôn với Laurie, anh ta khởi hành để bắt một chuyến tàu đến phương Tây, nơi anh ta sẽ trở thành một giáo viên. Jo chạy theo anh ta và giải thích sự hiểu lầm. Khi cô cầu xin anh đừng rời xa, anh cầu hôn và cô vui vẻ chấp nhận.
    • 1 download
    Có lẽ là quá “xưa” để nói về một bộ phim phát hành cách đây 21 năm cho dù nó đã đoạt một lúc 8 giải Oscar nhưng ấn tượng sau khi xem lại bộ phim này trên DVD là nó vẫn giữ được nguyên những giá trị nghệ thuật và tính đương đại của mình. Một thành công không nhỏ trong điện ảnh thế giới. Cái tên “Amadeus” hơi xa lạ với những ai không thật sự quan tâm tới nhạc cổ điển nhưng chỉ cần ta viết nguyên tên WOLFGANG AMADEUS MOZART thì tất cả đều có thể trầm trồ thích thú. Amadeus là một bộ phim nói về Mozart nhưng lại không phải là loại phim tiểu sử hay một dạng tương tự như thế, điều mà người xem cảm nhận được ngay lập tức trong phim là âm nhạc của Mozart, những nốt nhạc thiên thần của một thiên tài sớm vội tắt trên bầu trời âm nhạc. Nói một cách khác, Amadeus là phim âm nhạc về Mozart. Đạo diễn Milos Forman đưa chúng ta quay trở lại thành Vienna năm 1823 để gặp một nhân vật kỳ dị, một ông lão già nua và gàn dở, một kẻ tự sát, một tên sát nhân và những lời thú tội kinh hoàng sau 32 năm đau đớn. Kẻ ghê gớm ấy không phải là một người bình thường, ông ta chính là ANTONIO SALIERI – nhạc sĩ cung đình của vua Áo Joseph II, người đã một thời là bạn của Mozart. Ngày nay hầu như không còn ai nhắc tới những tác phẩm âm nhạc một thời lừng danh của Salieri nữa, chúng bị rơi vào quên lãng dưới những lớp bụi của thời gian và ngay chính bản thân nhạc sĩ cũng trở thành gần như vô danh. Vô danh bên cạnh WOLFGANG AMADEUS MOZART. Công bằng mà nói thì nhạc sĩ Salieri là một người có khả năng và ý chí. Tuy cuộc đời âm nhạc của ông đã có những bước khởi đầu không mấy thuận lợi nhưng bằng lòng đam mê và quyết tâm của mình, cuối cùng Salieri đã trở thành nhạc sĩ hoàng cung cho vua Áo. Ta cũng nên biết rằng vào hồi thế kỷ XIX ở châu Âu thì Vienna là một trong những trung tâm lớn về âm nhạc của thế giới. Nó là miền đất hứa cho các tài năng, trong đó có Mozart. Sinh ra tại thành phố Salzburg và được học về âm nhạc bởi chính người cha mình, Leopold, một nhạc sĩ khá nổi danh thời ấy, Mozart đã sớm chứng tỏ thiên tài của mình từ nhỏ trong những chuyến công diễn vòng quanh châu Âu. Thế nhưng xã hội phong kiến châu Âu lúc bấy giờ nhìn nhận các nghệ sĩ chỉ như là một công cụ để mua vui. Mozart phục vụ cho nhà thờ nhưng vẫn chỉ là “một con khỉ biết làm trò” mà thôi. Các tài liệu lịch sử cho thấy sự phân biệt đẳng cấp này lớn đến mức mà nghệ sĩ được xếp cùng hạng với những người hầu. Và Mozart xuất hiện, ông chính là một cuộc cách mạng không chỉ riêng trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc mà cả trong việc thay đổi trật tự xã hội và đòi quyền công bằng cho các nghệ sĩ. Ta sẽ nói đến điều này trong quá trình diễn biến của bộ phim. Amadeus bắt đầu bằng lời tự thú của Salieri – một sự thật lịch sử được ghi nhận. Ngay lập tức người xem được dẫn vào trung tâm câu chuyện, bị hấp dẫn bởi những điều bí ẩn. Trong cái nhà thương điên ấy ta có cảm giác như là một địa ngục có thật nơi dương thế với những bóng ma vật vờ, điên loạn. Tất cả chỉ là một câu chuyện giữa hai nhân vật, Salieri và vị cha cố, hay nói đúng hơn là tự truyện của Salieri – người đã phải mang nặng niềm hối hận đè nặng trong tim suốt 32 năm kể từ cái chết của Mozart. Người xem chắc chắn bị ấn tượng tức thì bởi tài năng diễn xuất của F. MURRAY ABRAHAM trong vai Salieri. Dưới những lớp da nhăn nheo vì tuổi tác và trong một bộ xương khô gầy gò là cả một sức sống mạnh liệt, là cả một niềm đam mê được thể hiện qua ánh mắt sáng rực mỗi khi ông nói về âm nhạc. Và âm nhạc, những nốt nhạc opéra sang trọng, một giọng ca tuyệt vời…Có một khoảnh khắc Salieri như sống lại với dĩ vãng đầy hào quang của chính mình. Người xem có đôi chút ngỡ ngàng với sự xuất hiện của Mozart trong phim. Không hề giống với một nhạc sĩ lừng danh mà trong bộ trang phục rất sang ấy Mozart luôn là một chú bé con chơi trò đuổi bắt và chạy theo các cô gái trẻ. Với Salieri, ông từng nhìn nhận Mozart như thần tượng của chính mình nên khoảnh khắc hai kẻ “vụng trộm” bắt gặp nhau mới trớ trêu làm sao. Đạo diễn Milos Forman cũng đã rất khéo léo giới thiệu tính cách của Salieri cho người xem thông qua hành vi ông ta lẻn vào phòng tiệc để ăn vụng. Lẽ ra buổi biểu diễn của Mozart cho các khách mời của Giáo chủ đã là một bước tiến tốt trong sự nghiệp của ông thì sự bất cẩn của Mozart đã khiến ông bị thất sủng. Nhưng công chúng thì ngưỡng mộ Mozart. Từ những thước phim này đạo diễn Milos Forman đã làm bộc lộ tính khí của Mozart: tự tin và ngạo mạn. Cử chỉ Mozart mở toang cánh cửa, cúi chào công chúng hâm mộ mình và chổng…mông vào Giáo chủ đã nói lên tất cả. Không phải ai cũng hiểu giá trị tài năng âm nhạc của Mozart vào thời điểm ấy, riêng mình Salieri. Bằng cả sự ngưỡng mộ lẫn lòng ghen tỵ, Salieri đã len lén đến x em bản nhạc của Mozart. Hãy lắng nghe đoạn ông kể lại cho vị cha cố về âm nhạc của Mozart, chỉ cần nhìn các cử chỉ của Salieri là người xem cũng đã đủ cảm nhận được vẻ đẹp thần thánh trong âm nhạc của Mozart. Định mệnh đã an bài, khi Mozart bị Giáo chủ xua đuổi thì chính Salieri lại là người xin vua Áo cho Mozart ở lại cung đình. Ta khó có thể đoán được lý do chính xác của quyết định này nhưng tôi nhìn nhận Salieri và Mozart như là Bá Nha và Tử Kỳ trong lịch sử Trung hoa, điểm khác biệt duy nhất là Salieri vừa ngưỡng mộ âm nhạc của Mozart và vừa căm ghét con người ông. Chính sự mâu thuẫn và giằng co trong nội tâm của Salieri đã tạo nên sức cuốn hút của bộ phim. Ta có thể nhìn nhận Salieri như là “cái xấu” nhưng sự thực thì ông lại không hẳn như thế. Tôi nhìn thấy Salieri đơn giản là một “thử thách” đối với Mozart, một định mệnh được sắp đặt bởi Thiên Chúa. Thời ấy người ta tin tuyệt đối vào Đấng Tối cao và Nhà Thờ có một vai trò quan trọng với chính quyền. Dần dần trong diễn biến của bộ phim ta sẽ nhận thấy Salieri luôn xuất hiện như là một nhân chứng, như là một người kể chuyện. Bản thân ông lại không có gì quan trọng. Sự tương phản lạ kỳ giữa Salieri và Mozart, mặc dù cả hai đều xuất thân từ tỉnh lẻ, luôn làm người xem thích thú. Salieri không bao giờ hiểu nổi vì sao tài năng của Mozart lại ngông cuồng đến nhường ấy? Không còn một từ nào thích hợp hơn để dành cho khả năng sáng tác đầy ngẫu hứng của Mozart ngoài hai chữ “Thiên tài”. Với ông những nốt nhạc dường như chỉ là một trò chơi xếp hình đơn giản, những khuông nhạc được định hình sẵn trong đầu chỉ đợi khoảnh khắc thích hợp để viết ra. Salieri là người đầu tiên nhận biết tài năng ấy và ông ta đã muốn thử thách Mozart trong lần ra mắt đầu tiên với vua Áo, một bản hành khúc được biên soạn rất cầu kỳ theo phong cách hoàng cung và tài năng của Salieri. “Chú bé” Mozart xuất hiện với tất cả dáng vẻ hợm hĩnh của một anh tỉnh lẻ mới về thành phố và thêm một lần nữa đã làm trò cười cho tất cả các bậc vương giả, công hầu trong triều. Thế nhưng hội đồng âm nhạc tối cao gồm các bậc thầy người Ý lừng danh của Vua Áo sẽ sớm phải nghiêng mình trước thần đồng trẻ tuổi Mozart. Trong khi các vị khả kính này còn đang băn khoăn tranh cãi là nên dùng thứ tiếng nào trong một vở Opéra ngoài tiếng Ý truyền thống ra thì Mozart đã thản nhiên trả lời vua Áo: “tiếng Đức”. Có lẽ đơn giản bởi vì Mozart nói tiếng Đức hay bởi vì ông sẽ viết một vở nhạc kịch cho những người nói tiếng Đức…Trả lời câu hỏi tại sao của vua Áo, Mozart đã rất giảndị nói rằng bản thân hình thức ngôn ngữ không quan trọng mà yếu tố quyết định chính là âm nhạc – nội dung căn bản của Opéra. Ngay chủ đề của vở Opéra của Mozart cũng làm cho hoàng cung ngạc nhiên khi ông lựa chọn tức thì bối cảnh hậu cung của vua Thổ. Và Mozart vẫn nói về tình yêu, bất chấp ý tứ xỏ xiên của các “bậc thầy” người Ý, nhưng bằng cách của riêng ông, vượt xa tất cả những khuôn khổ của âm nhạc thời bấy giờ. Trong cảnh đám quần thần đổ xô vào lắng nghe tiếng nhạc vọng ra từ phòng khách của vua Áo có lẽ ít người hiểu được rằng một tài năng mới đang cất cánh bay lên. Với họ đơn giản chỉ là một điều gì đó lạ lẫm, khác biệt với âm nhạc cung đình “tiêu chuẩn”. Có một người cay đắng gượng cười, đó là Salieri. Ông đã không thể tự vượt qua chính mình trong âm nhạc và những khúc mắc những dở dang trong giai điệu của bản hành khúc đang được Mozart biến tấu một cách thần tình và hoàn mỹ. Salieri nhận ra những điều mà chính mình vẫn hằng khao khát đạt tới mà chưa bao giờ được lại quá đơn giản dưới những ngón đàn của chàng thanh niên trẻ Mozart. Năm ấy ông mới 26 tuổi. Vở Opéra đầu tiên của Mozart viết theo “đơn đặt hàng” của cung đình đã thật sự là một tuyệt tác. Thành công của nó là tức thì và kéo theo rất nhiều điều thú vị và không thú vị khác. Chàng trai đa tình Mozart ngây ngất trong hào quang và giữa những người tình. Ông bố Leopold giận dữ vì lần đầu tiên Mozart đã không tuân theo những lời khuyên bảo của mình và tự tiện cưới vợ. Người xem hoàn toàn hiểu được đích nhắm cao hơn của Leopold vào các cô con gái của các bậc công hầu nhưng cặp Mozart – Constanze hài hoà với nhau một cách bất ngờ (hay ít ra cũng về yếu tố phòng the đơn thuần) và cũng bắt đầu từ đây cuộc đời của thiên tài chuyển sang một giai đoạn mới. Đạo diễn Milos Forman đã rất khéo léo sắp xếp các chi tiết hài hước xen lẫn với các đại cảnh. Từng khuôn hình của ông đẹp một cách hoàn mỹ, chúng gợi cho người xem các bức tranh châu Âu thế kỷ XVIII & XIX. Việc quyết định lựa chọn Praha để quay phim đã là một quyết định rất sáng suốt vì đó là thành phố châu Âu duy nhất còn giữ lại được nguyên vẹn những kiến trúc gốc từ thời Mozart và trước đó nữa. Người xem hoàn toàn bị chinh phục bởi các trang trí, các nội thất. Nếu như bạn biết rằng chiếc ghế của vua Áo thật sự là một cổ vật có một không hai hay các diễn viên đang thật sự diễn trên tấm thảm làm từ nhiều thế kỷ trước…Trong điện ảnh không có chỗ cho sự hời hợt và cẩu thả nếu ta muốn thật sự làm một “tác phẩm”. Và xuyên suốt tất cả những hình ảnh ấy là âm nhạc của Mozart được lựa chọn kỹ càng và phối hợp hài hoà một cách tài tình. Người xem được chìm đắm và ngây ngất trong một thế giới của những âm thanh diệu kỳ. Ta không nhận ra ngay sự có mặt của âm nhạc, đơn giản vì nó là “môi trường” của Amadeus, là yếu tố không thể thiếu được, ta chỉ biết rằng mình đang bị chinh phục, bị lối cuốn. Nói về một nhạc sĩ thì không có gì hay hơn là dùng chính âm nhạc của ông để bộc bạch tâm hồn ông. Có lẽ ít khi người xem có dịp được tìm hiểu một tuyệt phẩm âm nhạc qua điện ảnh như thế. Trong Amadeus nội dung phim chỉ còn là minh hoạ, chính âm nhạc thần thánh của Mozart mới là “nhân vật” chính. Người xem cùng trăn trở với số phận long đong của nhạc sĩ rồi cùng bay bổng lên trong những nốt nhạc đầy tinh tế của ông. Amadeus là một bộ phim của các xung đột trên tất cả mọi khía cạnh. Đó là mâu thuẫn giữa tuổi trẻ và khuôn thước được đại diện bởi Giáo Chủ. Đó là mâu thuẫn giữa định kiến và tự do. Một bên là các nhạc sĩ cung đình, một bên là chàng Mozart đầy tài năng. Mâu thuẫn giữa cha và con khi ông bố Leopold, người đã dành cả đời mình để nuôi dạy Mozart, muốn tiếp tục ép buộc chàng trai trẻ sống theo ý muốn của riêng mình. Điều ấy đã là không thể và sẽ còn luôn là một vấn đề lớn của nhân loại. Mâu thuẫn giữa đồng nghiệp mà Salieri là một minh hoạ tuyệt vời. Mâu thuẫn giữa nhu cầu tự do trong nghệ thuật và tiền bạc…ta có thể liệt kê ra đây thêm nhiều xung đột nữa nhưng theo NTL thì có hai vấn đề lớn nhất thuộc về bản chất và có tính bản lề cách mạng, đó là mâu thuẫn trong chính nội tâm của Salieri và sự đòi hỏi được tự do sáng tạo của Mozart. Đam mê với âm nhạc và tìm tất cả mọi cách để đi tới nó, Salieri đã đặt một lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa để cầu mong cho những thành đạt của đời mình. Ông đã nguyện sẽ hiến dâng đời mình để sáng tác nhạc dâng lên Đấng tối cao nhưng bên cạnh đó Salieri lại muốn mình sẽ trở thành bất tử như Thiên Chúa. Hai điều này mâu thuẫn với nhau và không thể cùng tồn tại. Khi Salieri nhận ra khả năng hạn chế của mình trong nghệ thuật và nhất là khi ông phải đối mặt với một sự thật nghiệt ngã là Mozart lòng tin và niềm hy vọng vào phép mầu của Chúa trong ông đã sụp đổ. Cảnh Salieri ném cây Thánh giá vào lửa có một ý nghĩa rất lớn, trong một khía cạnh nào đó thì ông ta đã chọn Satan thay cho Chúa trời để phụng sự từ giây phút ấy. Thế nhưng Salieri là một người có hiểu biết và có khả năng cảm nhận âm nhạc rất cao, chứ không bị hạn chế như vua Áo. Ông khâm phục tài năng của Mozart, say mê âm nhạc của Mozart nhưng cũng biết cách sáng tác “phù hợp” với gu và khả năng thưởng thức của vua Áo. Yếu tố “chính khách” ở đây đóng một vai trò quan trọng. Ta có thể kết luận vấn đề này tuỳ theo quan điểm cá nhân nhưng Salieri đã thành công với một công chúng “giới hạn” và thất bại hoàn toàn trong nghệ thuật chân chính. Tự bản thân Salieri hiểu điều ấy. Mozart thật sự là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa đen của nó khi ông nắm lấy quyền chủ động sáng tác mà vở Opéra “Figaro” là một minh chứng. Không những ông đã dám vượt qua những rào cản chết người, vua Áo cấm trình diễn Figaro vì nội dung mâu thuẫn giai cấp của nó và bản thân em gái của ông – hoàng hậu Pháp Marie-Antoinette đã bị rơi đầu vì cách mạng Pháp, mà còn có tài năng để thuyết phục vua Áo. Mozart đã mạnh dạn phá bỏ các luật lệ trong âm nhạc, làm tất cả sửng sốt bởi cách tạo hợp ca trong liền 20 phút. Vẫn không một ai hiểu giá trị nghệ thuật của Mozart ngoài Salieri. Thời bấy giờ nhạc sĩ chỉ là một người viết nhạc thuê cho nhà giàu. Ví dụ như khi có sinh nhật cô con gái rượu, ông quý tộc sẽ gọi nhạc sĩ đến và nói rằng tôi muốn có một bản nhạc như thế này, thế kia…nói một cách khác là chỉ dẫn chính xác cần phải làm gì. Mozart không chấp nhận điều ấy, ông đấu tranh đòi hỏi quyền được tự do sáng tác và giá trị cho chính cá nhân nhạc sĩ – một chỗ đứng xứng đáng trong xã hội phong kiến châu Âu. Và Mozart đã phải trả giá rất đắt cho việc làm dũng cảm của mình. Không kiếm được việc làm trong giới quý tộc, chỉ sống bằng tiền công những tác phẩm nghệ thuật và lòng yêu mến của người dân thành Vienna, cuộc sống của Mozart gặp phải không ít khó khăn. Chính những mâu thuẫn rất gắt gao này đã tạo nên nhịp sống của Amadeus, làm thành các cao trào của phim, đưa người xem từ cảm xúc này đến cảm xúc khác một cách thật tự nhiên. Có thể đôi lúc ta chỉ cảm thấy cuộc đấu tay đôi giữa Salieri và Mozart nhưng nhìn chung bộ phim đã dựng lại thành công hiện thực xã hội cùng những “khuôn khổ” của nó thời Mozart. Khán giả không chỉ còn là một người xem đơn thuần mà thật sự đã là một nhân chứng trong phim, cùng sống những phút giây vinh quang và cực nhọc của đời một thiên tài. Có lẽ dạo diễn Milos Forman đã hơi quá mạnh tay khi dùng nghệ thuật tương phản tính cách để làm nổi bật Mozart trong khi Salieri lại thật sự không “xấu xa” đến như vậy trong lịch sử. Giả sử chúng ta ở trong hoàn cảnh ấy thì chắc cũng sẽ có những phản ứng tương tự để “bảo vệ” các quyền lợi của mình mà thôi. Giới hạn mong manh duy nhất giữ cho người ta biết dừng lại đúng lúc chỉ phụ thuộc vào mức độ “văn minh” của mỗi cá nhân. Salieri thật sự nham hiểm, thủ đoạn của ông ta không có gì mới nhưng cách thực hiện nó lại rất tinh vi và gây hậu quả nghiêm trọng. Xem Amadeus chắc bạn sẽ không thể nào quên được những cảnh phim ấn tượng với cao trào của các sự kiện mà NTL thích nhất cảnh Constanze mang bản thảo đến nhà Salieri để nhờ ông ta giúp chồng mình có được việc làm dạy nhạc cho cháu gái vua Áo. Salieri đã rất ngạc nhiên, ông ta thoạt tiên không hiểu lý do thật sự rồi sau đó nắm lại quyền chủ động (trong đoạn phim cắt bỏ có cảnh Salieri ép vợ Mozart phải ngủ với mình), một phần nào đó Salieri đã cảm thấy thoả mãn khi Mozart phải cầu cạnh mình. Thế nhưng ông ta lại không nghĩ tới một điều khác khi cầm trên tay những trang bản thảo gốc của Mozart: những nốt nhạc ngay ngắn, không một dấu tẩy xoá. Vẻ đẹp của âm nhạc sáng bừng lên trên những trang giấy, nó là hiện hữu của một tài năng không gì sánh nổi, vượt rất xa ngay chính Salieri. Cú đâm ấy là định mệnh. Salieri bàng hoàng, choáng váng, không tin ở mắt mình nữa. Những trang giấy vương vãi trên sàn nhà và nhạc sĩ cung đình chết điếng người đứng trơ trơ. Từ giây phút ấy Salieri coi Mozart là kẻ thù của mình trong âm nhạc. Ông tự nguyền sẽ tìm mọi cách để tiêu diệt Mozart. Khoảnh khắc ấy con quỷ trong Salieri đã lấn át phần người rất Thánh. Nếu bạn đến với Amadeus để hy vọng nhìn thấy một “thánh nhân” Mozart thì có thể bạn sẽ hơi thất vọng khi bắt gặp những cảnh ăn chơi đàng điếm của Mozart. Đơn giản ông cũng là một nghệ sĩ như bao người khác và là một con người bình thường có nhu cầu sống như tất cả mọi người. Cách phản xử theo hình thức và định kiến là sai lầm. Rồi bạn thấy mình bị cuốn đi trong âm nhạc thần thánh của Mozart, nức nở với nó và quên đi tất cả. Mỗi vở Opéra của Mozart ít nhiều có cảm hứng từ những sự kiện đã ghi dấu ấn mạnh mẽ trong cuộc đời ông. Và lại chỉ riêng Salieri nhìn thấy trong “Don Giovanini” hình ảnh Leopold trách móc cậu con trai không tuân lời và những lời sám hối của chính Mozart. Nước Áo thời ấy đã may mắn có được một vị vua yêu mến âm nhạc nhưng cũng chính những khả năng hạn chế trong cảm nhận âm nhạc của Joseph II đã là một định kiến nghiệt ngã với sáng tạo. Ông ta không đủ khả năng hiểu và cảm nhận Mozart. Vở Opéra Figaro của Mozart đã không thành công đơn giản cũng vì lẽ ấy. Nhưng Mozart không dừng lại. Nếu như người ta vẫn gọi ông là người đến từ hành tính khác thì sứ mệnh duy nhất của ông là sáng tác âm nhạc. Không nản chí vì những khó khăn vật chất, Mozart tiếp tục sáng tác. Hình ảnh nhạc sĩ viết nhạc ngay trên bàn billard là một minh họa rất thú vị về cuộc đời của ông. Mozart không có chỗ đứng xứng đáng trong cung đình đơn giản vì ông chưa bao giờ là một “chính khách” khéo léo nhưng trái lại cung đình cũng không phải là một môi trường thích hợp với Mozart bởi những hạn chế của nó. Trong phim ta không hề cảm thấy Mozart tiếc nuối việc làm tại hoàng cung sau những thành công rực rỡ ban đầu. Công chúng đã đón nhận tài năng của Mozart với tấm lòng rộng mở. Ở Vienna, Mozart được mọi người yêu mến và âm nhạc của ông đã thật sự đi vào lòng người. Với một nhạc sĩ thì còn có gì tuyệt vời hơn thế? Trước khi đến với cung đình Áo thì tài năng của Mozart đã bay đi rất xa, ngay cả chính Salieri cũng đã rất ngưỡng mộ thiên tài trẻ tuổi ấy. Hoàng cung đơn giản chỉ là một bước đệm, một thử nghiệm của Mozart với dòng nhạc “quý tộc” chứ nó chưa bao giờ có ảnh hưởng quan trọng tới cuộc đời sáng tác của ông. Bên cạnh một Mozart tài năng, tự tin đến ngạo mạn thì trong Amadeus ta còn gặp một Mozart khác biết phục thiện và rất độ lượng. Không phải ông không biết Salieri luôn tìm cách hãm hại mình nhưng trong buổi vua Áo trao giải thưởng cho Salieri, một trong những phần thưởng tối cao của hoàng gia, thì vượt ra ngoài tư duy hẹp hòi của Salieri, Mozart đã đến chúc mừng với tất cả sự chân thành trong nghệ thuật. Cũng từ đây cuộc đời của Mozart bắt đầu đi vào những bước ngoặt mới không kém phần đau khổ. Đôi khi người xem tự hỏi làm sao một tâm hồn phong phú và nhạy cảm đến nhường ấy lại có thể chung sống với một người đàn bà “tầm thường” và hoàn toàn “thực dụng” như Constanze? Cô ta chưa bao giờ thật sự hiểu công việc của chồng, điều quan tâm duy nhất chỉ là tiền nhuận bút. Hình như Mozart cũng không có nhu cầu chia xẻ về nghệ thuật với Constanze, hai con người ấy tự nhiên hài hòa với nhau một cách lạ kỳ trong cuộc sống. Một phần nào sự bình yên trong gia đình ấy cũng là một chỗ dựa tốt cho nhạc sĩ những lúc thiếu thốn về vật chất. Giã từ hoàng cung, Mozart đến với thế giới bình dân – một môi trường âm nhạc đại chúng, rộng hơn rất nhiều và ít khắt khe hơn. Đây mới chính là thế giới của ông với tự do đích thực và một công chúng có khả năng đón nhận những sáng tạo mới mẻ. Phần cuối của phim ta có thể nhận thấy hai sự kiện chính: cái chết của người cha, Leopold, và sức khoẻ của Mozart đang cạn kiệt dần. Về mặt tinh thần thì Leopold đã luôn là một chỗ dựa, nơi mà Mozart có thể tìm thấy những lời khuyên bảo hay nói một cách khác là ông luôn tìm thấy sự che chở nơi Leopold. Cùng với sự ra đi của người cha Mozart chơi vơi và đau khổ tột cùng. Những cảm xúc ấy đã góp phần tạo nên tác phẩm nổi tiếng “Don Giovanni”. Amadeus không tìm cách lý giải hay phân tích âm nhạc của Mozart nhưng nó thật sự là một tiền đề rất thú vị, tạo cảm hứng cho những ai từ trước đến nay ít quan tâm đến nhạc cổ điển. Sau khi xem Amadeus không ít người tìm nghe nhạc Mozart để cảm thấy những điều kỳ diệu của những thế kỷ trước. Trong những cảnh phim về cuối, Mozart luôn xuất hiện với bộ dạng xanh xao và chai rượu giải sầu thường trực. Sự túng thiếu và cả thói ăn chơi hoang phí sức khoẻ đang giết dần, giết mòn tài năng ấy. Nhưng Mozart cần đến chúng như một cách tự giải thoát khỏi những bức bách trong sáng tạo, tuyệt vọng tìm cách thoát ra khỏi chính mình, đi tìm một điều mà chỉ có Mozart biết, hay thậm chí chính ông cũng chưa biết. Sáng tạo. Cảm ơn thành phố Praha đã cho phép camera quay tự do 360° và tái tạo lại chính xác nhất khung cảnh xã hội thời đó, cho người xem tới gần hơn và hiểu nhiều hơn số phận kỳ lạ của một thiên tài. Một trong những sự kiện gây ấn tượng ma quái trong phim là cảnh một người giấu mặt trong trang phục hoá trang của Leopold đến nhà đặt Mozart viết bản nhạc cầu hồn Requiem. Bây giờ người ta đã biết được chính xác tên của nhà quý tộc giấu mặt ấy nhưng trong phim thì đó chính là Salieri với mục đích tìm mọi cách huỷ hoại không những về thể chất mà cả tâm hồn Mozart. Riêng mình Salieri đã tìm được điểm yếu của Mozart sau khi xem vở Don Giovanni và ông ta liên tục xoáy vào đó. Những sự kiện tiếp nối dồn dập, sự túng quẫn đã ép Mozart làm việc quá sức cộng thêm với niềm đam mê sáng tạo ngày càng đưa nhạc sĩ gần tới cái chết được dự báo trước. Đạo diễn Milos Forman đã khéo léo thay đổi một vài chi tiết trong lịch sử để đẩy mâu thuẫn trong phim lên tới đỉnh điểm, làm tỏa sáng hơn bao giờ hết tài năng của Mozart. Bạn có thể nói chi tiết khi Mozart nằm trên giường bệnh và Salieri đã không theo kịp những ý sáng tạo trong âm nhạc của Mozart là thái quá nhưng NTL nhìn thấy ở đây một thủ pháp nghệ thuật đơn thuần. Một cuộc so gươm theo đúng truyền thống thời bấy giờ về tinh thần. Tất nhiên ta cũng nên biết rằng người chép những nốt nhạc cuối cùng này là một học trò của Mozart chứ không phải Salieri. Như thế cho đến tận phút cuối cùng Mozart đã hoàn toàn chinh phục Salieri bằng chính tài năng của mình. Salieri có thể hãm hại Mozart trên đường danh vọng hay có thể làm cho ông túng thiếu trong cuộc sống nhưng không bao giờ, không bao giờ Salieri có được tài năng âm nhạc như của Mozart. Thêm nữa nghệ thuật chân chính không cần danh vọng. Ta cũng cần phải nói lời cảm ơn dành cho dàn nhạc giao hưởng danh tiếng “The Academy of St Martin in the Fields” đã thể hiện rất thành công các tác phẩm của Mozart cùng với các dàn đồng ca Ambrosian Opera Chorus, Academy of St Martin in the Fields Chorus, và The Choristers of Westminster Abbey. Nếu thiếu họ Amadeus đã không thể thành công. Cho đến từng khuôn hình cuối cùng người xem hoàn toàn mê đắm trong âm nhạc của Mozart và chính âm nhạc thần thánh ấy đã đưa tiễn nhạc sĩ ra đi hoàn toàn vô danh, trong một nghĩa trang công cộng, trong một ngôi mộ tập thể. Những lời kinh cầu vội vã, những chiếc xẻng vôi tạm bợ trong một ngày mưa tầm tã như muốn nhấn mạnh hơn cái “vô ngã” và làm nổi bật con người Mozart. Sự trở về muộn màng của Constanze và cậu con trai giống như kết thúc đẹp của một câu chuyện cổ tích, một sự an ủi tối hậu. Trong số những người đưa tiễn Mozart (chỉ tới cửa ô) ta có thể bắt gặp những khuôn mặt quen thuộc của hoàng gia, của bạn bè và của cô bé người hầu nức nở khóc một cách tuyệt vọng. Có lẽ cô mới là người thật sự hiểu giá trị con người của Mozart. Thiên Chúa đã chọn cách trả lời của riêng mình cho Salieri. Nếu như lúc đương thời vở “Axur” của ông ta đã được công diễn 100 lần, so với 5 lần của “Don Giovanni” và 9 lần cho “Marriage of Figaro”, thì ngày nay gần như không còn ai biết đến Salieri nữa. Bộ phim khép lại với cảnh Salieri hoàn toàn mất trí, được đẩy đi giữa đám người điên loạn cũng là một câu trả lời hay tuy rất kịch. Trong mỗi con người chúng ta đều tồn tại một Salieri. Riêng Mozart là duy nhất.
    • 0 downloads
    Bộ phim là sự pha trộn giữa những thước phim tư liệu, các cuộc phỏng vấn và những cảnh quay dàn dựng, giúp khán giả bước vào thế giới của Chet Baker – chàng nhạc sĩ trumpet lãng tử với chất giọng trầm buồn, người đã từng làm say đắm cả thế giới nhạc jazz thập niên 1950. Từ những ngày tháng huy hoàng trên sân khấu, nơi Baker được coi là biểu tượng của dòng cool jazz, đến những năm tháng suy tàn khi ông bị ma túy hủy hoại, Let’s Get Lost khắc họa một cách chân thực và đầy cảm xúc về một tài năng thiên bẩm bị đánh gục bởi chính những cơn nghiện và sự cô đơn. Những người thân cận nhất của Baker – từ vợ cũ, bạn bè, đồng nghiệp đến những người tình – đều xuất hiện trong phim để kể về con người thật của ông: một nghệ sĩ tài hoa nhưng cũng là một kẻ lạc lối trong cuộc đời, mãi mãi bị cuốn vào vòng xoáy của tình yêu, ma túy và âm nhạc. Khi bộ phim được hoàn thành, Chet Baker cũng chỉ còn vài tháng để sống. Ông qua đời bí ẩn tại Amsterdam vào năm 1988, rơi từ cửa sổ tầng hai của một khách sạn – kết thúc một cuộc đời đầy biến động. Hình ảnh cuối cùng của Baker trong phim – gương mặt hốc hác, đôi mắt thăm thẳm, tiếng kèn vẫn da diết như những ngày đầu – để lại trong lòng khán giả một nỗi ám ảnh khó quên.
    • 0 downloads
    01 - Giot Le Sau (Phương Phương Thảo) 02 - Mot Doi Yeu Anh (Phương Phương Thảo) 03 - Dalat Hoang Hon (Phương Phương Thảo) 04 - Mua Thu Chet (Phương Phương Thảo) 05 - Cho Nguoi (Phương Phương Thảo) 06 - Di Tim Ky Niem (Phương Phương Thảo) 07 - Ky Niem Xa Bay (Phương Phương Thảo) 08 - Mua Chieu Ky Niem (Phương Phương Thảo) 09 - Dinh Menh (Phương Phương Thảo) 10 - Vet Thuong Cuoi Cung (Phương Phương Thảo) 11 - Dem Vu Truong (Phương Phương Thảo)
    • 0 downloads
    01 - Que Xa (Phương Phương Thảo) 02 - Khong Can Phai Hua Dau Anh (Phương Phương Thảo) 03 - Em Anh Va Co Ay (Phương Phương Thảo) 04 - Than Thoai (Phương Phương Thảo) 05 - Que Nha (Phương Phương Thảo) 06 - Khi Nguoi Lon Co Don (Phương Phương Thảo) 07 - Dem Nghe Tieng Mua (Phương Phương Thảo) 08 - Khong La Tinh Nhan (Phương Phương Thảo) 09 - Vay Cung Vui (Phương Phương Thảo) 10 - Hay Quay Ve Khi Con Yeu Nhau (Phương Phương Thảo)
    • 0 downloads
    01 - Intro (Dab) 02 - Anh Buồn (Dab) 03 - Ai Sẽ Chữa Lành Tổn Thương (Dab) 04 - Anh Đã 0 Dám Quay Trở Lại (Dab, Dangrangto) 05 - Đã Quá Lâu (Dab, Dewie) 06 - Dark Side (inderlude) (Dab) 07 - Such A Shame (Dab, BIG WIND) 08 - Liệu Em Có Biết (Dab) 09 - Lả Lơi - Extended (Dab, Dangrangto) 10 - Vì Anh Đã Sai Lời Hứa (Dab)
    • 0 downloads
    01 - Những Điều Nhỏ Nhoi (Bùi Hà Miên) 01 - Tự Nguyện (Bùi Hà Miên) 02 - Mùa Xuân Đầu Tiên (Bùi Hà Miên) 03 - Bài Ca Hy Vọng (Bùi Hà Miên) 04 - Chiếc Khăn Piêu (Bùi Hà Miên) 05 - (Bonus) Memory (Bùi Hà Miên) 06 - (Bonus) Proud Of You (trio) (Bùi Hà Miên)
    • 0 downloads
    01 - Thắp Sáng Nơi Em 02 - Hào Quang 03 - Catch Me If You Can 04 - Ngáo Ngơ 05 - Kim Phút Kim Giờ 06 - Mashup_ Có Bao Lần - Sau Lời Từ Khước 07 - Lại Là DG House 08 - Anh Đã Làm Gì Đâu 09 - Anh Trai Hiphop 10 - Mashup_ Đóa Hồng Chơi Vơi - Rồi Em Sẽ Gặp Một Chàng Trai Khác 11 - Mashup_ Mùa Xuân Đầu Tiên - Phút Giao Thừa Lặng Lẽ 12 - Khát Vọng Là Người Việt 13 - Tứ Hải Phát Tài
    • 0 downloads
    Câu chuyện xoay quanh Chas (James Fox) – một tên gangster bạo lực và tàn nhẫn đang làm việc cho một tổ chức tội phạm ở London. Chas có tính khí nóng nảy, thường xuyên sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề, nhưng một ngày nọ, anh đã đi quá giới hạn khi giết chết một kẻ thù mà không có sự cho phép của ông trùm. Biết rằng mình đang bị săn lùng, Chas buộc phải lẩn trốn. Anh tìm đến một căn hộ bí ẩn và thuê một phòng tại nhà của Turner (Mick Jagger) – một cựu ngôi sao nhạc rock lập dị, sống ẩn dật cùng hai người phụ nữ trong một thế giới đầy ma túy, tình dục và triết lý nghệ thuật. Ban đầu, Chas cảm thấy lạc lõng giữa phong cách sống kỳ quái của Turner, nhưng dần dần, sự khác biệt giữa hai người mờ dần khi cả hai bắt đầu tác động lẫn nhau. Turner, với quan điểm tự do và trải nghiệm ma túy, muốn giúp Chas "tái khám phá bản thân", trong khi Chas lại chống cự trước sự thay đổi đó. Những ảo giác và những cuộc đối thoại xoáy sâu vào danh tính, sự kiểm soát và bản chất của con người. Khi ranh giới giữa thực tại và ảo giác trở nên mong manh, bộ phim dần đi đến một cao trào đầy bất ngờ, nơi Chas không còn là chính mình, và Turner cũng có thể đã thay đổi mãi mãi.
    • 0 downloads
    Câu chuyện xoay quanh Vada Sultenfuss (Anna Chlumsky), một cô bé 11 tuổi sống cùng người cha góa vợ Harry (Dan Aykroyd) ở một thị trấn nhỏ vào thập niên 70. Đặc biệt, Harry làm nghề… tổ chức tang lễ ngay tại nhà, khiến Vada lớn lên giữa những chiếc quan tài và không khí ảm đạm. Cô bé nhạy cảm, hơi lập dị và luôn bị ám ảnh bởi cái chết. Bạn thân nhất của Vada là Thomas J. Sennett (Macaulay Culkin), một cậu bé hiền lành, tốt bụng nhưng mắc chứng dị ứng nghiêm trọng. Hai đứa trẻ cùng nhau khám phá cuộc sống, chia sẻ những bí mật và trải qua mùa hè đáng nhớ. Mọi chuyện bắt đầu thay đổi khi cha của Vada yêu Shelly DeVoto (Jamie Lee Curtis), một phụ nữ vui vẻ, hoạt bát. Vada cảm thấy mất đi sự quan tâm của cha và bắt đầu nổi loạn. Cô bé cũng bắt đầu có những rung động đầu đời với thầy giáo của mình, dẫn đến nhiều tình huống dở khóc dở cười. Tuy nhiên, cú sốc lớn nhất xảy ra khi Thomas J. qua đời sau khi bị ong đốt do cậu vô tình chạm vào một tổ ong trong rừng. Mất đi người bạn thân nhất, Vada chìm trong đau khổ và lần đầu tiên đối diện với sự mất mát thực sự. Nhưng nhờ Shelly và cha mình, cô bé dần học cách chấp nhận và trưởng thành.
  1. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    Vào năm 1536, một nhà giả kim Tây Ban Nha chế tạo ra một thiết bị bí ẩn có hình dạng như một con bọ bằng vàng, được gọi là Cronos Device. Nó có khả năng ban cho chủ nhân sự bất tử bằng cách tiêm một chất lỏng kỳ lạ vào cơ thể họ. Thế nhưng, thiết bị này bị thất lạc trong nhiều thế kỷ. Gần 400 năm sau, tại Mexico, Jesús Gris (Federico Luppi), một ông lão tốt bụng sở hữu một cửa hàng đồ cổ, tình cờ tìm thấy Cronos Device bên trong bức tượng của một thiên thần cũ kỹ. Khi tò mò kích hoạt thiết bị, nó bất ngờ bám chặt lấy tay ông và tiêm vào cơ thể một chất lỏng màu đỏ, khiến ông cảm thấy trẻ trung hơn, mạnh mẽ hơn, nhưng cũng bắt đầu có những cơn thèm khát máu không thể kiểm soát. Không chỉ có Jesús quan tâm đến thiết bị này. De la Guardia (Claudio Brook), một tỷ phú già nua, bệnh tật, đã tìm kiếm Cronos Device trong nhiều năm với hy vọng kéo dài sự sống. Hắn sai cháu trai mình, Ángel (Ron Perlman), truy lùng Jesús để cướp lấy thiết bị. Khi Jesús bắt đầu nhận ra tác dụng đáng sợ của Cronos Device, ông phải đối mặt với những thay đổi kinh hoàng trong cơ thể: da trở nên tái nhợt, ánh sáng mặt trời làm ông đau đớn, và cơn khát máu ngày càng mạnh mẽ. Nhưng hơn tất cả, Jesús lo lắng về cô cháu gái nhỏ Aurora (Tamara Shanath), người duy nhất vẫn yêu thương và tin tưởng ông dù ông đã trở nên quái dị. Để bảo vệ gia đình, Jesús quyết định đối đầu với De la Guardia, đồng thời tìm cách phá hủy thiết bị quỷ dữ này. Cuộc chiến giữa lòng tham và tình yêu thương lên đến đỉnh điểm trong một cái kết đầy bi kịch nhưng cũng đầy nhân văn.
    • 0 downloads
    “Gladiator II” tiếp nối thành công của phần đầu tiên, mang đến câu chuyện sử thi về quyền lực và sự suy tàn của Đế chế La Mã. Ngoài sự trở lại của các nhân vật quen thuộc, bộ phim còn thu hút người xem bằng những phân cảnh chiến đấu hoành tráng và âm nhạc khí thế. Bi kịch của chiến binh trẻ Lấy bối cảnh mười sáu năm sau cái chết của Hoàng đế Marcus Aurelius, đế chế La Mã đã trải qua hàng loạt biến động với nhiều đời vua nối tiếp nhau. Quyền lực của Rome tiếp tục trải dài ra tận châu Phi, đến vùng đất mới mang tên Africa Nova (Bắc Phi). Tướng Marcus Acacius (Pedro Pascal) dưới sự chỉ đạo của hai hoàng đế song sinh bạo lực và tham vọng, dẫn đầu một hạm đội La Mã hùng mạnh, cập bến vào thành phố Numidia, vùng đất cuối cùng vẫn chưa rơi vào tay Rome. Bộ phim mở màn bằng một phân cảnh hành động nghẹt thở, khi hạm đội tàu chiến La Mã, do Acacius chỉ huy, đổ bộ lên pháo đài Numidia. Quân La Mã nhanh chóng chiếm giữ thành phố, gieo rắc nỗi sợ hãi và cướp đi sinh mạng của nhiều người dân vô tội. Lucius, một trong những nạn nhân của cuộc xâm lược dã man, bị bắt và đưa về đấu trường. Gladiator II theo chân Lucius Verus (Paul Mescal), nay được gọi bằng cái tên Hanno, một chiến binh trẻ sống sót sau sự tàn phá của cuộc xâm lược La Mã tại Bắc Phi. Sự tàn bạo của cuộc chiến khiến anh mất đi tất cả – quê hương, gia đình và niềm tin vào công lý. Những mất mát và đổ vỡ biến Lucius thành một chiến binh đầy phẫn nộ. Anh căm hận và khao khát trả thù, khao khát lật đổ đế chế mà Rome đại diện. Số phận của Lucius rẽ vào bước ngoặt khi anh lọt vào mắt xanh của Macrinus (Denzel Washington), một kẻ môi giới nô lệ với mục đích mơ hồ. Macrinus thấy được tiềm năng của Lucius và chiêu mộ anh tham gia vào những cuộc đấu đẫm máu, với lời hứa sẽ giúp anh trả thù Acacius. Dưới sự giúp đỡ của Macrinus, Lucius dấn thân vào đấu trường sinh tử, dần dần khám phá sự thật về gia đình và tìm cách đối đầu với những kẻ thù mà anh chưa từng biết. Thừa giải trí nhưng chưa đủ “chạm” Hai mươi bốn năm trước, Gladiator là một sự kết hợp đầy kỳ lạ của cái cũ và cái mới: một tác phẩm hành động đậm chất bạo lực nhưng lại mang đậm tính văn học của Hollywood thời hoàng kim, kết hợp sử dụng công nghệ VFX tiên tiến lúc bấy giờ. Bộ phim vừa hiện đại, vừa gợi nhớ lại những khung hình lịch sử kinh điển của thể loại sword and sandal như The Sign of the Cross (1932) hay Quo Vadis (1951). Gladiator (2000) gây ấn tượng mạnh mẽ nhờ quy mô hoành tráng và tính sử thi của nó, nhưng điều thực sự khiến bộ phim này chạm đến trái tim khán giả chính là hành trình trả thù đầy cảm xúc của Maximus – một đấu sĩ La Mã lừng danh, nhân vật mà Russell Crowe đã khắc sâu tên tuổi vào ký ức của hàng triệu khán giả. Cái chết tàn bạo của gia đình Maximus không chỉ là nguồn gốc của lòng căm thù, mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy anh trên con đường báo thù. Sự hy sinh của Maximus cho công lý, cùng với cái chết bi thương của anh tại Đấu trường La Mã, tạo nên một câu chuyện đắng cay, ngọt ngào và đầy cảm xúc. Tham vọng kế thừa câu chuyện về vẻ đẹp và bi kịch của những đấu sĩ trên Đại Hý Trường, nhưng Gladiator II quá chú trọng vào những cuộc chiến thể xác và chính trị khiến động cơ của Lucius trở nên mơ hồ và thiếu rõ ràng trong suốt phần lớn bộ phim. Kịch bản không cho phép chàng chiến binh có đủ thời gian và không gian để xử lý nỗi đau cũng như những mâu thuẫn bên trong, dẫn đến cảm giác rằng câu chuyện của Lucius vẫn chưa được kể trọn vẹn. Thay vì là một người lãnh đạo bị dồn ép bởi những nghịch cảnh, Lucius dường như trở thành một quân cờ trong trò chơi quyền lực của những người khác. Điều này làm cho người xem khó có thể cảm nhận được bi kịch trong hành trình của anh. Diễn xuất của Paul Mescal cố gắng truyền tải cảm xúc và những mâu thuẫn trong lòng Lucius, nhưng sự thiếu vắng của một kịch bản mạnh mẽ đã khiến nhân vật này không thể tỏa sáng đúng mức. Một điểm cộng bù lại là mối quan hệ giữa Lucius và mẹ anh, Lucilla, con gái của cố Hoàng đế Marcus Aurelius. Khoảnh khắc hai mẹ con đoàn tụ là lúc Lucius có cơ hội để thể hiện chiều sâu trong cảm xúc của mình. Đứng trước người mẹ hơn mười lăm năm xa cách, Lucius không còn là một người thừa kế quyền lực, cũng không còn là một đấu sĩ can trường, anh chỉ là một người con tìm kiếm sự bảo vệ và thuộc về. Cảnh tượng này giúp làm rõ hơn động lực của anh, mang đến cho nhân vật Lucius một mục đích rõ ràng hơn chứ không đơn thuần là chuyện trả thù. Vẻ đẹp bi tráng của “thành phố vĩnh cửu” Với Gladiator II, Ridley Scott tiếp tục thể hiện tài năng trong việc xây dựng một thế giới tráng lệ và đầy kịch tính qua ngôn ngữ hình ảnh. Các cảnh quay mang lại ấn tượng choáng ngợp khi giới thiệu thành Rome vĩ đại, nơi quyền lực và sự xa hoa vẫn còn đậm nét, dù đang dần bị xói mòn. Những tòa nhà nguy nga, bầu trời rộng lớn và những trận chiến đẫm máu được thể hiện trong những đại cảnh hoành tráng tạo cho người xem cảm giác như đang bị cuốn vào không gian bạo lực và quyền lực của một đế chế sắp suy vong. Ngay từ những phút đầu tiên, bộ phim đã thu hút khán giả bằng một cảnh chiến đấu ngoạn mục của đội hải quân La Mã tấn công các pháo đài ven biển, những cú máy sắc nét và nhịp điệu căng thẳng đã thành công khắc họa sự khốc liệt của cuộc chiến. Gladiator II tiếp nối sự hoành tráng của phần đầu tiên, nhưng tạo ra một cú hích mạnh mẽ nhờ công nghệ làm phim hiện đại. Các trận chiến trong phim được dàn dựng với quy mô khổng lồ, kết hợp giữa kỹ thuật quay phim truyền thống và những sáng tạo công nghệ tiên tiến, tạo nên những pha hành động hùng vĩ mà chân thực. Ridley Scott vẫn chứng tỏ mình là bậc thầy trong việc tạo ra những cảnh hỗn loạn đầy kịch tính. Một trong những điểm nhấn đáng chú ý của Gladiator II chính là trận thủy chiến diễn ra trong đấu trường Colosseum ngập nước, nơi những con cá mập bơi lội tự do giữa các đấu sĩ. Đạo diễn người Anh không tiếc công sức để tái hiện một không gian vừa đồ sộ vừa quyến rũ, khiến người xem như bị cuốn vào cơn cuồng nộ của đất, nước và máu, trong tiếng gầm thét của đám đông. Từng chi tiết tinh tế từ kiểu tóc, lớp trang điểm đến thiết kế trang phục đã tạo nên một không gian lịch sử đầy hoài niệm, lột tả hoàn hảo Đế chế La Mã trong toàn vẹn vẻ bi tráng của nó.
    • 0 downloads
    Paddington trở về Peru để thăm dì Lucy yêu quý của mình, người hiện đang sống tại Nhà cho Gấu đã nghỉ hưu. Cùng với gia đình Brown, một cuộc phiêu lưu ly kỳ xảy ra khi một bí ẩn đưa họ vào một hành trình bất ngờ.
    • 0 downloads
    Francis – một chú mèo nhà thông minh và hay tò mò – cùng chủ nhân chuyển đến một khu phố mới. Nhưng ngay khi vừa đặt chân đến, Francis phát hiện ra một loạt vụ giết mèo man rợ đang diễn ra. Xác mèo chất đống, những vết thương kỳ lạ xuất hiện trên thi thể, và không ai trong khu phố dám nói về điều đó. Với bản tính tò mò, Francis quyết định điều tra cùng một chú mèo béo lắm lời tên Bluebeard. Trên hành trình đó, Francis khám phá ra nhiều điều kỳ lạ, Francis dần ghép nối những mảnh ghép của vụ án, để rồi phát hiện ra một sự thật kinh hoàng: kẻ giết mèo chính là Pascal, một con mèo nhà có trí tuệ siêu việt, từng là vật thí nghiệm trong phòng thí nghiệm Claudandus. Pascal tin rằng mình có sứ mệnh "thanh lọc" giống loài mèo, tạo ra một giống mèo thuần chủng, thông minh hơn và không còn phụ thuộc vào con người. Cuộc đối đầu giữa Francis và Pascal trở thành một trận chiến không khoan nhượng, kết thúc bằng cái chết bi thảm của Pascal khi phòng thí nghiệm bị thiêu rụi.
    • 0 downloads
    01 - Gió Mùa Xuân Tới (Various Artists) 02 - Lý Xuân Quê Hương (Various Artists) 03 - Mộng Lành (Various Artists) 04 - Gửi Tình Vào Xuân (Various Artists) 05 - Xuân Vẫn Nhớ Người (Various Artists) 06 - Rước Xuân Về Nhà (Various Artists)
    • 0 downloads
    01 - Sương Lạnh Chiều Đông (Phương Phạm Guitarist) 02 - Sang Ngang (Phương Phạm Guitarist) 03 - Trang Nhật Ký (Phương Phạm Guitarist) 04 - ANh Đi Chiến Dịch (Phương Phạm Guitarist) 05 - Mười Năm Tái Ngộ (Phương Phạm Guitarist) 06 - Hoa Trinh Nữ (Phương Phạm Guitarist) 07 - Phận Má Hồng (Phương Phạm Guitarist) 08 - Gửi Cánh Mấy Trôi (Phương Phạm Guitarist) 09 - Nỗi Buồn Hoa Phượng (Phương Phạm Guitarist) 10 - Biển Mặn (Phương Phạm Guitarist) 11 - Đồi Thông 2 Mộ (Phương Phạm Guitarist) 12 - Khói Lam Chiều (Phương Phạm Guitarist) 13 - Hàn Mạc Tử (Phương Phạm Guitarist) 14 - Tìm Về (Phương Phạm Guitarist) 15 - Hoa Nhớ Thương Ai (Phương Phạm Guitarist) 16 - Xa lộ không đèn (Phương Phạm Guitarist) 17 - Lâu Đài Tình Ái (Phương Phạm Guitarist)
    • 0 downloads
    01. Venise Pour L'éternité (Remastered) - Don Ho 02. Tout-Tout Doucement (Remastered) - Ngoc Lan 03. Je Ne T'aime Plus (Remastered) - Don Ho 04. La Musica (Remastered) - Minh Xuân 05. Don't Expect Me To Be Your Friend (Remastered) - Don Ho 06. Torn Between Two Lovers (Remastered) - Ngoc Huong 07. La Drole De Fin (Remastered) - Minh Xuân 08. Right Here Waiting (Remastered) - Don Ho 09. If You Leave Me Now (Remastered) - Sandie Ngọc Lan 10. In My Eyes (2025) (Remastered) - Don Ho 11. Vũ Khúc Paris (Remastered) - Hương Thơ 12. Mes Mains Sur Tes Hanches (Remastered) - Don Ho
    • 1 download
    Bộ phim theo chân Bob Hughes, một kẻ nghiện ma túy sống ngoài vòng pháp luật, cùng băng nhóm của mình chuyên đi cướp thuốc từ các hiệu thuốc để duy trì cơn nghiện. Cả nhóm rong ruổi trên những con đường ở vùng Tây Bắc nước Mỹ, thực hiện hàng loạt vụ trộm táo tợn nhưng đầy vụng về. Cuộc sống của họ xoay quanh những liều thuốc, những cuộc chạy trốn và sự ám ảnh với những điềm xui xẻo. Nhưng rồi một bi kịch xảy ra: Nadine chết vì sốc thuốc, và điều này khiến Bob bắt đầu suy nghĩ lại về cuộc sống của mình. Cảm giác tội lỗi bủa vây, anh quyết định rời bỏ băng nhóm, cai nghiện và làm lại từ đầu. Tuy nhiên, rời khỏi con đường cũ không hề dễ dàng – Bob không chỉ phải đối mặt với những cơn vật vã mà còn với cả những kẻ từng là đồng bọn của mình.
    • 0 downloads
    Gia đình Russell đang có một cuộc sống ổn định tại vùng ngoại ô Chicago. Tuy nhiên, khi ông bà ngoại của ba đứa trẻ gặp vấn đề sức khỏe, bố mẹ của chúng – Bob và Cindy – phải rời đi gấp để chăm sóc. Trong tình thế không còn ai trông coi bọn trẻ, họ buộc phải nhờ đến Buck, người chú lôi thôi nhưng hài hước, sống độc thân và không có công việc ổn định. Buck đến nhà anh trai để trông nom ba đứa cháu: Tia (Jean Louisa Kelly) – một cô bé tuổi teen nổi loạn, Miles (Macaulay Culkin) và Maizy (Gaby Hoffmann) – hai đứa trẻ hồn nhiên nhưng hiếu động. Tia đặc biệt không thích sự có mặt của Buck và luôn tìm cách chống đối, trong khi hai em nhỏ nhanh chóng bị cuốn hút bởi sự hài hước và tính cách lập dị của chú. Trong khi cố gắng thích nghi với vai trò "người trông trẻ bất đắc dĩ", Buck tạo ra hàng loạt tình huống dở khóc dở cười: làm cháy bếp khi nấu ăn, đưa bọn trẻ đến trường theo cách vô cùng lôi thôi, và đặc biệt là gây ra vô số rắc rối trong nỗ lực bảo vệ Tia khỏi cậu bạn trai không đáng tin của cô. Dù có vẻ lộn xộn và bất cẩn, Buck thực sự quan tâm đến các cháu và dần dần giành được tình cảm của Tia, giúp cô nhận ra giá trị của gia đình. Đồng thời, Buck cũng học được trách nhiệm và ý nghĩa của sự gắn kết, khiến anh suy nghĩ nghiêm túc hơn về cuộc sống của mình, đặc biệt là về mối quan hệ với bạn gái lâu năm, Chanice.
    • 0 downloads
    Izzy Grossman là một phụ nữ trẻ độc lập sống ở Manhattan, làm việc trong một hiệu sách và có niềm đam mê với văn học. Cô yêu thích lối sống thành thị sôi động và luôn mong muốn tìm kiếm một tình yêu lãng mạn như trong những cuốn tiểu thuyết mà cô đọc. Tuy nhiên, bà ngoại cô , một người gốc Do Thái truyền thống sống ở Lower East Side, không tin vào tình yêu "hiện đại" mà Izzy theo đuổi. Với mong muốn thấy cháu gái mình ổn định và kết hôn, bà đã nhờ một bà mối nổi tiếng trong cộng đồng sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa Izzy và Sam Posner (do Peter Riegert thủ vai) – một người bán dưa muối khiêm tốn nhưng chân thành và tốt bụng. Ban đầu, Izzy phản đối kịch liệt vì cô cho rằng Sam không phù hợp với lối sống và những hoài bão của mình. Cô bị thu hút bởi một nhà văn nổi tiếng, Anton (Jeroen Krabbé), người dường như có tất cả những gì cô tìm kiếm. Nhưng khi cô dần hiểu hơn về Sam – một người đàn ông giản dị, chân thật và biết quan tâm – Izzy bắt đầu nhận ra rằng tình yêu không phải lúc nào cũng đến từ những nơi ta mong đợi.