Jump to content

Joker

Quản Trị
  • Joined

Everything posted by Joker

    • 0 downloads
    "Smokey and the Bandit" (1977) là một bộ phim hài hành động do Hal Needham đạo diễn. Phim kể về một tay đua đường phố, Bandit (Burt Reynolds), và người bạn đồng hành của anh, Snowman (Jerry Reed), khi họ nhận nhiệm vụ vận chuyển một lô hàng bia từ Texas đến Georgia trong vòng 28 giờ. Trong khi đó, họ phải tránh sự truy đuổi không ngừng của Cảnh sát trưởng Buford T. Justice (Jackie Gleason). Phim nổi bật với các pha hành động tốc độ cao, tình huống hài hước và một loạt các cảnh rượt đuổi hấp dẫn.
  1. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    Tại biên giới Mỹ-Mễ có một gã du đãng mặc quân phục Liên Bang đã cũ sờn, kéo lê một cỗ quan tài trên nền bùn nhầy nhụa vào thị trấn. Nơi này đang sắp diễn ra cuộc xử tử ả giang hồ María, mà kẻ đầu têu là thiếu tá Nam Kỳ Jackson - một kẻ phân biệt chủng tộc hạng nặng. Thị trấn bỏ hoang này chỉ có lão chủ tửu điểm cùng 5 ả đĩ, tuyên bố tình trạng trung lập giữa phe Áo Đỏ của thiếu tá Jackson và phe Cách Mạng của tướng Hugo Rodríguez. Django bắt đầu gây hấn rồi diệt đảng Áo Đỏ để trả thù cho cái chết của người tình cũ, nhưng rồi chính y giúp Jackson đánh phá Hugo hòng cướp số vàng lão cướp được trong buổi loạn lạc.
    • 0 downloads
    Bộ phim "The Final Countdown" (1980) là một bộ phim khoa học viễn tưởng của Mỹ do Don Taylor đạo diễn. Nội dung phim xoay quanh một tàu sân bay hiện đại của Hải quân Mỹ, USS Nimitz, khi nó vô tình bị cuốn vào một cơn bão thời gian và quay ngược trở lại thời kỳ trước khi xảy ra cuộc tấn công Pearl Harbor vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Khi tàu sân bay nhận ra rằng mình đang ở thời điểm trước khi Nhật Bản tấn công căn cứ hải quân Mỹ ở Pearl Harbor, các thành viên trên tàu đứng trước một quyết định lớn: liệu họ có nên can thiệp và thay đổi lịch sử hay giữ nguyên các sự kiện như đã xảy ra. Bộ phim khai thác các vấn đề đạo đức và quân sự liên quan đến việc thay đổi lịch sử và những hậu quả của nó. "The Final Countdown" nổi bật với việc kết hợp yếu tố khoa học viễn tưởng với các yếu tố lịch sử và quân sự, tạo nên một câu chuyện hấp dẫn về sự tương tác giữa các sự kiện lịch sử và công nghệ hiện đại.
    • 0 downloads
    Hoài cổ. Đó là từ mà cả nhà sản xuất Steven Spielberg và đạo diễn J.J Abrams đều nhắc đến khi nói về Super 8, bộ phim hè mới nhất của bộ đôi ăn ý này. Super 8 vốn là tên thương hiệu của loại phim 8mm do Kodak sản xuất, dùng phổ biến cho các loại máy quay nhỏ, dành cho gia đình, rất phổ biến tại Mỹ trước khi băng video ra đời. Dòng sản phảm này được tung ra thị trường năm 1965 và rất nhanh chóng dẫn dắt một thế hệ trẻ em bước vào thế giới của những cú máy. Nhiều người trong số họ đã trở thành những nhà làm phim nổi tiếng như chính bản thân J.J Abrams. Không có gì lạ khi đạo diễn này nói rằng tất cả những nhân vật nhí trong phim đều có một phần của anh: một đám trẻ tụ lại để làm một bộ phim về xác sống. Hoài cổ còn là để nhắc đến những dấu ấn của Steven Spielberg: ngay từ trong đoạn trailer khá úp mở (như vẫn thường thấy ở J.J Abrams), khán giả của những bộ phim trong thập niên 80 có thể nhận ra sự tương đồng của Super 8 với Close Encounters of the Third Kind (1977), E.T. (1984) và The Goonies (1985 – Spielberg viết kịch bản). Quả thực, có thể tóm gọn Super 8 lại như sau: một E.T. của thế kỷ XXI với kỹ xảo mãn nhãn trong một không khí kinh dị rất hiện thực như Jaws. Bộ phim lấy bối cảnh năm 1979 tại thị trấn Lilian giả tưởng ở bang Ohio. Super 8 khởi đầu khá bi kịch, khi vào chuyện bằng cái chết của mẹ chú bé Joe Lamb (Joel Courtney), sự kiện sẽ phủ bóng lên cuộc sống của Joe và người cha Jack Lamb (Kyle Chandler), phó cảnh sát trưởng thị trấn, trong một thời gian dài. Tuy nhiên, không khí phim nhanh chóng trở nên tươi mới khi thời gian chuyển nhanh đến thời điểm 4 tháng sau. Mùa hè đã bắt đầu và nhóm bạn của Joe âm mưu thực hiện một bộ phim kinh dị / trinh thám về xác sống (zombie). Nhóm bao gồm: nhóc Charles mập (Riley Griffiths) – kẻ đầu têu, nhà sản xuất kiêm đạo diễn hách dịch, thay đổi kịch bản như chảo chớp và luôn mồm đòi hỏi về production value (một thuật ngữ tương đối khó dịch, mà nhà phát hành tại Việt Nam đã tạm dịch là “yếu tố hút khách”); kế đến là nhóc Carey niềng răng (Ryan Lee), chuyên gia cháy nổ, luôn luôn sung sướng khi được đem đống pháo hoa ra đốt tanh bành; thằng Preston tóc xù (Zach Mills) chuyên vào vai quần chúng và sai vặt; cuối cùng là thằng Martin bốn mắt (Gabriel Basso), vai nam chính, cao hơn bọn còn lại một cái đầu nhưng lại nhát cáy nhất đám. Tất nhiên, không thể thiếu Joe Lamb, thằng bé có đôi tay rất khéo léo được Charles giao cho vai trò thiết kế bối cảnh, mô hình, kiêm luôn cả hoá trang zombie và kỹ xảo máu me chết chóc. Phải nói rằng phim của lũ nhỏ này nhìn rất ấn tượng, theo đúng phong cách của phim B-movie lúc bấy giờ. Tuy nhiên, thằng Charles vẫn chưa thật sự hài lòng và quyết định cần phải để cho khán giả đồng cảm hơn với nhân vật nam chính trong chuyến phiêu lưu diệt zombie bằng cách cho thêm một cô vợ vào kịch bản. Vì mục đích đó, Charles đã rủ rê được cô bé Alice Dainard xinh đẹp (Elle Fanning) tham gia vào “đoàn phim” (còn có cả mục đích khác nữa mà nhóc mập sẽ tiết lộ ở cuối phim).Cô bé còn có một tác dụng khác, Alice chưa có bằng lái xe nhưng đã có thể lấy xe của bố đưa cả “đoàn” đi quay phim. Joe và Alice dường như có cảm tình với nhau ngay, và có vẻ mọi việc sẽ rất ngọt ngào đối với hai đứa nếu như bố của Alice không phải là người đã gián tiếp gây ra cái chết của mẹ Joe, và nhất là nếu như không có một sự kiện kinh hoàng xảy ra ngay khi mấy đứa đang quay phim: một vụ trật đường ray tàu hỏa, và từ trong chuyến tàu quân sự tối mật này, một “cái gì đó” có sức mạnh khôn lường đã thoát ra. Chẳng mấy chốc, lính tráng quân sự đã kéo đến , trước cả khi những chuyện kỳ dị bắt đầu xảy ra trong thị trấn… Một lần nữa không khí phim lại thay đổi, sự hồi hộp thót tim bắt đầu xuất hiện. Có thể nói, J.J Abrams và dàn diễn viên nhí rất tài năng đã nhanh chóng lôi cuốn được khán giả. Với Abrams, anh đã rất khéo léo khi mô phỏng lại không khí của một “đoàn phim” nhóc thời đó, khởi đầu với một ý tưởng quái lạ nhảm nhí, làm phim dấm dúi vào bất kỳ lúc nào rảnh rỗi, và khi bọn con gái tham gia vào, mọi chuyện bắt đầu phức tạp vì những “mối tình” nổ ra. Rất nhiều khán giả thuộc thế hệ làm phim Super 8 ở Mỹ đã xúc động khi cảm nhận được không khí này như một phần đẹp trong tuổi trẻ của họ. Nhưng sẽ không thể có được không khí đó nếu thiếu diễn xuất đặc biệt xuất sắc của các diễn viên trẻ, nhất là Elle Fanning và Riley Griffiths. Riley thực sự chiếm lĩnh khung hình trong vai Charles mập, hoá thân như in vào tính cách đáng yêu của một đạo diễn tương lai, dù lên mặt kể cả hay luôn mồm lý sự về cách làm phim, cũng đều khiến cho khán giả thích thú. Elle Fanning với vẻ quyến rũ tự nhiên của một cô bé tóc vàng vốn đã là một viên kẹo trên màn ảnh, nhập vai mượt mà ngay từ đầu, thể hiện những góc độ nhỏ nhưng tinh tế trong mối quan hệ với nam chính Joe. Joel Courtney vào vai nam chính cũng không hề tồi, có lẽ chỉ vì nhân vật của cậu thiếu những nét nổi bật nên khó để phát huy diễn xuất hơn hai người bạn diễn. Từ những ánh nhìn khi Joe hoá trang cho Alice, những cái ôm và nắm tay, những chi tiết như vậy dù không nhiều, nhưng hai diễn viên nhí đã diễn rất xuất sắc những nét vừa ngây thơ vừa sâu đậm của mối tình đầu đời. Cũng không nên quên cả Ryan Lee trong vai nhóc Carey thích đốt pháo, hay cả Kyle Chandler trong vai Jack Lamb đã diễn rất tốt hình ảnh của một người bố nhiều tâm sự và một người cảnh sát đại diện cho chính nghĩa. Chỉ có một điều đáng tiếc rằng lẽ ra Super 8 đã có thể hay hơn rất nhiều nếu như chủ đề “làm phim bằng Super 8” không bị bỏ quên từ giữa phim để nhường chỗ cho tính ly kỳ hồi hộp theo công thức của một bộ phim bom tấn. Thậm chí, kết cục cuốn phim mà tụi nhỏ quay có số phận ra sao cũng không hề được đề cập đến. Đây không phải là bỏ lửng mà là sự thiếu hụt của kịch bản. Cũng có thể vì bị ám ảnh với áp lực từ khán giả, J.J Abrams đã không dám triệt để hơn với ý tưỏng về máy quay Super 8, khiến anh không muốn lặp lại một Cloverfield chăng? Không chỉ làm phim thiếu mạch lạc và tươi tắn như nửa đầu, mục đích tạo sự hút khách còn làm cho cả chủ đề về sự luyến nhớ, day dứt của bố con Joe với người mẹ đã mất cũng trở nên nhẹ đi. Chính vì vậy mà ngay cả mối quan hệ mang tính bi kịch giữa bố con Joe và bố con Alice cũng mới chỉ dừng lại ở mức khai thác vỏ ngoài, thiếu sự sâu sắc. Những mâu thuẫn tâm lý này được giải quyết quá nhanh, quá dễ, khiến cho Super 8, dù rất hứa hẹn, cũng không thể vượt qua được tầm cỡ của một bộ phim giải trí. Tuy nhiên, Super 8 vẫn là một phim giải trí tuyệt hay, mãn nhãn và không hề ngốc nghếch. Những trường đoạn quay đầy cảm xúc như khi Joe hoá trang cho Alice và cảnh cuối phim là những điểm son của nghệ thuật làm phim. Và kỹ xảo, dù không tràn ngập như phong cách của Michael Bay, nhưng vẫn ở mức tuyệt đỉnh. Phải nói rằng trường đoạn nổ tàu hoả là một trường đoạn thực sự gây choáng váng! Kỹ xảo đã tạo được hiệu quả tối đa khi diễn tả sự đáng sợ thảm hoạ, nhất là khi mấy đứa trẻ như lũ kiến chạy dáo dác giữa một trời những sắt thép, thuốc nổ bay tứ tung, bất kỳ lúc nào cũng có thể đè bọn nhỏ dẹp lép. Trường đoạn kỹ xảo đầu tiên trong phim đã ở mức đỉnh cao, có thể nói là màn cháy nổ tàu hoả kinh hoàng nhất trong lịch sử điện ảnh! Có lẽ chủ đề lòng tham con người mới là thứ đáng sợ hơn cả những con quái vật không phải là mới mẻ, nhưng hình tượng của “cái gì đó” trong phim có nhiều nét thú vị. Nhưng có lẽ mô tả là không nên, vì J.J Abrams đã dày công cất giấu nó cho tới tận cuối phim… Dù thế nào, cái tên J.J Abrams đã là một bảo chứng, và bạn hẳn sẽ rất nuối tiếc nếu bỏ lỡ Super 8 trên màn ảnh rộng. Chỉ có ở trong rạp chiếu, bạn mới cảm nhận được hết những gì mà đạo diễn xuất chúng này dọn cỗ cho khán giả chúng ta mà thôi!
    • 0 downloads
    Bộ phim diễn ra vào năm 1936, trong những năm suy yếu của cuộc Đại khủng hoảng. Johnny Hooker, một tiểu thư ở Joliet, Illinois, nhận 11.000 đô la tiền mặt trong một con chim bồ câu thả từ một nạn nhân không nghi ngờ với sự trợ giúp của các đối tác Luther Coleman và Joe Erie. Bực mình vì mưa gió, Luther tuyên bố nghỉ hưu và khuyên Hooker nên tìm một người bạn cũ, Henry Gondorff, ở Chicago để dạy anh ta "con lừa lớn". Thật không may, nạn nhân của họ là một người chuyển phát vợt số cho ông trùm tội phạm độc ác Doyle Lonnegan. Cảnh sát tham nhũng Joliet Trung úy William Snyder đối đầu với Hooker, tiết lộ sự liên quan của Lonnegan và yêu cầu một phần cắt giảm của Hooker. Đã thổi tung chia sẻ của anh ấy trên một đĩa đơnquay roulette, Hooker trả cho Snyder bằng hóa đơn giả. Người của Lonnegan giết cả người đưa thư và Luther, và Hooker trốn chạy đến Chicago. Hooker tìm thấy Henry Gondorff, một kẻ lừa đảo vĩ đại một thời đang trốn khỏi FBI, và nhờ anh ta giúp đỡ trong việc đối phó với Lonnegan nguy hiểm. Gondorff ban đầu miễn cưỡng, nhưng anh ta tin tưởng và tuyển mộ một đội ngũ nòng cốt gồm những kẻ lừa đảo có kinh nghiệm để lừa Lonnegan. Họ quyết định làm sống lại một trò lừa đảo lỗi thời được gọi là "dây", sử dụng một nhóm nghệ sĩ lừa đảo lớn hơn để tạo ra một cửa hàng cá cược ngoài luồng. Trên chiếc 20th Century Limited sang trọng, Gondorff, đóng giả là nhà cái Shawie ở Chicago, mua vào trò xì phé cao, riêng tư của Lonnegantrò chơi. Anh ta chọc tức Lonnegan với hành vi đáng ghét, sau đó vượt qua anh ta để giành được 15.000 đô la. Hooker, đóng giả là nhân viên bất mãn Kelly của Shaw, được gửi đến để thu tiền thắng và thay vào đó thuyết phục Lonnegan rằng anh ta muốn tiếp quản hoạt động của Shaw. Kelly tiết lộ rằng anh ta có một đối tác tên là Les Harmon (thực ra là con người Kid Twist) trong văn phòng Chicago Western Union, người sẽ cho phép họ thắng cược trong các cuộc đua ngựa bằng cách đăng bài trước. Trong khi đó, Snyder đã theo dõi Hooker tới Chicago, nhưng sự truy đuổi của anh ta bị cản trở khi anh ta được triệu tập bởi các đặc vụ FBI bí mật do đặc vụ Polk chỉ huy, người ra lệnh cho anh ta hỗ trợ trong kế hoạch bắt giữ Gondorff bằng Hooker. Đồng thời, Lonnegan đã trở nên thất vọng với sự bất lực của người đàn ông của mình trong việc tìm và giết Hooker cho con Joliet. Không biết rằng Kelly là Hooker, anh ta yêu cầu Salino, sát thủ giỏi nhất của anh ta, được giao việc. Một nhân vật bí ẩn với găng tay da màu đen sau đó được nhìn thấy và quan sát Hooker. Kết nối Kelly xuất hiện có hiệu quả, như Harmon cung cấp Lonnegan với người chiến thắng trong một cuộc đua ngựa và Trifecta của người khác. Lonnegan đồng ý tài trợ cho một vụ cá cược trị giá 500.000 đô la tại phòng khách của Shaw để phá Shaw và trả thù. Ngay sau đó, Snyder bắt giữ Hooker và đưa anh ta đến trước đặc vụ FBI Polk. Polk buộc Hooker phản bội Gondorff bằng cách đe dọa tống giam bà quả phụ Luther Coleman. Đêm trước khi chích, Hooker ngủ với Loretta, một cô hầu bàn từ một nhà hàng địa phương. Khi Hooker rời khỏi tòa nhà vào sáng hôm sau, anh thấy Loretta đang đi về phía mình. Người đàn ông đeo găng đen xuất hiện phía sau Hooker và bắn chết cô. Cô là kẻ giết người thuê của Lonnegan, Loretta Salino, và tay súng được Gondorff thuê để bảo vệ Hooker. Được trang bị mẹo của Harmon để "đặt nó vào Lucky Dan", Lonnegan đặt cược 500.000 đô la tại cửa hàng của Shaw trên Lucky Dan để giành chiến thắng. Khi cuộc đua bắt đầu, Harmon đến và bày tỏ sự sốc với vụ cá cược của Lonnegan, giải thích rằng khi anh ta nói "đặt nó", theo nghĩa đen, Lucky Dan sẽ "đặt" (nghĩa là kết thúc thứ hai). Trong cơn hoảng loạn, Lonnegan vội vã mở cửa sổ giao dịch và đòi lại tiền. Một lát sau Polk, Trung úy Snyder, và một nửa tá đặc vụ FBI xông vào phòng khách. Polk đối mặt với Gondorff, sau đó nói với Hooker rằng anh ta được tự do đi. Gondorff, phản ứng với sự phản bội, bắn Hooker ở phía sau. Polk sau đó bắn Gondorff và ra lệnh cho Snyder đưa Lonnegan đáng kính ra khỏi hiện trường vụ án. Với Lonnegan và Snyder an toàn, Hooker và Gondorff nổi lên giữa những tiếng reo hò và tiếng cười. Tiếng súng đã bị làm giả; Đặc vụ Polk thực ra là Hickey, một kẻ lừa đảo, điều hành một kẻ lừa đảo trên đỉnh Gondorff để chuyển hướng Snyder và đảm bảo Lonnegan từ bỏ tiền. Khi những kẻ lừa đảo trên truyền hình tước hết nội dung của nó, Hooker từ chối chia sẻ số tiền của mình, nói rằng "Tôi chỉ thổi nó" và bỏ đi với Gondorff.
    • 0 downloads
    “Makeover” luôn là một trong đề tài mà điện ảnh từ Đông qua Tây ưa thích và xài đi xài lại. Từ những phim hài lãng mạn Hàn biến hình một cô gái vụng về, ngô ngố trở thành một quý cô sành điệu cho xứng với anh giám đốc trẻ tuổi đẹp trai, những phim teen Mỹ biến hình một cô gái mờ nhạt trở thành Prom Queen và hun hít anh giai đẹp nhất trường, makeover còn lan sang cả Kingsman, nới mấy cha điệp viên người Anh biến một thằng nhóc đường phố trở thành một quý ông lịch thiệp, đặng để giết người này người nọ cho đẳng cấp. Đối với mọi thể loại con gái trên đời, makeover sẽ luôn là một đề tài không bao giờ chán, bởi cô nào cũng có một mơ ước siêu giản dị, đó là trở thành Lọ Lem, là trung tâm của bữa tiệc, là từ một người bình thường trở thành một người đặc biệt, cho dù sự đặc biệt đó chỉ đơn giản là đẹp. Mình nghĩ một trong những phim kinh điển nhất của cái dạng “makeover” này là My Fair Lady (1964). Nhiều người sẽ nhớ nhiều tới Pretty Woman (1990), nhưng theo ý kiến nhỏ nhoi của bản thân, mình thấy Pretty Woman khó tin, thậm chí ngờ nghệch, vô lý, quá nhiều cảnh nóng và không thực sự có gì đáng nhớ ngoài vẻ đẹp của Julia Robert và Richard Gere. Còn My Fair Lady, đó là một bộ phim sâu sắc, tình tiết bất ngờ vượt mọi suy đoán của mình. Mặc dù còn nhiều hạn chế của thời đại, mình nghĩ các nhân vật trong My Fair Lady đều đặc biệt, độc đáo theo cách riêng của họ. Và nhiều thứ trong cá tính của Miss Doolittle còn đẹp đẽ và đáng trân trọng hơn những trang sức, áo váy lộng lẫy ở trên người cô. Câu chuyện đơn giản chỉ là một vị giáo sư ngữ âm Henry Higgins vì muốn thắng một vụ cá cược đã nhận dạy dỗ cô nàng Eliza Doolittle trở thành một quý cô thượng lưu chính hiệu, để cô này tham gia một buổi vũ hội của Hoàng tử mà không ai nhận ra cô này thuộc tầng lớp thấp kém. Trong thời gian 6 tháng quý báu đó, Eliza đã chuyển mình để trở thành một quý cô thực thụ, từ tiếng nói, ngữ điệu, phong cách bên ngoài cho đến cả những suy nghĩ bên trong cũng đã trưởng thành hơn rất nhiều. Eliza Doolittle hiện lên ở đầu phim là một cô nàng bán hoa đanh đá, to mồm, lôi thôi, bẩn thỉu, vô duyên và chả có chút gì nữ tính. Bán hoa ở đây là bán hoa, theo nghĩa đen, tức là đem hoa (thực vật) đem bán dạo, xin đừng nghĩ bậy cho nhân vật. Cô có chất giọng vùng Cockney, một địa phương nào đó của nước Anh, vì mình chả phải người Anh nên không biết nó là nơi nào, giọng địa phương như vậy có gì đặc biệt và khác với những địa phương khác. Cái quan trọng là chính cái giọng địa phương đó định hình Eliza vào tầng lớp lao động và ít học, và nói như giáo sư Higgins kiêu ngạo, cô đang phá hoại tiếng Anh. Đòi hỏi gì ở Eliza, cô mồ côi mẹ, cha nghiện rượu, lười biếng, sống với một người phụ nữ khác. Cô gái chăm chỉ dậy thật sớm nhặt hoa về bán đến tận tối mịt, ăn uống vớ vẩn, tự mình sống sót giữa đường phố bằng cách lương thiện, mình cho như vậy đã vô cùng đáng quý. Bản thân Eliza không được học hành, không có ai dạy dỗ, lớn lên giữa những con người cục cằn, vô giáo dục của tầng lớp nghèo khổ, việc Eliza có tính cách như vậy có thể coi là điều đương nhiên. Với mình, ấn tượng đầu tiên về Eliza là cô tràn đầy sức sống và vô cùng mạnh mẽ. Cô có sự ma lanh của những người lớn lên giữa đầu đường xó chợ, sẵn sàng đanh đá đốp chát lại người khác, cho dù đó là những người tầng lớp trên, to mồm đông đổng giữa phố để bảo vệ bản thân, gào rú những thứ không cần thiết, và với cái mặt trơ không biết xấu hổ, Eliza Doolittle tạo ra nét khác biệt cho mình với vô số những nữ nhân ăn rồi chỉ có đẹp và khóc lóc. Không chỉ có thế, Eliza cũng là một cô gái với mơ ước giản dị là có một ngôi nhà ấm áp, có chocolate ăn, có một người chồng yêu thương mình, một cuộc sống khác cuộc sống bây giờ. Cái này thì bình thường, ai cũng có mơ ước, nhưng Eliza không ngồi yên và chờ cái mơ ước ấy tự dưng thành hiện thực, cô tự mình định đoạt lấy nó. Eliza nhớ về việc giáo sư Higgins nói rằng có thể biến người như Eliza trở thành một quý cô, và với vốn tiếng Anh chuẩn mực cùng phong thái lịch thiệp, Eliza có thể trở thành một cô gái bán hàng trong tiệm hoa thay vì bán hoa ngoài đường, hoặc có một công việc khác tốt đẹp hơn, hoặc chỉ đơn giản là một tấm chồng. Tham vọng đã làm động lực cho cô gái đến gõ cửa nhà giáo sư Higgins để xin ông này dạy mình trở thành một quý cô, cô sẽ trả tiền học phí cho ông đầy đủ. Đó là đoạn mình thích nhất về Eliza, khi cô diện bộ đồ đẹp nhất của mình, và đương nhiên là nó trông vô cùng lố bịch trong mắt những người khác, dũng cảm đến chỗ giáo sư Higgins, đề nghị ông này dạy mình, cô không cầu xin ai cái gì, cô sẽ trả ông đầy đủ, chính đáng và sòng phẳng. Eliza hiện lên rất sống động, không sợ trời không sợ đất, thẳng thắn, độc lập, hơi ngô nghê nhưng không ngốc nghếch, và trên hết cô không ngại thay đổi để đạt được những điều tốt đẹp hơn cho bản thân. Trong suốt 6 tháng với giáo sư Higgins, Eliza đã nỗ lực không ngừng để tiến bộ, để học cách phát âm, đi đứng, nhảy nhót như một người giàu có. Cô thành công, nhân vật Eliza lột xác hoàn toàn về hình thức, một cuộc cách mạng từ xấu sang đẹp hoàn hảo, từ đầu tóc, quần áo, trang sức, trông như đó là hai con người hoàn toàn khác biệt. Phần phục trang thực sự rất tinh xảo, lộng lẫy và cầu kỳ, từ nữ chính cho đến mấy vai quần chúng, mọi thứ hiện lên đều lung linh, sang trọng, nữ tính và vương giả. Đối với khoản “makeover”, đó là điểm 10 cho chất lượng. Thì nói sao giờ, Audrey Hepburn là một trong những biểu tượng nhan sắc của thế kỷ mà lại. Tuy vậy, mình không thực sự thích diễn viên ốm đói như vậy. Mình biết Aubrey gầy, mình đã xem Roman Holiday, nhưng mà ốm đến lòi xương cổ, hai tay như que tăm, bàn tay toàn gân xanh như thế thì thật đáng ngại. Mình xem khá nhiều phim thập niên 60, điểm chung của họ là gầy mong manh, eo bé tí đến không tưởng. Đúng là mỗi thời đại có một chuẩn mực khác nhau, nhưng nhìn Aubrey Hepburn cứ như chỉ có ba mấy kí, những đường cong trên người cô ấy toàn là do khung xương mà có, thêm tí thịt thà mướt mát chắc sẽ bị chê là béo phì. Cho dù Audrey Hepburn có gương mặt đẹp đẽ và đôi mắt sáng, phong thái diễm lệ, có tài năng, có nét riêng, mình vẫn thấy kỳ kỳ, có lẽ chỉ là mình không thích người quá gầy, thế thôi. Cả phim mình chỉ muốn gào lên: Về nhà kiếm gì ăn đi gái! Đó là về hình thức, còn cái hay ho và may mắn nhất, cái phần bên trong vẫn được Eliza giữ nguyên. Cô không thay đổi chính mình, không ảo tưởng, vẫn biết mình là ai và muốn gì. Eliza vẫn là cô gái nhà quê kể chuyện bà dì mình uống rượu để chữa bạch hầu bằng giọng điệu trịch thượng của giới thượng lưu, vẫn là cô gái duy nhất dám mở mồm gào tiếng “ass” giữa chốn đông người thanh lịch, vẫn là cô gái đốp chát và không ngại tranh cãi đến cùng với giáo sư Higgins, vẫn là người thẳng thắn nói ra mọi thứ mình nghĩ, mọi điều mình muốn, vẫn tranh đấu cho sự tôn trọng cô đáng được có. Tính nết đanh đá, to mồm vẫn còn nhưng đỡ phản cảm hơn, và ở Eliza, sự mạnh mẽ, sống động, thực tế, ma lanh chắc chắn không thể biến mất. Sau cuộc thử nghiệm, Eliza nhận ra cô không thể quay về cuộc sống cũ là một cô gái bán hoa ở góc phố, nhưng lại không biết mình sẽ làm gì tiếp theo. Higgins đã thay đổi cô, Eliza cảm thấy mình không thuộc về đâu cả, cô tốt đẹp hơn cuộc sống trên vỉa hè London và chắc chắn vẫn không phải là một cô gái giàu có thượng lưu. Mặc cho sự chông chênh đó, Eliza nhận ra bây giờ có thể bắt đầu một cuộc đời mới của riêng mình. Nhân vật quan trọng thứ hai sau Eliza đương nhiên là giáo sư Henry Higgins. Đó là một ông chú già thông minh, kiến thức đầy mình, vì kiêu ngạo nên đã nhận một vụ cá cược không tưởng. Thành thật mà nói, bất cứ ai cũng không thể cưỡng được vụ cá cược đó. Ông giáo sư có tính cách khó chịu, khó chiều, khó chơi, khinh người và vô cùng kiêu ngạo. Ngoài ra ông còn có sự phân biệt giới tính, coi thường phụ nữ như bao nhiêu quý ông thủ cựu ở đầu thế kỷ 20. Dĩ nhiên ông khinh Eliza ra mặt và gọi cô là “that thing”, “this creature”, coi cô như một thí nghiệm, một màn cá cược ông nhất định phải thắng. Higgins không thích hôn nhân, tự mình ban thưởng cho mình cuộc đời của một “old bachelor” và thề không để một người phụ nữ nào chen chân vô hạnh phúc độc thân của ông. Và đương nhiên, phim mà, ông dần nảy sinh tình cảm với Eliza nhưng quá cố chấp và kiêu ngạo để thừa nhận nó. Nhân vật Henry Higgins hoàn toàn không phải là một quý ông nhưng có thể dạy Eliza trở thành một quý cô. Phương pháp sư phạm của ông nếu như ở thời đại bây giờ thì đã có thể bị quay clip tung lên mạng, bị kiện tụng, bị đình chỉ, tước học vị,vv. Gì mà đối xử với gái xinh mà toàn dùng những câu xúc phạm, bắt người ta nhịn đói, nhét ngọc vô miệng, bắt luyện âm cả ngày không nghỉ. Nhìn bên ngoài, Higgins là kẻ chỉ quan tâm đến bản thân, hoàn toàn không đoái hoài đến cảm xúc người khác, nhưng sự thật ông không bao giờ bỏ cuộc ở chính mình hay Eliza, ông là người động viên cho cô vượt qua khó khăn, là người mua trang sức, váy áo cho cô không tiếc tiền, cũng buồn bã, giận dữ khi cô bỏ đi. Ở một góc nào đó, Higgins thực sự lo lắng và quan tâm đến Eliza, chỉ là tình cảm ấy bị tính khí trẻ con, kiêu ngạo và cứng đầu của ông che lấp mất. Như khi cô đến buổi vũ hội của hoàng tử và khiến mọi người công nhận mình là một quý cô, Eliza đã giúp Higgins thắng cược. Thế nhưng ông này đã không thèm đoái hoài và công nhận đến sự cố gắng của Eliza mà chỉ mải chúc tụng bản thân, khiến cô tức giận bỏ đi. Tuy Higgins đã cố công tìm gặp và yêu cầu cô quay lại sống với mình, nhưng khi Eliza yêu cầu Higgins thay đổi và tôn trọng, đối xử với cô tốt hơn, Higgins lại chống chế. Ông bảo không phải ông đối xử với cô không tốt, mà bởi vì ông chả đối xử tốt với ai cả. Eliza nhận ra Higgins sẽ không thay đổi, cô lại bỏ đi. Higgins tức giận trở về nhà, khi chỉ còn một mình, ông nhận ra vai trò quan trọng của Eliza trong cuộc đời mình, rằng ông đã quá quen thuộc đối với sự hiện diện của cô. Ngay cả khi biết mình cần Eliza và chính ông đã đẩy cô ra xa, Higgins cũng không thừa nhận điều đó, ông trẻ con tưởng tượng ra cái ngày Eliza quay lại và cầu xin ông chấp nhận cô, rằng ông sẽ mãn nguyện đóng sầm cánh cửa vào cái mặt vô ơn của cô. Cuối phim, khi Higgins trở về với căn nhà trống trơn, ông nhớ đến Eliza và mở đoạn ghi âm giọng nói của cô, ngầm thừa nhận sự quan trọng của Eliza và sự trống trải khi cô không ở đây nữa, Eliza xuất hiện. Bộ phim kết thúc, thậm chí cả hai người còn chả nhìn nhau, mình ngơ ngác nhưng không thấy hụt hẫng bởi cái kết. Suốt bộ phim, cả Eliza và Higgins đều không bao giờ có một câu thú nhận tình cảm dành cho đối phương, vậy nên chả có ôm ấp, hôn hít, hứa hẹn gì cả. Thế nên cảnh cuối, khi Eliza bước vào và nhận ra Higgins nhớ cô, khi nụ cười mỉm nhẹ nhàng trên gương mặt của cả hai, bản thân mình chấp nhận đây là một kết thúc có hậu và có thêm lời thoại nào nữa cũng có thể chỉ là thừa thãi mà thôi. Nếu như nhân vật Eliza đã có một cuộc cách mạng vĩ đại từ hình thức bên ngoài đến sự trưởng thành bên trong, nhân vật Higgins dường như chẳng mảy may thay đổi lấy một tẹo. Đầu phim, ông là một vị giáo sư khó ưa, chảnh chọe, cuối phim, ông vẫn là một vị giáo sư khó ưa, chảnh chọe. Ông cho rằng mình luôn đúng, không chấp nhận thay đổi, không dám thừa nhận tình cảm với người mình thương, vẫn thua đủ như đứa ngốc. Tính cách của Higgins nghe có vẻ khó chịu và quá đáng, nhưng bản thân mình thấy tính cách đó cũng thành thật như tính cách của Eliza, nó có sự mỉa mai của người có học thức nhưng nó không giả tạo. Higgins là một người với hai mảng đối lập, kiến thức càng rộng lớn thì tính cách càng cố chấp và ngốc nghếch. Những vấn đề to đùng trong mối quan hệ giữa Eliza và Higgins dường như chẳng có vẻ gì được thay đổi hay sửa chữa. Nếu Higgins không học cách tôn trọng Eliza, không chịu chấp nhận rằng Eliza không phải là thứ ông tạo ra, rằng cô trở thành con người như bây giờ là do nỗ lực của cá nhân cô, kiến thức của ông và sự động viên của đại tá Pickering tốt bụng – quý ông thực thụ duy nhất của phim, thì những màn cãi vã, đốp chát nhau chỉ đem lại tổn thương và hối tiếc mà thôi. Vậy nên mình cảm thấy mình khi cuối phim là một đoạn kết mở, khán giả muốn nghĩ gì thì nghĩ, tưởng tượng gì thì tưởng tượng, mọi thứ đã trọn vẹn lắm rồi. Mình đọc được rằng trong vở kịch Pygmathion của Bernard Shaw (My Fair Lady là phim ca nhạc dựa trên vở kịch này), Eliza không trở về với ông giáo sư mà cưới Freddy, anh chàng nhà giàu yếu đuối mê cô như điếu đổ. Mình cho kết thúc đó cũng hợp lý với tính cách nhân vật. Eliza sống cuộc đời thiếu thốn từ bé, một chỗ dựa vững chắc về kinh tế, một người chông biết yêu thương vẫn là một điều cô luôn mong mỏi từ lâu. Giáo sư Higgins kia tuy đúng là người Eliza mong muốn, nhưng ông không tỏ dấu hiệu gì là sẽ thay đổi và đối xử tử tế hơn với cô, vậy nên Eliza chọn cưới Freddy giống như là một lựa chọn thực tế và sáng suốt mà một người có tính cách như cô nhất định sẽ nắm lấy. Dẫu vậy đó vẫn là một cái kết buồn cho cả Eliza và Higgins, khi mình đảm bảo ông giáo sư sẽ hối hận cả đời, còn Eliza cũng sẽ không bao giờ có được trọn vẹn hạnh phúc bởi cô không thể yêu một anh công tử bột như Freddy. Vậy nên kết thúc không rõ ràng trong phim thực sự là một hình ảnh đẹp, một ý niệm đẹp cho khán giả tự hoang mang và mong chờ. Nó không hứa hẹn, không làm rõ, không sến súa hay bi lụy, cả hai nhân vật chính dường như có vẻ bằng lòng với hiện tại, thế cũng tốt. Với cốt truyện dễ hiểu, bộ phim nhạc kịch kéo dài ba tiếng khiến mình thấy vô cùng tắt thở và thiếu kiên nhẫn. Đó có thể là do mình nông cạn và kém hiểu biết khi không thể chờ một nhân vật phụ toét không liên quan nhiều đến cốt truyện hát lên hát xuống một bài hát cũng chẳng liên quan gì đến cốt truyện (nhân vật cha của Eliza), hay như người ta cứ hát thật dài cho một thứ có thể được diễn tả bằng vài câu thoại. Mình có thể xem nhạc kịch, mình không phàn nàn việc hát hò (mình đã xem nhạc kịch Les Miserables, không phải phim nhé), nhiều bài hát trong đó thực sự rất hay, nhưng một khi đã quen với phong cách phim hiện đại, khi mình thực sự muốn biết Eliza có về với ông giáo sư hay không, mình không thể trải qua hơn 5 phút nghe cha Eliza hát về bia rượu mà không thấy bực dọc được. Và một lần nữa, phim thập niên 60 đã lừa được mình. Như một lẽ tất yếu, mình đoán Eliza sẽ gặp và yêu anh chàng nhà giàu đẹp trai mà cô đụng trúng ở đầu phim (Freddy), còn đối với ông giáo sư thì sẽ là một tình bạn vong niên đáng ngưỡng mộ. Việc những phim cũ thích ghép đôi trai siêu già với gái trẻ khiến mình phát ngán (và ghê ghê nữa). Đúng là diễn viên đóng vai ông giáo sư rất tài năng, ổng thắng Oscar cho vai đó, nhưng như vậy không có nghĩa là nên chọn họ ngay từ đầu, vênh không chịu được. Vì ổng quá già, mình đâu có ngờ họ thích nhau. Ổng già như ông nội cổ vậy, tóc bạc chớm hai bên và chả phong độ gì, chỉ có nhăn nheo thôi. May mà không ôm hôn, có chắc chết vì kỳ quá. Mình lại còn mới phát hiện ra Audrey Hepburn không hát thực sự trong bộ phim, trừ bài đầu tiên. Vậy là bài hát kinh điển I could have danced all night vốn chẳng phải do gái đẹp hát, nó được thể hiện bởi giọng ca của Marni Nixon. Chân thành cảm ơn Wiki cho thông tin này. Ngoài những thứ đó ra, My Fair Lady là một bộ phim kinh điển mà lâu lâu xem lại cũng vẫn còn nguyên nét trẻ trung, tươi mới. Bộ phim có câu chuyện thông minh, nhân vật độc đáo, được kể lại bằng phong cách hài hước, dí dỏm. Mình chưa bao giờ là người giỏi rút ra thông điệp cao siêu sau khi xem một bộ phim, như bối cảnh xa hoa của cánh thượng lưu đối lập với mức sống của những người lao động nghèo khổ, như cách cha của Eliza nhận ra khi nghèo khổ thì ông được tự do, còn tiền bạc chỉ trói buộc ông bằng đạo đức và trách nhiệm, mấy cái đó, mình thực sự chả muốn đi sâu vì chưa đủ vốn sống để nói cho đến nơi đến chốn. Cái mình nhớ ở bộ phim là một quá trình makeover siêu thần sầu của cô nàng Eliza Doolittle, hành trình tự mình thay đổi để bản thân để tự biến mình thành con người tốt đẹp hơn, để được yêu thương và tôn trọng. Mình chỉ đơn giản và tận hưởng chuyến hành trình đáng nhớ đó.
    • 0 downloads
    "The Outpost" (2019) is a war film directed by Rod Lurie, based on the true story depicted in Jake Tapper’s book "The Outpost: An Untold Story of American Valor." The film focuses on the Battle of Kamdesh, which took place in October 2009 in Afghanistan. The story centers on a small group of American soldiers stationed at Combat Outpost Keating, an isolated and vulnerable outpost surrounded by steep mountains and Taliban forces. The film portrays the intense and harrowing battle that ensues when the outpost is attacked by a large Taliban force. The narrative highlights the bravery and resilience of the soldiers as they face overwhelming odds. It also examines the complex realities of war, including the strategic and personal challenges faced by the soldiers. The film emphasizes themes of heroism, sacrifice, and the harsh conditions of combat. The cast includes Scott Eastwood, Caleb Landry Jones, and Orlando Bloom, among others. "The Outpost" is noted for its gripping portrayal of the battle and the real-life heroism of the soldiers involved.
    • 0 downloads
    Đã qua rồi hình ảnh những công chúa Disney trong bộ đầm lộng lẫy và cái kết viên mãn lấy được hoàng tử của đời mình. Thập kỷ vừa qua đã chứng minh rằng Disney đang ngày càng thoát ra khỏi những rập khuôn về giới cũ kỹ mà chúng ta vẫn thường gán nhãn cho các nàng công chúa. Bắt đầu thập kỷ mới, Disney ra mắt bộ phim Raya and The Last Dragon (Raya và Rồng Thần Cuối Cùng), giới thiệu một công chúa mới, đồng thời cũng mang tính đặc thù văn hoá khi đây là nàng công chúa Đông Nam Á đầu tiên của bộ sậu "Disney Princess." Vượt lên trên một thước phim giải trí dành cho thiếu nhi và gia đình hay một sự tri ân văn hoá Đông Nam Á, Raya và Rồng Thần Cuối Cùng mang nhiều thông điệp nhân văn về niềm tin của con người trong những thời khắc tăm tối, đặc biệt là qua hành trình của nhân vật Raya và những bài học cô nhận được ở cuối hành trình đó. Disney và sự ra đời của hình ảnh “công chúa bá đạo” Lịch sử của các công chúa Disney đã cho thấy rằng có sự thay đổi nhiều về cách chúng ta nhìn nhận nhân vật nữ chính trong phim hoạt hình. Từ những ngày đầu, vốn dĩ các công chúa là những cô gái đẹp với những vấn đề cá nhân cần được giải quyết. Và như chính bộ phim Ralph Breaks The Internet (2018) đã tự trào, những vấn đề đó luôn được giải quyết bởi một hoàng tử. Bạch Tuyết, Lọ Lem và Công chúa ngủ trong rừng Aurora, 3 công chúa thời đầu là ví dụ điển hình cho những người đẹp không có tính chủ động trong câu chuyện của mình. Họ luôn khóc lóc vì hoàn cảnh, bị thế lực xấu nhắm vào và cuối cùng được một hoàng tử cứu nguy. Ngày đó, bài học duy nhất có lẽ là niềm tin vào lẽ phải, vào cái thiện, nhưng lại vô tình cấy vào đầu các em nhỏ một suy nghĩ về giới khá phổ biến còn tồn tại đến ngày nay: công chúa nào cũng cần một hoàng tử của mình. Yếu tố “hoàng tử”, hay người tình của công chúa xuất hiện trong tất cả những phim công chúa Disney từ 1937 đến 2010. Năm 2012, Pixar đã đánh dấu một bước ngoặt lớn khi ra mắt Brave, giới thiệu công chúa tóc xù Merida. Vượt lên truyền thống gả chồng của gia tộc, Merida chứng minh mình là cô gái quả cảm, tự do như mây trời trên yên ngựa và cung tên. Cô tự mình gây ra những biến cố, và cũng tự mình giải quyết lấy những rắc rối trong một bộ phim mà những nhân vật nam chỉ là phụ. Tính nữ quyền từ đó đậm đà hơn và đã đến lúc chúng ta cần một thế hệ những nàng công chúa mới không chỉ có sắc đẹp, mà còn phải sẵn sàng gánh những trọng trách lớn và tự mình đẩy bộ phim đi về phía trước. Sự ra đời của Merida dù không được quá nhiều sự chú ý, nhưng lại được tiếp nối bởi một hiện tượng toàn cầu, một nhân vật chúng ta không gọi là “công chúa”, mà đã gọi là “nữ hoàng”: Elsa trong Frozen (2013). Nụ hôn chân tình giữa nam và nữ bị dẹp bỏ hoàn toàn khi Disney không những trao sức mạnh và phép thuật cho nhân vật nữ chính, mà còn định nghĩa “chân tình” (true love) có thể đến từ tình cảm của những người trong gia đình. Frozen không những là hiện tượng phòng vé mà còn là sự khởi đầu chính thống của những nàng “công chúa bá đạo” (badass princess) nhà Chuột, dù họ là những công chúa hoàn toàn mới như Moana (2016) hay những công chúa được “hoàn thiện lại” như Jasmine (2019) và Mulan (2020). Và công chúa Raya trong tác phẩm mới nhất của Disney, Raya và Rồng Thần Cuối Cùng tiếp tục là một “công chúa bá đạo” khác, nếu không muốn nói là “bá đạo” nhất. Hành trình của Raya hay của chủ nghĩa anh hùng? Trong phim, Raya sống ở xứ Kumandra, một nơi bị chia cắt thành 5 bộ tộc bởi sự thù hằn, niềm tin mù quáng và cả sự ích kỷ. Ngay cảnh mở đầu phim, người xem biết rõ Raya đang trên một hành trình trong bộ trang phục đậm chất nữ hiệp: bụi đường, áo choàng đỏ, nón rộng vành và một thanh kiếm. Cô phải tìm được Sisu, rồng thần cuối cùng và thu thập lại 4 mảnh ngọc đã bị 4 bộ tộc khác chiếm giữ để đẩy lùi một hiểm hoạ đe doạ cả xứ sở. Hành trình này của Raya không giống với bất kì hành trình nào trước đây của các công chúa Disney ở nhiểu điểm, thậm chí với những nàng cá tính như Elsa, Moana hay Hoa Mộc Lan. Dễ thấy nhất là xuất thân. Khác với Elsa vốn là một người kế thừa ngai vị nữ hoàng xứ Arendelle, hay Moana vốn là cô bé được đại dương chọn để trả lại trái tim cho nữ thần Te Fiti, không có thế lực nào đưa đẩy để Raya khăn gói lên đường, mà chính cô đã chọn cho mình hành trình đó. Cô trở thành một nữ anh hùng có trách nhiệm và lý tưởng, không phải vì cô có xuất thân cao quý của một công chúa, mà chỉ đơn giản vì cô là một người con xứ Kumandra và của bố mình, tộc trưởng Benja. Điều này khá giống Hoa Mộc Lan, nhưng nếu Mộc Lan bước vào hành trình trái với nguyện vọng của cha, Raya lại có được sự phù độ từ người cha mà cô vô cùng yêu mến. Hình ảnh người cha Benja cũng là một nét rất mới. Nếu hình ảnh người cha của các công chúa trước đây khá cứng nhắc, bảo thủ và cấm đoán vì lòng thương con hết mình, thì Benja lại là một ông bố Đông Á luôn truyền dạy những kiến thức về thế giới cho cô con gái nhỏ. Benja vị tha và khơi dậy trong Raya niềm tin vào sự đoàn kết. Ngay cả khi bị 4 bộ tộc khác phản bội, đối diện với bi kịch, lời cuối của ông dành cho con gái mình vẫn đậm đà tính nhân văn: “Đừng từ bỏ họ.” Từ những nét trên, bức chân dung của Raya được khắc hoạ rất độc nhất. Võ thuật học từ cha, mang thanh gươm và cả ước mơ của cha, cô là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng trong thời loạn lạc, là khát khao về những ngày tươi sáng hơn của con người. Nói như Benja, để thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn, ai đó phải “dũng cảm tiên phong.” Raya chính là người đó. Tuy vậy, cô lại thiếu mảnh ghép quan trọng nhất từ chính cha mình. Không hành trình nào là không mang lại bài học cho người lữ khách. Đó là bài học Raya phải lĩnh hội ở cuối chặng đường, đồng thời cũng là thông điệp ý nghĩa mà Disney gửi tới khán giả: Hãy mở lòng mình, trao đi niềm tin, và thế giới sẽ bớt nhiều toan tính. Khi sự hoài nghi và lạc quan song hành Bi kịch của xứ sở và của gia đình đem đến cho Raya mọi động lực để trở thành một anh hùng, nhưng là một anh hùng độc hành. Nếu Benja tin tưởng vào sự tốt đẹp của con người, Raya lại mất đi niềm tin đó khi chính nó đã dẫn đến sự đổ nát của bộ tộc cô. Dấu vết sâu đậm của phản bội biến Raya thành một người theo chủ nghĩa hoài nghi (cynicism), luôn tin rằng mọi tập tính của con người đều xuất phát từ ham muốn cá nhân. “Thế giới là một đống đổ nát, ta không thể tin bất cứ ai” là tuyên ngôn của cô khi lên đường để tìm niềm tin tối thượng của mình: rồng thần Sisu. Là rồng thần cuối cùng của Kumandra, Sisu còn là hiện thân của tín ngưỡng, của niềm tin bất diệt trong lòng Raya từ những ngày thơ ấu. Thế nhưng tình tiết bất ngờ xảy ra ở nửa đầu bộ phim: Sisu mà Raya tìm thấy không hề vĩ đại như truyền thuyết đã ca tụng. Và đúng như một hiện thân của tín ngưỡng, Sisu tin vào những điều tốt đẹp của con người. Nếu Raya nhìn thế giới qua lăng kính hoài nghi, ai cũng có thể hãm hại mình, không ai là chân thật thì Sisu lại nhìn thế giới có phần màu hồng và luôn thấy được phẩm chất tốt đẹp của con người. “Có lẽ nào thế giới này đổ nát là vì cô không tin bất cứ ai?” — đây có lẽ là câu hỏi thú vị nhất mà Sisu đặt cho Raya. Câu hỏi phản ánh rất rõ chủ nghĩa lạc quan (optimism) của rồng thần dành cho nhân loại. Sự bắt cặp mang tính đối lập giữa bên tín ngưỡng và bên được tín ngưỡng tạo ra một xung đột sâu sắc và mạnh mẽ của phim. Raya, vốn là người trải đời hơn, giờ đây phải chăm sóc cho rồng thần còn ngây ngô với thế giới. Rồng thần tưởng chừng không có sức mạnh gì trong tay nhưng lại dạy cho Raya sức mạnh lớn nhất để cứu lấy tất cả: niềm tin vào con người. Từ đó phim dẫn dắt câu chuyện đến một khủng hoảng thú vị, dễ dàng đẩy đến hồi 3 đầy cao trào: Chuyện gì sẽ xảy ra khi tất cả những gì chúng ta tin tưởng nhất đã ra đi mãi mãi, buộc ta phải trao niềm tin cho những người ta từng nghĩ là kẻ thù? Chúng ta có thật là kẻ thù của nhau hay chúng ta được dạy rằng mình là kẻ thù của nhau? Để trả lời cho câu hỏi trên, những nhà làm phim đã gieo một hình ảnh biểu tượng thú vị trải dài hành trình của Raya: ẩm thực. Văn hoá ẩm thực Đông Nam Á trải dài từ những thước phim đầu khi tộc trưởng Benja dạy Raya cách đối xử tử tế với con người qua việc thiết đãi họ những món ăn, rằng những món ngon nhất thật ra lại được tạo tác từ những gia vị tưởng chừng khó hoà hợp nhất. Benja nấu ra một món ăn tuyệt hảo bằng 5 loại gia vị từ 5 tộc khác nhau, còn hành trình của Raya cũng bao gồm những người đến từ các tộc khác nhau. Họ đều là nạn nhân của thế giới đổ nát, sống lay lắt trong đơn độc và mỗi ngày phải tự lèo lái để cứu lấy bản thân mình. Họ được dạy là kẻ thù của nhau, song lại tìm thấy sự đồng điệu trên bàn ăn. Sự đoàn kết của họ quyện với sự giao thoa của ẩm thực tạo nên một bức tranh độc đáo về lòng tử tế, rất chân thật và không hề giáo điều. Raya và Rồng Thần Cuối Cùng là một câu chuyện dễ thấm, dễ xem. Đâu đó trong phim là những mảng miếng, tình tiết chúng ta đã gặp ở thể loại phiêu lưu, hành động, nhưng với một kịch bản chắc tay, hình ảnh mê hồn pha lẫn với âm nhạc đậm sự kết hợp Đông - Tây, phim đã kể nên một hành trình đậm tính sử thi, đầy tham vọng của Disney. Không chỉ thành công ở việc xây dựng nên một thế giới đậm màu sắc Đông Nam Á, phim còn đưa vào hình ảnh nữ anh hùng nguyên bản, mang đậm thần khí và cốt cách của thế giới trong phim, tạo cho người xem một niềm tin tuyệt đối vào hành trình của cô. Hơn nữa, phim còn mang lại một thông điệp thức thời, khi thế lực mang đến thảm hoạ cho xứ Kumandra cũng được ví như “một đại dịch”: chúng ta có thể đổ lỗi cho nhau, xâu xé lẫn nhau để trở thành kẻ sống sót cuối cùng. Hoặc, chúng ta có thể cùng nhau đẩy lùi bóng tối vì một tương lai tốt đẹp hơn.
    • 0 downloads
    Sắp đến Giáng sinh và gia đình Griswold đang chuẩn bị cho một lễ kỷ niệm theo mùa của gia đình. Nhưng mọi thứ không bao giờ suôn sẻ đối với Clark, vợ anh, Ellen và hai đứa con của họ. Vận rủi liên tục của Clark càng trở nên tồi tệ hơn bởi những vị khách đáng ghét của gia đình anh, nhưng anh vẫn cố gắng tiếp tục, biết rằng tiền thưởng Giáng sinh của mình sắp đến hạn.
    • 0 downloads
    "National Lampoon's Vacation" (1983) is a classic American comedy directed by Harold Ramis and written by John Hughes. The film follows the Griswold family, led by the well-meaning but hapless father, Clark Griswold, played by Chevy Chase. Clark plans a cross-country road trip to the fictional amusement park Walley World with his wife Ellen (Beverly D'Angelo) and their two children, Audrey and Rusty (played by Dana Barron and Jason Lively, respectively). The trip quickly goes awry due to a series of humorous and unfortunate events, including car troubles, a detour to a disappointing roadside attraction, and family squabbles. Despite the numerous mishaps, Clark remains determined to reach Walley World and have a perfect family vacation. The film is known for its blend of slapstick humor and relatable family dynamics, and it has become a beloved comedy for its memorable scenes and characters.
  2. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    Adam, một nhiếp ảnh gia, thức dậy trong một bồn tắm trong một căn phòng lớn bị đổ nát, và thấy mình bị xích vào mắt cá chân. Lawrence Gordon, một bác sĩ chuyên khoa về ung bướu, cũng bị xích nhau trong phòng, và giữa họ là một xác chết tay cầm khẩu súng lục và máy ghi âm. Mỗi người có một cuộn băng trong túi, và Adam lấy được máy ghi âm. Băng của Adam nói anh ta tìm cách thoát khỏi phòng tắm, trong khi băng của Lawrence bảo anh ta giết Adam vào lúc sáu giờ sáng, nếu không vợ và con gái anh ta sẽ bị giết và anh ta sẽ cũng chết. Adam tìm thấy một cái túi chứa hai cưa sắt nằm trong một bồn vệ sinh; họ cố gắng để cắt dây xích, nhưng Adam không cắt được và anh ném nó vào gương trong thất vọng, nhưng có một camera ẩn phía sau tấm gương. Lawrence nhận ra rằng các cưa sắt không làm gì được với dây xích, mà là chân của họ và xác định kẻ bắt cóc của họ là sát nhân Jigsaw, người mà Lawrence biết bởi vì anh ta là một nghi phạm cách đây 5 tháng. Kí ức lại cho thấy rằng trong khi Lawrence đang thảo luận về ung thư não giai đoạn cuối của một bệnh nhân, được biết là John Kramer bởi một người có tên Zep Hindle, cùng với các sinh viên y khoa của mình, ông đã được thám tử David Tapp và Steven Sing tìm đến, người đã tìm thấy dấu vết của anh ta tại hiện trường "trò chơi" của Jigsaw, trong đó có ít nhất ba người điều tra. Luật sư của Lawrence đã bác bỏ anh ta, nhưng anh miễn cưỡng đồng ý xem lời khai của người sống sót duy nhất được biết đến, một người nghiện heroin tên là Amanda Young, người tin rằng Jigsaw đã giúp cô làm lại cuộc đời bằng "bẫy gấu đảo ngược". Trong khi đó, Alison và Diana Gordon là vợ con của Lawrence đang bị Zep bắt giam trong nhà của họ, người đang theo dõi Adam và Lawrence qua máy ảnh phía sau gương hai chiều trong phòng tắm.Trong lúc đó Tapp đang theo dõi ngôi nhà, người đã được đưa ra khỏi lực lượng. Sự hồi tưởng của Tapp cho thấy ông đã bị ám ảnh bởi vụ án Jigsaw sau khi nghe lời khai của Amanda và cuối cùng tìm thấy kho hàng của Jigsaw được chiếu trên băng video từ trò chơi của cô. Anh và Sing bước vào nhà kho, nơi họ bắt giữ Jigsaw và cứu một người đàn ông khỏi cái bẫy khoan, nhưng Jigsaw đã trốn thoát sau khi lấy con dao chém một nhát vào cổ họng Tapp, và Sing đã bị giết bởi những khẩu súng được treo trên trần nhà trong khi theo đuổi anh ta. Nghi Lawrence là Jigsaw, Tapp đã bắt đầu theo dõi anh ta sau khi xuất viện. Trong phòng tắm, Lawrence tìm thấy một hộp chứa một cái bật lửa, hai điếu thuốc và một chiếc điện thoại một chiều. Anh ta nhớ lại vụ bắt cóc của anh ta: anh ta đã cố gắng sử dụng điện thoại của mình sau khi bị mắc kẹt trong một gara để xe và đột nhiên bị tấn công bởi một người đeo mặt nạ hình con lợn. Họ giả vờ sử dụng thuốc lá nhúng vào trong máu của xác chết, thực ra là cyanide, để giả vờ là Adam chết, nhưng kế hoạch thất bại khi Adam bị phóng điện.Sau đó Adam nhớ lại vụ bắt cóc của mình: anh ta đang ở trong phòng của anh ta. Khi cúp điện, anh ra ngoài và đã bị một con người đeo mặt nạ tương tự tấn công. Trong lúc đó, Alison gọi Lawrence và bảo anh ta đừng tin Adam, người thừa nhận anh ta đã được trả tiền để chụp ảnh Lawrence, những bức ảnh được cất trong túi cưa sắt. Adam cũng tiết lộ về vụ việc Lawrence ngoại tình với một trong những sinh viên y khoa của mình; Lawrence đã ở bên cô ta trước khi bị bắt cóc. Lawrence nhận ra những lời mô tả của Adam và cho rằng Tapp đã trả anh ta để chụp Lawrence. Adam tìm thấy một bức ảnh mà anh ta không chụp, một người đàn ông nhìn chằm chằm vào cửa sổ của căn nhà của Lawrence, người mà Lawrence đã nhận diện là Zep. Thật không may, đồng hồ sau đó chỉ 6 giờ sáng khi ông nhận ra điều này. Trong khi đó Alison đã thoát được, cô gọi Lawrence lại một lần nữa nhưng Zep đã đánh cô và tranh giành khẩu súng. Cuộc đấu tranh rất dữ dội và Tapp biết được, ông cứu được Alison và Diana và đuổi theo Zep tới cống rãnh, nơi mà anh ta bị bắn vào ngực trong suốt chiến đấu. Lawrence, chỉ nghe được tiếng súng và tiếng la hét, cũng bị điện giật và không với được điện thoại; trong tuyệt vọng, anh ta cưa chân của mình, lấy khẩu súng và bắn Adam nhưng chỉ bắn vào vai của Adam. Zep đi vào phòng tắm để giết Lawrence, nói rằng "Đó là quy tắc", nhưng Adam bất ngờ tỉnh dậy và đã đập Zep bằng cái vỏ vệ sinh. Khi Lawrence bò ra khỏi phòng để tìm sự giúp đỡ, Adam tìm kiếm chìa khóa trong áo của Zep và tìm thấy một máy ghi âm khác, cho thấy Zep là một nạn nhân khác, theo các quy tắc của trò chơi của mình để lấy thuốc giải độc cho một chất độc hoạt động chậm trong cơ thể anh ấy. Khi băng kết thúc, "xác chết" là ông John tỉnh dậy và được tiết lộ là bệnh nhân của Lawrence, John, kẻ giết người thực sự - Jigsaw. Anh ta tiết lộ chìa khóa chuỗi xích của Adam nằm trong bồn tắm mà lúc anh tỉnh dậy, đã bị lọt vào lỗ. Adam cố gắng bắn John với khẩu súng của Zep, nhưng John kích hoạt một điều khiển điện giật Adam. John tắt đèn, nói rằng: " Nhiều người đã không biết trân trọng để sống, nhưng không phải cậu, không bao giờ ", Adam hét lên trong sợ hãi và John nói:"Game Over (Trò chơi kết thúc)" và đóng cửa lại, để anh chết. Sau khi bị nhốt lại, thì thực chất Adam vẫn còn sống. Nhưng kì lạ thay, anh đã chết vì Amanda, cộng sự của John (sẽ giải thich trong Saw II), đã bịt kín không cho Adam thở bằng túi ni-lông.
    • 0 downloads
    Film của Tim Burton, mà Mr.Burton lại hay làm mấy film quái quái và hài, thế nên trước khi xem film này thì mình nghĩ rằng; à, coi để giải trí chắc cũng vui và thư giãn. Nhưng không, Big Fish đã tạt một gáo nước thật lạnh vào mặt mình, làm thay đổi hẳn 100% cảm xúc chỉ sau hai mươi phút đầu film. Cũng chẳng có gì đặc biệt. Chuyện film kể về một người đàn ông từ bé đến lúc già, thậm chí là gần chết, luôn kể những câu chuyện hoang đường cực độ. Trong những ngày gần kề, con trai ông ta và vợ đến thăm ông, và những câu chuyện tưởng như vô nghĩa và mang tính giải trí cao kia lại là sợi dây gắn họ với nhau chặt hơn. Big Fish không phải kiểu film như là, bạn coi, rồi lại cười, hoặc hồi hộp, hoặc thót cả tim; giữa những khúc đó lại là vài câu cảm thán chẳng hạn như :“Xạo quá! Ngoài đời làm gì có chuyện đó!” hay “Đúng là chỉ có trong film!”. Ngay từ những phút đầu film, bạn đã biết ngay rằng những gì đang diễn ra và sắp diễn ra trên màn hình tivi, laptop, desktop hay hầm bà lằng cẩu cẩu những phương tiện coi film khác của bạn, hoàn toàn là…xạo; và tất nhiên, những nhân vật trong film cũng biết. Người khổng lồ, thị trấn mà không ai muốn rời khỏi, rạp xiếc, nhảy dù cướp tài liệu mật…vv..vv…, nghe là biết xạo. Ừ, thì Tim Burton cũng đâu có dán nhãn “Based on a true story” cho film đâu? Ngay cả tựa film – Big Fish – cũng làm mình liên tưởng đến ngày Cá tháng Tư, với tràn ngập những lời nói dối, vô hại có mà có hại cũng nhiều. Sẽ nhạt lắm nếu cuộc sống của chúng ta cứ lặp đi lặp lại mãi một ngày như vầy : Thức dậy, đánh răng, rửa mặt rồi ăn sáng. Sau đó đi làm. Chiều về, ăn chiều, đi ngủ. Rồi sáng mai lại thức dậy, lại đánh răng, rửa mặt… Cứ coi như cuộc sống quanh ta là một bữa ăn đi, và người cha trong Big Fish đã làm cho mọi người không thể không thích thú với việc hằng ngày cứ ăn đi ăn lại một bữa ăn đó. Bí quyết? Ông không thay đổi các món ăn, ông chỉ nêm vào đó từng chút từng chút gia vị khác nhau. Khi thì mặn, khi ngọt, khi cay, khi lại thanh. Và tí “gia vị” đó chính là những câu chuyện, những lời nói dối dễ thương mà hấp dẫn ông đang kể từng ngày. Bạn muốn biết gì về ngày bạn sinh ra? Rằng ngày đó bố của bạn không thể đến kịp lúc bạn chào đời vì công việc, hay là chiều hôm ấy bố đã bắt được một con cá to khủng khiếp và chỉ cắn mồi câu là một chiếc nhẫn? Bạn thích phiên bản nào hơn? Ai đó cảm nhận bộ film rằng, như một câu châm ngôn, hãy sống làm sao cho khi bạn chào đời thì ai cũng cười, và khi bạn mất thì ai cũng khóc. Thế nhưng, mình lại hiểu Big Fish theo một cách khác. Rằng những cái chán chường trong cuộc sống hoàn toàn là thật và không thể tránh khỏi, thế sao chúng ta không thi vị hoá chúng lên một chút, để phần nào thấy cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn? Hãy kể với con bạn là lúc nó chào đời, trên đường bạn đến bệnh viện thì gặp một con rồng lửa khổng lồ ngăn cản, nhưng bạn vẫn vượt qua êm ru. Hãy nói với cô gái bạn yêu rằng lúc bạn vừa gặp cô ấy, thời gian dừng hẳn lại và khi cô ấy đi, thời gian lại trôi nhanh một cách khó hiểu. Một tí gia vị, một tí tưởng tượng, và thế là cuộc sống đâu chỉ đơn điệu với trắng và đen đúng không nào?
    • 0 downloads
    Một thời gian sau các sự kiện của phần phim thứ hai, Shrek và Công chúa Fiona sẽ kế vị vị Vua Harold đang hấp hối, nhưng những nỗ lực của Shrek để phục vụ với tư cách là Nhiếp chính trong thời gian Harold vắng mặt vì lý do y tế đã kết thúc trong thảm họa. Shrek không quan tâm đến việc trở thành vua của Far Far Away. Với hơi thở hấp hối, Harold nói với Shrek về một người thừa kế khác: cháu trai của anh và em họ của Fiona, Arthur "Artie" Pendragon. Trong khi đó, Hoàng tử quyến rũ thề sẽ trả thù cho cái chết của mẹ mình, Bà tiên đỡ đầu và trở thành vua. Charming đến quán rượu Poison Apple và thuyết phục những nhân vật phản diện trong truyện cổ tích chiến đấu vì "hạnh phúc mãi mãi" của họ. Shrek, Donkey và Puss in Boots bắt đầu đi tìm Artie. Khi họ chèo thuyền đi, Fiona tiết lộ với Shrek rằng cô ấy đang mang thai, khiến Shrek vô cùng kinh hãi. Anh cho rằng mình không có khả năng nuôi con. Bộ ba hành trình đến Học viện Worcestershire, một trường nội trú phép thuật ưu tú, nơi họ phát hiện ra Artie là một cậu bé 16 tuổi gầy gò, bị ruồng bỏ. Tại cuộc mít tinh của trường, Shrek nói với Artie rằng anh đã được chọn làm vua của Far Far Away. Artie rất phấn khích cho đến khi Donkey và Puss vô tình làm anh ta sợ hãi khi thảo luận về trách nhiệm của nhà vua. Mất tự tin, Artie cố gắng điều khiển con tàu và lái nó quay trở lại Worcestershire; sau một cuộc ẩu đả với Shrek, con tàu đâm vào một hòn đảo xa xôi, nơi họ chạm trán với thầy phù thủy đã nghỉ hưu của Artie, Merlin. Fiona và Nữ hoàng Lillian tổ chức tiệc mừng em bé chào đời khi Charming và những kẻ hung ác khác tấn công lâu đài. Gingy, Pinocchio, Big Bad Wolf và Three Little Pigs ngăn nhóm của Charming đủ lâu để các cô gái trốn thoát. Khi một trong những con lợn vô tình tiết lộ rằng Shrek đã đi tìm Artie, Charming cử Thuyền trưởng Hook và những tên cướp biển của anh ta để truy tìm chúng. Rapunzel, yêu Charming, phản bội Fiona và những người phụ nữ bị nhốt trong một tòa tháp. Hook và những tên cướp biển của hắn đuổi kịp Shrek trên hòn đảo của Merlin. Shrek tránh bị bắt và Hook tiết lộ việc Charming tiếp quản Far Far Away. Shrek hối thúc Artie trở lại Worcestershire. Thay vào đó, Artie lừa Merlin sử dụng phép thuật của mình để đưa họ đến Far Far Away. Câu thần chú khiến Puss và Donkey vô tình hoán đổi thân xác. Họ tìm thấy Pinocchio và biết rằng Charming định giết Shrek như một phần của vở kịch. Sau khi đột nhập vào lâu đài, họ bị bắt và bị giam cầm. Charming chuẩn bị giết Artie để giữ lại vương miện. Để cứu mạng Artie, Shrek đã nói dối, tuyên bố rằng anh ta chỉ lợi dụng Artie để thay thế anh ta làm vị vua tiếp theo. Charming tin Shrek và để Artie thất vọng rời đi. Lừa và Mèo bị giam cùng với Fiona và những người phụ nữ, nơi Fiona trở nên thất vọng vì sự thiếu chủ động của họ. Lillian đập vỡ một lỗ hổng trên bức tường đá của nhà tù bằng một cú húc đầu. Trong khi các công chúa thực hiện nhiệm vụ giải cứu Shrek, Donkey và Puss giải thoát Gingy, Pinocchio và những người khác cùng với con của Dragon và Donkey. Puss và Donkey xoa dịu Artie bằng cách giải thích rằng Shrek đã nói dối để cứu mạng Artie. Charming tổ chức một cuộc thách đấu trong một nhà hát âm nhạc trước vương quốc. Ngay khi Charming chuẩn bị giết Shrek, Fiona, Puss và Donkey, các công chúa và các nhân vật trong truyện cổ tích khác đối đầu với những kẻ ác, nhưng nhanh chóng bị khuất phục. Artie xuất hiện và có bài phát biểu trước những kẻ phản diện, thuyết phục họ rằng họ có thể được xã hội chấp nhận thay vì bị ruồng bỏ. Được truyền cảm hứng bởi bài phát biểu của Artie, những kẻ ác đồng ý từ bỏ con đường xấu xa của chúng, trong khi Charming từ chối lắng nghe và dùng kiếm lao vào Artie. Shrek chặn đòn và có vẻ như anh ta đã bị đâm. Charming tự phong mình là vua mới, nhưng Shrek tiết lộ rằng thanh kiếm đã trượt và đẩy Charming sang một bên, trong khi Dragon đánh sập tòa tháp xuống Charming. Artie đăng quang vị vua mới của Far Far Away. Trong khi vương quốc ăn mừng, Merlin xuất hiện và hoàn nguyên việc hoán đổi cơ thể của Puss và Donkey. Trong khi đó, trở lại đầm lầy, Shrek và Fiona bắt đầu nuôi dạy cặp sinh ba mới của họ, đương đầu với thiên chức làm cha mẹ với sự giúp đỡ của Lừa, Mèo, Lillian và Rồng.
    • 0 downloads
    Cặp vợ chồng mới cưới Shrek và Công chúa Fiona trở về sau tuần trăng mật và phát hiện ra rằng họ đã được cha mẹ của Fiona mời đến một vũ hội hoàng gia để kỷ niệm cuộc hôn nhân của họ. Shrek ban đầu từ chối tham dự, nhưng Fiona đã thuyết phục anh ta, và cùng với Donkey, họ du hành đến vương quốc Far Far Away. Họ gặp cha mẹ của Fiona, Vua Harold và Nữ hoàng Lillian, những người bị sốc khi nhìn thấy yêu tinh, trong đó Harold đặc biệt bị đẩy lùi. Vào bữa tối, Shrek và Harold tranh cãi nảy lửa, và Fiona, chán ghét hành vi của họ, nhốt mình trong phòng. Shrek lo lắng rằng anh ta sẽ mất Fiona, đặc biệt là sau khi tìm thấy cuốn nhật ký thời thơ ấu của cô ấy và đọc được rằng cô ấy đã từng say mê Hoàng tử quyến rũ. Harold bị Bà tiên đỡ đầu bí mật khiển trách vì con trai của bà, Hoàng tử quyến rũ, đã kết hôn với Fiona để đổi lấy kết thúc có hậu cho Harold. Cô ấy ra lệnh cho anh ta loại bỏ Shrek, vì vậy Harold đã sắp xếp để Puss in Boots ám sát anh ta dưới chiêu bài đi săn. Không thể đánh bại Shrek, Puss tiết lộ rằng anh ta đã được Harold trả tiền và đề nghị trở thành đồng minh. Shrek, Donkey và Puss lẻn vào nhà máy của Bà tiên đỡ đầu và lấy trộm lọ thuốc "Hạnh phúc mãi mãi về sau" mà Shrek nghĩ sẽ giúp anh ta đủ tốt cho Fiona. Shrek và Donkey đều uống lọ thuốc nhưng không có gì xảy ra. Shrek than thở trước khi anh và Donkey đột nhiên ngủ thiếp đi. Trong khi đó, ở Far Far Away, Fiona chuẩn bị đi tìm Shrek để họ có thể trở về nhà, nhưng cô ấy cũng ngủ quên. Sáng hôm sau, lọ thuốc biến Shrek và Fiona thành người, còn Lừa thành ngựa đực trắng. Để thay đổi vĩnh viễn, Shrek phải hôn Fiona trước nửa đêm. Shrek, Donkey và Puss trở lại lâu đài. Tuy nhiên, Bà tiên đỡ đầu, sau khi phát hiện ra vụ trộm, đã cử Charming đóng giả Shrek và giành được tình yêu của Fiona. Trước sự thúc giục của Bà tiên đỡ đầu, Shrek rời lâu đài, tin rằng cách tốt nhất để khiến Fiona hạnh phúc là để cô ấy ra đi. Fiona không đáp lại những tiến bộ của Charming, vì vậy để đảm bảo rằng cô ấy yêu Charming, Bà tiên đỡ đầu đã đưa cho Harold một lọ thuốc tình yêu để cho vào trà của Fiona. Cuộc trao đổi này bị Shrek, Donkey và Puss nghe được, những người bị các hiệp sĩ hoàng gia bắt giữ sau khi Donkey vô tình để lộ họ. Trong khi vũ hội hoàng gia bắt đầu, những sinh vật trong truyện cổ tích mà Shrek và Donkey đã gặp trong cuộc phiêu lưu trước đó của họ đến ngục tối để giải cứu ba người họ, và tất cả họ xông vào lâu đài với sự giúp đỡ của một người đàn ông bánh gừng sống quái dị do Muffin tạo ra Người đàn ông. Shrek không ngăn được Charming hôn Fiona, nhưng thay vì yêu, Fiona lại đánh gục anh ta; Harold tiết lộ rằng anh đã đổi trà của Fiona có lọ thuốc tình yêu với một trà khác. Bà tiên đỡ đầu đang tức giận cố gắng giết Shrek bằng cây đũa thần của mình, nhưng Harold đã nhảy ra trước nó; câu thần chú bật ra khỏi áo giáp của anh ta và làm cô ấy tan rã. Khi Bà tiên đỡ đầu biến mất, Harold trở lại thành Hoàng tử ếch. Harold xin lỗi, thừa nhận đã sử dụng lọ thuốc "Hạnh phúc mãi mãi về sau" nhiều năm trước để có được tình yêu của Lillian, đồng thời chấp thuận cuộc hôn nhân của Shrek và Fiona. Lillian đảm bảo với Harold rằng cô ấy vẫn yêu anh ấy. Khi đồng hồ điểm nửa đêm, Fiona từ chối lời đề nghị tiếp tục làm người của Shrek, và họ trở lại thành yêu tinh, trong khi Donkey cũng trở lại bình thường. Trong cảnh mid-credit, Dragon, người trước đây đã kết hôn với Donkey, tiết lộ rằng họ hiện có một số đứa con lai giữa rồng và lừa.
  3. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    Câu chuyện bắt đầu với Shrek là một gã chằn tinh (ogre) chống đối xã hội và có lãnh thổ cao, yêu thích sự cô độc trong đầm lầy của mình, chống lại đám đông và tận hưởng chút riêng tư. Cuộc sống của Shrek bị gián đoạn sau khi tên Lãnh Chúa lùn Farquaad của Duloc bắt và trục xuất một số lượng lớn các sinh vật trong truyện cổ tích, khiến những sinh vật này phải chạy trốn vào đầm lầy và nhà cửa Shrek. Tức giận vì bị xâm nhập, Shrek quyết định đến thăm Farquaad và yêu cầu chuyển họ đi nơi khác. Sau đó Shrek phải miễn cưỡng cho phép một con Donkey (lừa) nói nhiều, người cũng bị lưu đày, đi theo và hướng dẫn anh ta đến Duloc. Trong khi đó, Farquaad được tặng chiếc Gương thần, người nói với hắn rằng hắn phải cưới một công chúa để trở thành vua. Farquaad chọn Công chúa Fiona, người đang bị giam giữ trong lâu đài được canh giữ bởi Rồng. Không muốn tự mình giải cứu Fiona, hắn ta tổ chức một giải đấu trong đó người chiến thắng sẽ nhận được "đặc quyền" thực hiện nhiệm vụ thay hắn. Khi Shrek và Donkey đến Duloc, Farquaad thông báo rằng ai giết được tên chằn tinh sẽ được trao vương miện chiến thắng; tuy nhiên, Shrek và Donkey đã đánh bại các hiệp sĩ của Farquaad một cách tương đối dễ dàng. Thích thú, Farquaad tuyên bố họ là nhà vô địch và đồng ý thả các sinh vật trong truyện cổ tích nếu Shrek giải cứu Fiona. Shrek và Donkey đi đến lâu đài và bị tấn công bởi con rồng. Shrek tìm thấy Fiona, người đang kinh hoàng vì sự thiếu lãng mạn của mình, trong khi Donkey bắt đầu thu hút con rồng cái; họ sau đó chạy trốn khỏi lâu đài sau khi giải cứu Fiona. Khi Shrek cởi bỏ mũ bảo hiểm và tiết lộ rằng mình là một chằn tinh, Fiona kiên quyết từ chối đến gặp Duloc, yêu cầu Farquaad đích thân đến cứu cô; Shrek bế cô trái với ý muốn của cô. Đêm đó, sau khi dựng trại và cùng Fiona ở một mình trong hang, Shrek tâm sự với Donkey về sự thất vọng của anh khi bị người khác sợ hãi và từ chối vì ngoại hình của mình. Fiona tình cờ nghe được điều này và quyết định đối xử tốt với Shrek. Ngày hôm sau, cả ba bị quấy rối bởi Robin Hood và nhóm Merry Men của gã, và Fiona đã hạ gục họ một cách dễ dàng bằng võ thuật. Shrek trở nên ấn tượng với Fiona và họ bắt đầu yêu nhau. Khi bộ ba đến gần Duloc, Fiona trú ẩn trong một chiếc cối xay gió vào buổi tối. Donkey sau đó đi vào một mình và phát hiện ra rằng Fiona đã biến thành chằn tinh. Cô giải thích rằng cô đã bị nguyền rủa từ khi còn nhỏ, buộc phải biến thành chằn tinh mỗi đêm và biến hình trở lại khi mặt trời mọc. Cô nói với Donkey rằng chỉ có "nụ hôn của tình yêu đích thực" mới phá bỏ được bùa chú và biến mình thành "hình dạng thật của tình yêu". Trong khi đó, Shrek đang chuẩn bị thổ lộ tình cảm của mình với Fiona thì tình cờ nghe được Fiona coi mình là "con thú xấu xí". Tin rằng cô đang nói về mình, Shrek tức giận bỏ đi và quay lại vào sáng hôm sau cùng Farquaad. Bối rối và tổn thương trước sự thù địch đột ngột của Shrek, Fiona chấp nhận lời cầu hôn của Farquaad và yêu cầu họ kết hôn trước khi màn đêm buông xuống. Shrek bỏ rơi Donkey và quay trở lại đầm lầy hiện đã bỏ trống của mình. Anh nhanh chóng nhận ra rằng bất chấp tất cả những chuyện trên ,anh cảm thấy đau khổ và nhớ Fiona. Donkey quay trở lại đầm lầy và đối mặt với Shrek, giải thích rằng "con thú xấu xí" mà Fiona đang ám chỉ là một người khác, đồng thời thúc giục anh bày tỏ tình cảm của mình với Fiona trước khi cô kết hôn. Cả hai hòa giải và nhanh chóng đến Duloc bằng cách cưỡi con rồng cái mà Donkey đã kết bạn (và thực ra đã yêu nhau). Shrek làm gián đoạn đám cưới ngay trước khi buổi lễ kết thúc, và nói với Fiona rằng tên Farquaad chỉ cưới cô để trở thành vua. Mặt trời lặn khi Fiona biến thành chằn tinh trước mặt mọi người, khiến Shrek hiểu ra những gì mình tình cờ nghe được. Bị xúc phạm và cảm thấy ghê tởm, Farquaad ra lệnh xử tử Shrek và giam giữ Fiona. Cả hai được cứu khi rồng, cùng với Donkey, đột nhập và nuốt chửng Farquaad. Shrek và Fiona tuyên bố tình yêu của họ và chia sẻ một nụ hôn. Mặc dù lời nguyền của Fiona đã bị phá vỡ, nhưng điều này vĩnh viễn khiến cô trở thành chằn tinh trái với mong đợi của mình, mặc dù Shrek trấn an cô rằng anh vẫn thấy cô xinh đẹp. Họ kết hôn trong đầm lầy với sự tham dự của những sinh vật trong truyện cổ tích, sau đó lên đường đi hưởng tuần trăng mật.
    • 0 downloads
    "Justice Society: World War II" (2021) is an animated film featuring the Justice Society of America. The plot centers on Barry Allen, the Flash, who travels back to World War II and encounters the Justice Society. Together, they fight against the villainous threats posed by the Nazis, including the powerful adversary, the evil speedster called the Black Flash. The story explores themes of heroism and teamwork as the heroes strive to thwart the Axis powers' plans.
  4. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    Sự thành công của Speed, không thể không kể đến màn thể hiện tuyệt vời của 2 diễn viên chính. Bên cạnh đó, các tuyến nhân vật phụ cũng được khai thác khá ổn, dàn diễn viên diễn xuất tự nhiên và kết hợp với nhau rất ăn ý. Nhân vật chính của phim được thể hiện bởi nam diễn viên Keanu Reeves. Anh đã thể hiện một cách trọn vẹn nhân vật, từ cử chỉ, lời thoại, biểu cảm cho đến những pha hành động ác liệt…Trong Speed, Keanu Reeves hiếm khi nào được ngừng nghỉ, anh gần như phải hoạt động liên tục, và lối diễn xuất cũng đa dạng, ứng biến nhanh nhạy với từng hoàn cảnh. Tuy vậy, có vẻ như cách xây dựng nhân vật của Speed hơi sơ sài, nên người ta chưa biết nhiều về nhân vật ngoài nghề nghiệp. Do đó, dù Keanu Reeves diễn khá tốt, song lại chủ yếu trong những pha kịch tính, chứ anh chưa có cơ hội thể hiện khả năng diễn tả cảm xúc hay những đấu tranh tâm lý của nhân vật. Vai diễn trong Speed cũng là một dấu mốc rất đánh nhớ trong sự nghiệp của Sandra Bullock. Đây là vai diễn giúp tên tuổi của cô vụt sáng tại Hollywood, và đặt những bước chân đầu tiên vào con đường danh vọng mà cô có được ngày hôm nay.Ở thời điểm phim ra mắt, Sandra Bullock đang ở thời kì đẹp nhất của một cô gái, với vẻ đẹp cá tính, lối thể hiện tự nhiên và cảm xúc. Bên cạnh đó, Sandra Bullock còn giúp không khí phim bớt ngột ngạt, bằng vẻ tưng tửng, hài hước khá duyên. Điểm đáng tiếc trong cách xây dựng nhân vật của Speed, đó là nhân vật phản diện không mấy ấn tượng. Nam diễn viên từng đạt giải Oscar: Dennis Hopper thể hiện khá tốt và đầy kinh nghiệm, nhưng khó mà làm khán giả nhớ lâu, vì nhân vật không có nét gì đặc sắc. Hình ảnh, âm thanh Speed được đánh giá là một trong những bộ phim hành động hay nhất thập niên 90. Làm được điều này, bên cạnh sức hấp dẫn của kịch bản, tất nhiên không thể không kể đến phần hình ảnh được dàn dựng vô cùng đẹp mắt của phim. Ngay từ đầu phim, Speed đã trình diễn những hình ảnh ác liệt, chân thực nhất mà không hề dài dòng kể lể. Để rồi, sau khi nhập cuộc, người xem bị cuốn vào một chuyến hành trình căng thẳng, với cách sử lý hình ảnh chân thực, sắc sảo. Phong cách hành động trong Speed, mang đậm dấu ấn của thập niên 90: chân thực, ác liệt và không lạm dụng quá nhiều kĩ xảo làm mờ mắt người xem như bây giờ. Do đó, dù đã khá cũ kĩ và không quá hành tráng, song phần hình ảnh trong Speed vẫn là tấm gương điển hình cho lối làm phim chân thực, ác liệt và căng thẳng từ đầy đến cuối phim. Cách xử lý âm thanh trong Speed cũng xứng đáng nhận được những lời khen ngợi. Với cách xử lý âm thanh dồn dập, căng thẳng và vô cùng phù hợp với mạch phim, các thành viên trong đoàn làm phim Speed đã giành được 2 giải Oscar về xử lý âm thanh. Nội dung Speed là bộ phim hành động, hình sự về một kẻ đánh bom đòi tiền chuộc. Howard Payne- một cựu cảnh sát chuyên gỡ bom, đã đặt bom trên một chuyến xe buýt chở đầy hành khách. Chỉ cần chiếc xe chạy với tốc độ dưới 50 dặm/giờ, chiếc xe sẽ lập tức phát nổ. Viên cảnh sát Jack Traven, đã tìm cách hợp tác với các hành khách, để cứu lấy tính mạng của họ. Speed chính xác là một bộ phim có thể khiến những fan của dòng phim hành động, hình sự hài lòng. Bởi lẽ, bộ phim xây dựng kịch bản chặt chẽ, khúc chiết và rất biết nhấn vào trọng tâm. Phim không sa đà lan man vào những pha tâm lý ủy mị, cũng chẳng cần mất nhiều thời gian để giới thiệu hay đưa đẩy các nhân vật đến với nhau. Ngay từ những phút đầu, bộ phim đã kéo người xem vào cuộc ngay lập tức mà không có phút nào ngừng nghỉ. Điểm hay nhất trong kịch bản của Speed, đó là luôn giữa mạch phim trong trạng thái căng như dây đàn. Những cao trào, nút thắt được đẩy lên liên tục, mạch phim nhanh, gấp và hồi hộp đến nghẹt thở. Chuyến hành trình trên xe buýt, luôn có những chuyển biến và tình tiết mới phát sinh liên tục, làm người xem đi từ nỗi bất an này sang điểu bất ngờ khác. Bên cạnh đó là cách giải quyết tình huống phim thông minh và hợp lý. Tất nhiên, như bao bộ phim hành động khác, Speed vẫn còn tồn tại những điểm vô lý to đùng mà khán giả có thể nhận ra. Song có vẻ như người xem sẽ vui vẻ bỏ qua. Đơn giản là vì, nếu không có chút vô lý nào, thì đã không có một bộ phim kịch tính, hấp dẫn thực sự để chúng ta xe. Sau hàng loạt những tình huống nặng nề căng thẳng, một chút hài hước nhẹ nhàng cùng pha tình cảm mùi mẫn ở cuối phim, đã khép lại 116 phút phim gay cấn và mãn nhãn.
    • 0 downloads
    Dirty dancing được thực hiện bởi một ê kíp tập hợp những con người táo bạo - một đạo diễn nam đồng tính, một biên kịch nữ và nhà sản xuất nữ, trong thời điểm nam giới thống trị ngành công nghiệp điện ảnh. Nước đi mạo hiểm từ nữ biên kịch Phim lấy bối cảnh vào mùa hè năm 1963. Cô gái 17 tuổHi Frances Houseman (Jennifer Grey), biệt danh thường gọi “Baby”, cùng gia đình nghỉ hè ở khu resort Catskills. Đây là nơi nghỉ dưỡng dành cho tầng lớp thượng lưu. Cô và vũ công Johnny Castle nhanh chóng phải lòng nhau sau khi khiêu vũ ở buổi nhảy múa của nhóm người lao động trong Catskills. Trong đêm đó, cô phát hiện Penny - bạn nhảy của Johnny - mang thai và có thể không làm việc được. Người khiến Penny có thai là Robbie - gã sinh viên Đại học Y khoa Yale đào hoa đang ra sức tán tỉnh chị của Baby. Hiểu rằng hắn đã “quất ngựa truy phong", Baby mượn tiền của cha để giúp Penny đi phá thai. Cô thay thế Penny làm bạn nhảy với Johnny, khiến tình cảm cả 2 càng nồng thắm. Sau khi phá thai, sức khỏe của Penny không tốt nên Baby đã nhờ cha mình đến khám và cho thuốc. Vì một sự nhầm lẫn, ông nghĩ rằng chính Johnny gây nên hậu quả này và cấm con gái bén mảng gần các vũ công, những người mà ông cho là “thấp hèn". Cặp đôi quyết định lén lút gặp nhau, thăng hoa qua từng điệu nhảy và chờ cơ hội thuyết phục gia đình chấp nhận tình yêu của họ. Trước Dirty dancing, đã có 2 bộ phim vũ đạo để lại dấu ấn trong điện ảnh Mỹ: Flashdance (Vũ điệu đam mê, 1983) kể về hành trình gian nan để trở thành vũ công chuyên nghiệp của cô thợ hàn Alex Owens (Jennifer Beals) và Footloose (Nhảy múa tự do, 1984) kể về việc cậu trai tuổi teen Ren McCormack (Kevin Bacon) cố phá vỡ luật cấm nhảy múa ở một nhà thờ. Những nhân vật có tính cách nổi loạn, thách thức định kiến, khuôn mẫu khắt khe trong nghệ thuật và trong xã hội là đặc điểm nổi bật của dòng phim trên. Với phim vũ đạo, điệu nhảy là linh hồn của bộ phim, là cá tính của nhân vật, dùng để kể câu chuyện; phần âm nhạc được tuyển chọn từ những bài hát phù hợp. Nhân vật không cần hát mà phải dùng các bước nhảy để làm nổi bật cảm xúc trong phim. Eleanor Bergstein - một nữ biên kịch gốc Do Thái - đã viết Dirty dancing để hồi tưởng về thời ấu thơ của mình. Trước bộ phim này, bà đã thành công khi viết kịch bản cho It's my turn (Đã đến lượt tôi, 1980). Tuy nhiên, trong quá trình dàn dựng phim, nhà sản xuất quyết định cắt phân đoạn nhảy khêu gợi và thay bằng một cảnh nóng khác. Tại sao các cảnh tình dục táo bạo, khỏa thân không bị ngăn cấm trên màn ảnh nhưng nhảy múa lại bị cắt xén? Cảm thấy vô lý, bà quyết định viết kịch bản mới xoay quanh “dirty dancing" - điệu nhảy đòi hỏi sự tương tác thân mật giữa bạn nhảy nam và nữ, với nhiều động tác phô diễn sự gợi cảm. Eleanor quyết định dùng chất liệu từ thuở ấu thơ để kể nên câu chuyện. Trong đó, nhân vật Baby và gia đình cô được xây dựng giống hệt như cuộc đời ấu thơ của nữ biên kịch. Eleanor được gọi là “Baby" cho đến khi bà bước qua độ tuổi 20. Cha bà là bác sĩ và giao toàn việc chăm sóc con cái cho vợ. Cả gia đình bà thường tận hưởng mùa hè ở khu Catskills. Hoàn chỉnh kịch bản, bà cùng người bạn thân - nhà sản xuất Linda Gottlieb - bắt tay tìm đạo diễn và diễn viên phù hợp. Họ đặt ra tiêu chuẩn từ đầu: người làm phim phải có tư duy cởi mở và thành thục về các điệu nhảy. Đạo diễn Emile Ardolino, người vừa đạt giải Oscar và Emmy cho bộ phim tài liệu năm 1983 về người sáng lập trường dạy nhảy He makes me feel like dancing (Người thầy dạy nhảy múa) - là ứng viên sáng giá. Tâm đắc với kịch bản, Emile đã đồng ý, bất chấp rằng ông chưa có kinh nghiệm làm phim truyện. Khâu tuyển diễn viên cũng vô cùng gian nan. Nhiều cái tên sáng giá như Sarah Jessica Parker, Winona Ryder... đã được đề xuất cho vai Baby nhưng cuối cùng đoàn lại chọn Jennifer Grey, khi ấy mới 26 tuổi, và đi thử vai chỉ vì… nghe lời cha. Jennifer không biết nhảy nhưng nét mạnh mẽ của cô đã thuyết phục được Eleanor. Quá trình tuyển chọn diễn viên cho vai Johnny cũng nằm ngoài dự kiến của ê kíp làm phim. Nữ biên kịch yêu cầu nam chính phải có đôi mắt mí lót và giữa hàng trăm hồ sơ tiềm năng, bà lại “chấm” Patrick Swayze. Nghịch lý ở đây là trong hồ sơ dự tuyển, Patrick đã viết hoa yêu cầu “No dancing" (không nhảy múa). Xuất thân trong môi trường múa từ bé, có mẹ là một biên đạo kiêm vũ công, bản thân cũng trải qua quá trình tập luyện ballet ở New York nhưng nam tài tử phim i (Hồn ma) từ chối nhảy múa vì muốn tập trung vào chuyên môn diễn xuất. Đi trước thời đại Bất kể câu chuyện tình yêu giữa 2 nhân vật chính có phần sến súa, phi lý, điều gì đã khiến một bộ phim về nhảy múa lại mang ý nghĩa văn hóa nhiều đến vậy? Đó chính là bởi phim đã đề cập rất nhiều vấn đề xã hội nhức nhối thời bấy giờ. Baby xuất thân từ gia đình giàu có nhưng cô có lòng trắc ẩn với những người lao động có địa vị thấp hơn. Ở tuổi 17, cô quyết theo học về kinh tế ở những quốc gia kém phát triển và muốn gia nhập một tổ chức phi chính phủ sau này. Sự phân biệt đối xử, miệt thị, tính dục hóa giai cấp lao động cũng được thể hiện rõ qua nhân vật Johnny và Penny. Họ bị lợi dụng về tình cảm và thể xác bởi những nhân vật tầng lớp thượng lưu, bị vu oan, thậm chí không được tiếp cận bình đẳng về y tế. Bên cạnh đó, phim đề cập đến vấn đề phá thai và quyền phá thai an toàn của phụ nữ - một đề tài vẫn còn nhức nhối cho đến nay. Nhân vật Penny chọn phá thai “chui" và suýt rơi vào cửa tử. Trước khi phim ra rạp, nhà phát hành từng yêu cầu ê kíp làm phim cắt đi cảnh này. Tuy nhiên, Eleanor cùng nhà sản xuất Linda kiên quyết giữ lại vì họ tin rằng những vấn đề đó thực sự có giá trị và phải được nói ra. Cảnh này sẽ ảnh hưởng đến nguyên do nhân vật Baby quyết tâm học nhảy và đấu tranh cho tình yêu. Phải mất 10 năm kể từ khi bộ phim này ra đời, phụ nữ Mỹ mới xuống đường đấu tranh cho quyền được phá thai an toàn của mình. Bên cạnh đó, phim đã lồng ghép nhiều ca khúc kinh điển của những ca sĩ và nhóm nhạc người da đen nổi tiếng vào thập niên 1960, như đoạn nhạc trước khi vào phim là Be my baby (Hãy làm người yêu em) của tam ca The Ronettes hay Cry to me (Khóc với anh) của cha đẻ nhạc soul Solomon Burke... Những bài hát thể hiện sự mãnh liệt trong tình yêu kết hợp với vũ điệu nóng bỏng và nhiều cảm xúc. Dirty dancing đã trở thành một trong những phim đạt doanh thu ngất ngưởng trong năm 1987, vượt qua những định kiến và kỳ vọng của các nhà phát hành phim thời bấy giờ. Ca khúc I've had the time of my life (Khoảnh khắc cuộc đời) nhận được cả giải thưởng từ Viện Hàn Lâm và Quả cầu vàng cho hạng mục Ca khúc gốc xuất sắc nhất và cả giải Grammy cho màn song ca hay nhất. Bộ đôi diễn viên Jennifer Grey và Patrick Swayze cũng nhận được đề cử diễn viên xuất sắc ở giải Quả cầu vàng. Phim còn được chuyển thể thành phiên bản nhạc kịch Broadway. 9 năm kể từ Dirty dancing, vị đạo diễn Emile năm xưa qua đời vì căn bệnh AIDS. 22 năm từ khi thủ vai Johnny, tài tử Patrick Swayze cũng đã qua đời sau thời gian dài chống chọi với căn bệnh ung thư tụy. Eleanor Bergstein từng nói: “Patrick Swayze từng băn khoăn rằng sau khi anh mất đi, liệu có còn ai nhớ đến mình không?” và câu trả lời là: Đến bây giờ, khán giả vẫn nhớ về người đàn ông hiền lành, lãng tử qua Ghost và Dirty dancing. Sự cống hiến của Patrick cho Dirty dancing mãi là vô giá. Người ta sẽ không quên được có một người bất chấp cả đầu gối từng bị chấn thương để hết mình với vai diễn, từng nhập viện vì chấn thương trong lúc quay phim mà vẫn không lùi bước. Và đến nay, nhiều người yêu nhạc vẫn ngân nga ca khúc She's like the wind (Nàng như một ngọn gió) mà anh sáng tác và hát cho phim.
    • 0 downloads
    Một gã lạ mặt đến San Miguel, một thị trấn biên giới nhỏ của Mexico. Silvanito, chủ quán trọ nói với Gã lạ mặt về mối thù gay gắt giữa hai gia đình đang tranh giành quyền kiểm soát thị trấn này. Một là anh em nhà Rojo, bao gồm Don Miguel (anh cả), Esteban (cứng đầu nhất), và Ramón (có năng lực và thông minh nhất), hai là gia đình John Baxter, cảnh sát trưởng thị trấn. Gã lạ mặt quyết định nhân cơ hội này kiếm "một nắm đô la" ở thị trấn này. Cơ hội đến khi có một đội binh sĩ Mexico đi ngang qua thị trấn, nghi ngờ rằng họ đang chở vàng và có mục đích nào đó, Gã lạ mặt cùng với ông chủ nhà trọ Silvanito đi theo dõi họ. Hai người đã phát hiện ra đội binh sĩ Mexico này định dùng số vàng đó để mua một số vũ khí hiện đại của quân đội Mỹ. Nhưng những kẻ bán vũ khí cho họ đã bị Ramon Rojo giết chết hết, hắn và người của hắn giả trang thành những kẻ này rồi tiêu diệt toàn bộ đội binh sĩ Mexico, cướp toàn bộ số vàng. Gã lạ mặt đem hai cái xác lính đặt ở nghĩa trang gần đó, sắp đặt để họ trông như còn sống. Sau đó gã bán thông tin cho cả hai bên rằng có hai binh sĩ Mexico sống sót sau cuộc tấn công. Cả hai bên đều đua đến nghĩa trang, phe Baxters muốn đưa họ về để làm bằng chứng tố cáo nhà Rojo, còn phe Rojos thì muốn thủ tiêu để bịt miệng họ. Trong khi 2 phe đang đấu súng khốc liệt với nhau ngoài nghĩa trang, Gã lạ mặt đột nhập vào nhà Rojo và tìm thấy số vàng bị cướp. Nhưng một sự cố đã xảy ra, gã vô tình đánh ngất một phụ nữ lạ mặt (mà gã tưởng là một người đàn ông nhà Rojo). Gã buộc phải cứu người phụ nữ này (tên là Marisol), đưa cô đến nhà Baxter để giúp cô hồi phục. Nhà Baxter đã dùng Marisol để trao đổi lấy Antonio, đứa con trai của họ bị bắt trong cuộc đấu ở nghĩa trang. Sáng hôm sau, cuộc trao đổi diễn ra, Gã lạ mặt được chủ quán trọ Silvanito cho biết câu chuyện của Marisol. Chồng cô bị Ramon Rojo vu oan là chơi bài gian lận, hắn lấy cớ đó buộc Marisol phải theo hắn, nếu không hắn giết con trai họ. Đêm đó Gã lạ mặt giải thoát cho gia đình Marisol và làm như thể nó đã bị tấn công bởi nhà Baxters, sau đó cho họ một số tiền và giúp họ chạy xa khỏi thị trấn. Nào ngờ, Ramón biết tỏng mình bị lừa nên bắt được Gã lạ mặt và "hội đồng" gã hòng tìm Marisol và giải quyết chồng con cô. Vì để ý các thùng rượu từ trước, gã giết hai kẻ thân tín của Ramón ngay hôm sau và bỏ trốn khá kịch tính. Quá tức giận, Ramón lệnh lục soát cả San Miguel, tìm đến Silvanito để đánh đập, tra khảo và giữ ông ta lại. Nhân cớ tìm người, Ramon phóng hỏa và bắn chết cả nhà Baxter "không chút thương tiếc". Biết hắn không để ý đến ông già nhà đòn, gã trốn vào hòm và thấy hết những tội ác của Ramón với người bạn mới quen và nhà Baxter, hối hận và lập mưu trả thù...
    • 0 downloads
    "Spaceballs" (1987) là một bộ phim hài khoa học viễn tưởng do Mel Brooks đạo diễn và viết kịch bản. Phim này là một tác phẩm parodia (nhại) các bộ phim khoa học viễn tưởng, đặc biệt là "Star Wars". Phim nổi bật với phong cách hài hước đặc trưng của Mel Brooks, thường xuyên châm biếm các yếu tố trong thể loại khoa học viễn tưởng và hành động. "Spaceballs" được biết đến với các tình huống hài hước, các nhân vật kì quặc, và nhiều cảnh nhại vui nhộn của các bộ phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng.
    • 0 downloads
    Mặc dù có cốt truyện đơn giản, nhưng cách dẫn dắt của phim lại cho thấy sự tinh tế, phức tạp và bất ngờ, đủ để khiến người ta hiểu tại sao The Good, The Bad and The Ugly lại trở thành phim cao bồi kinh điển. The Good, The Bad and The Ugly (Tựa Ý: Il Buono, Il Brutto, Il Cattivo) – Thiện, Ác, Tàra đời năm 1966 do đạo diễn Sergio Leone chỉ đạo chính. Đây là một trong các phim cao bồi kinh điển, nhận được vô số lời khen ngợi về mặt phê bình cũng như mang đến thành công lớn về mặt thương mại. Phim có sự tham gia của Clint Eastwood, Lee Van Cleef, Eli Wallach xoay quanh ba nhân vật: Thiện (Clint Eastwood) – một kẻ vô danh có biệt danh là Blondie do mái tóc vàng; Ác (Lee Van Cleef) – tên thật là Angel Eyes (Mắt Thiên Thần), một kẻ tàn nhẫn, sẵn sàng đánh đập, tra tấn, giết người không ghê tay nhằm đạt được mục đích; và cuối cùng là Tà (Eli Wallach) – một kẻ vô lại tên thật là Tuco, chuyên sống nghề trộm cướp. Cả ba đều theo đuổi một mục tiêu là $200.000 bằng tiền vàng, được chôn dưới ngôi mộ trong một nghĩa trang. Lấy bối cảnh giữa cao trào cuộc nội chiến 2 miền Nam, Bắc nước Mỹ, 3 kẻ Thiện, Ác, Tà vô tình gặp gỡ, đối đầu và cuối cùng là quyết chiến để giành lấy số tiền ấy. Mặc dù có cốt truyện đơn giản, nhưng cách dẫn dắt của phim lại cho thấy sự tinh tế, phức tạp và bất ngờ, đủ để khiến người ta hiểu tại sao The Good, The Bad and The Ugly lại trở thành phim cao bồi kinh điển. Những góc quay rộng, cú máy dài và nét bạo lực (so với tiêu chuẩn thời đó), chính là những yếu tố làm nên phong cách phim rất đặc trưng của Sergio Leone. Điểm nổi bật khác của bộ phim đó chính là phần thoại khá hạn chế về thời lượng nhưng gọn ghẽ về chất lượng đến mức tối đa. Không có những màn rao giảng triết lý, không có những phân đoạn cảm hóa tốt xấu của nhân vật, các nhân vật trên phim sống đúng với bản chất, thoại đúng với bản chất và phần đánh giá nhân vật còn lại thế nào thì trao cho khán giả. Phim sử dụng nhiều hình ảnh đối lập để tạo nên sự cân bằng, một yếu tố mà thường các phim kinh điển (Schindler’s List, The Godfather…) thường dùng, nhưng các phim hiện đại ngày nay thì vận dụng khá ít. Một kẻ vô nhân tính lại có tên là Angel Eyes (Mắt Thiên Thần), một kẻ cướp bẩn thỉu lại có người anh trai là mục sư, cảnh tra tấn diễn lại ra dưới nền nhạc của một bài thánh ca… các tình tiết và hình ảnh được thể hiện trong phim có phong cách giễu nhại vừa ý nhị mà tinh tế. Clint Eastwood vai Thiện/Blondie trong phim có thời lượng lên hình không nhiều bằng vai Tà, nhưng vẫn là nhân vật mang đến ấn tượng cho khán giả nhiều nhất. Blondie sống theo quy tắc của riêng mình, thi thoảng bày tỏ sự cảm thông cho những người đã hi sinh trên chiến trường hoặc chấp nhận đứng về phía Tà để chống lại Ác… Blondie không phải là kiểu nhân vật anh hùng luôn luôn đúng và bất khả chiến bại mà là nhân vật phản anh hùng, không ra tay tàn sát và nhẫn tâm như kẻ Ác, nhưng nếu có thù thì ắt sẽ trả. Dáng người dong dỏng cao, vẻ lạnh lùng, miệng ngậm xì gà, tay giắt súng và gương mặt phong trần, lãng tử của Blondie chính là hình ảnh của một “thiên thần tóc vàng” (cách mà Angel Eye gọi anh) giữa một rừng các nhân vật nếu không phải dạng bần cùng, vô lại, thì cũng là dạng ác nhân, cục súc. Hành trình tranh giành những đồng tiền vàng được đặt giữa bối cảnh chiến tranh, tàn sát khiến bộ phim không chỉ đơn thuần là phim bao bồi viễn Tây mà còn là bộ phim mang tinh thần phản chiến. Phim đã đặt ra tiêu chuẩn cao cho các phim cao bồi sau này, với hình ảnh, âm nhạc và những cảnh đấu súng đã trở thành kinh điển. Một điều quan trọng khi thưởng thức phim không phải là đoán xem ai sẽ là người chiến thắng sau cùng, mà quan trọng là hành trình họ đối đầu, trả thù, hợp tác và phản bội nhau trong cuộc chiến ấy ra sao. Cảnh đấu súng kết thúc của 3 nhân vật giữa một vùng đất hình oval khô cằn trong nghĩa trang chính là cảnh hồi hộp và gay cấn nhất. 3 người, kẻ ác, kẻ tà và người thiện, ai sẽ bị loại đầu tiên và cuộc đấu súng cuối cùng sẽ dành cho 2 kẻ nào xứng đáng nhất? Cuộc sống thay đổi khiến gu thưởng thức phim của khán giả cũng thay đổi theo. Một bộ phim 3 tiếng với những tình tiết nhỏ được chăm chút như dò theo dấu vết kẻ thù bằng thuốc lá, thử súng, cầu nguyện, bưng nước, uống rượu… có lẽ không hợp với khán giả bây giờ lắm. The Good, The Bad and The Ugly không phải phim bom tấn với những cảnh hành động cháy nổ ngập trời, anh hùng đánh nhau với kẻ xấu tan nát… mà là đấu súng xen lẫn với đấu trí, kẻ chiến thắng cuối cùng phải là kẻ thông minh, láu cá và may mắn nhất.
    • 0 downloads
    BỐI CẢNH Bộ phim diễn ra vào năm 1988 tại một thị trấn hư cấu ở ngoại ô Mỹ tên là Middlesex, bối cảnh chính trị là thời điểm chiến dịch tranh cử tổng thống của Michael Dukakis và George H.W Bush. Lời thoại đầu tiên của phim là “I’m voting for Dukakis” - Con sẽ bầu cho Dukakis. Điều này cũng như những chi tiết được lồng ghép về sau đã thể hiện sự bất ổn và cuồng loạn của xã hội đương thời, khi thanh thiếu niên bị ‘chính trị hoá’ và muốn nổi dậy chống lại chính quyền Ronald Reagan. Bộ phim xoay quanh Donnie Darko (do Jake Gyllenhaal thủ vai) - một thiếu niên bất ổn với thói quen mộng du, thoát chết trong gang tấc khi một động cơ phản lực rơi từ trên trời rơi xuống và đâm xuyên qua phòng ngủ. Cậu gặp gỡ một sinh vật trong lốt của một con thỏ to lớn. Nó tự nhận mình là “Frank” và nói với Donnie rằng thế giới sẽ kết thúc trong 28 ngày, 6 giờ, 42 phút và 12 giây. Dưới sự dẫn dắt của Frank, Donnie đã gây ra một loạt rắc rối dẫn đến bi kịch cuối cùng của cậu. Trong bộ phim nổi tiếng nhất của mình, đạo diễn Richard Kelly đã thêm vào quan điểm về tôn giáo và cuộc sống của ông. Từng chi tiết nhỏ đều có ý nghĩa riêng, chỉ cần lược qua vài cảnh thì Donnie Darko sẽ không còn là Donnie Darko nữa. LOVE AND FEAR Tình yêu và nỗi sợ là hai cảm xúc chính được gieo rắt trong suốt cả bộ phim, khi Donnie vật lộn với việc lựa chọn giữa mất đi những người cậu yêu thương hay nỗi sợ phải chết trong cô độc. Một chi tiết thú vị khác là ở bài diễn văn ở hội trường, Jim Cunningham đã nói “Thuốc, rượu và quan hệ trước hôn nhân là biểu hiện của sợ hãi”. Đến cuối phim, ta thấy được Donnie đã vi phạm hết cả ba điều luật, do đó, cậu không thể tránh khỏi kết cục bi thảm. Sự đấu tranh nội tâm còn được thể hiện trong một phân cảnh nổi tiếng khác. Buổi tập làm thơ của cô Karen (một trong số ít những giáo viên thực sự tử tế còn sót lại), Donnie đã viết “Một cơn bão đang đến. Một cơn bão sẽ cuốn trôi trẻ nhỏ. Và tôi sẽ cứu rỗi chúng khỏi vương quốc của Bane. Tôi sẽ mang lũ trẻ về lại thềm cửa nhà chúng. Tôi sẽ gửi quỷ dữ xuống địa ngục. Tôi sẽ gửi chúng tới một nơi không ai có thể thấy được, ngoại trừ tôi. Vì tôi là Donnie Darko.” Đây chính là plot chính của cả bộ phim. Trong bài thơ, mọi người được ví như thể trẻ con. Cơn bão chính là ngày tận thế. Việc Donnie đưa bọn quỷ dữ xuống địa ngục thể hiện rằng cậu sẽ tuân theo định mệnh của mình. Ngoài Donnie, Gretchen cũng là người chịu ảnh hưởng bởi hai trạng thái cảm xúc này. Cô bé phải lòng Donnie khi cậu cứu cô khỏi bọn bắt nạt. Sau khi bị lũ du côn trêu đùa trong lớp học, cô hôn Donnie. Và phân cảnh cuối, trước nỗi sợ hãi người bố vũ phu tìm đến, cô gõ cửa nhà và trao thân cho cậu. Họ làm tình, một hành động thể hiện tình yêu mãnh liệt nhất mà những đứa trẻ trong độ tuổi này có thể làm được. Điều này thể hiện rằng, mỗi khi nỗi sợ ập vào, Gretchen lại tìm đến Donnie để trấn tĩnh lại. ĐỨC TIN Trong quá trình trưởng thành, chúng ta sẽ phải đối diện với việc tin tưởng, bỏ mặc hay giữ vững đức tin của mình. Donnie cũng vậy, khi nhiều lần cậu thể hiện sự không tin tưởng của mình đối với “kế hoạch của Chúa” với bác sĩ tâm lý. Nhưng đến cuối bộ phim, ta nhận ra đức tin là một điều rất quan trọng, nó giúp ta vượt qua thử thách và cứu rỗi những người ta yêu. Donnie Darko còn mang thông điệp về sự song hành giữa khoa học và tôn giáo – một chủ đề được tranh cãi có khi cả hàng vạn năm rồi. Bằng thuyết du hành thời gian (khoa học), bộ phim chứng minh được sự tồn tại của một thế lực tối thượng (tôn giáo). Nó vô hình, nhưng lại bí mật cứu rỗi mỗi người trong số chúng ta. Ngoài ra, Richard Kelly cũng khéo léo lồng ghép những chi tiết chứng minh Donnie Darko là hình mẫu của Chúa. Trong một Middlesex hỗn loạn, cậu mang một trái tim nhân hậu. Khi Gretchen mới chuyển đến và bị quấy rối, cậu đã chủ động lên tiếng và đưa cô về tận nhà. Cậu cũng không tham gia vào trò nhục mạ cô bé Trung Quốc béo phì Cherita. Khi biết Cherita thầm thương mình, cậu đối xử với cô bé bằng sự tử tế và chân thành. Có lẽ chính vì lí do này, cậu đã “được chọn” để cứu rỗi thế giới? Một chi tiết rõ ràng hơn là buổi công chiếu phim, sau khi ra Donnie và Gretchen rời khỏi rạp chiếu phim, ta có thể thấy tiêu đề những bộ phim Halloween tiếp theo, trong đó có “The Last Temptation of Christ”- hay “Sự cám dỗ cuối cùng của Chúa”. Bộ phim năm 1988 này (1988, lần nữa) của đạo diễn Martin Scorsese là một trong những phim gây tranh cãi nhất trong lịch sử điện ảnh, được chuyển thể từ tiểu thuyết nổi tiếng của đại văn hào Hy Lạp đoạt giải Nobel, Nikos Kazantzakis, kể về những khát vọng – lẫn dục vọng – rất con người của Chúa. Bộ phim đề cập đến phần con người trong chúa Jesus đang bị treo trên thánh giá trước những cám dỗ của quỷ Satan và về những gì mà lẽ ra cuộc sống trần tục ngài đã có, trong đó bao gồm cả việc kết hôn và có con với Mary Magdalene. Khoảnh khắc lúc chúa Jesus nhắm mắt lại và hoàn thành vận mệnh của mình, một luồng ánh sáng diệu kỳ xuất hiện ở đoạn kết. Sự trùng khớp giữa hai bộ phim này thể hiện tài làm phim và dựng phim tinh tế của đội ngũ sản xuất. ÂM NHẠC VÀ LỜI CẢM ƠN SÂU SẮC ĐẾN NỀN VĂN HOÁ ĐẠI CHÚNG THẬP NIÊN 80 Trong “Mad World”, có một câu hát rất ấn tượng: “The dreams in which I’m dying are the best I’ve ever had” - Những giấc mơ mà tôi chết đi là những giấc mơ đẹp đẽ nhất. Trong suốt bộ phim, Donnie đầy rắc rối và phiền hà, chỉ đến giây phút cuối cùng cậu mới thanh thản, nhận ra định mệnh của mình và biết việc mình đang làm là đúng đắn. Bài hát “Love Will Tear Us Apart” (Tình yêu sẽ chia lìa đôi ta) của Joy Division vang lên khi Gretchen gõ cửa nhà Donnie trong bữa tiệc Halloween và trao thân cho cậu. Mọi người thường đùa rằng trong những phim kinh dị thập niên 70, cách duy nhất để một nhân vật nữ sống sót là phải còn trinh. Gretchen chết chỉ vài giờ sau đó. CÁI CHẾT Phân cảnh cuối, Donnie về nhà, hôn lên trán chị gái thân thương, nằm lên giường, mỉm cười vì đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Nền nhạc Mad World vang lên. Mọi thứ xảy ra trong 28 ngày 6 giờ, 42 phút và 12 giây vừa qua chưa từng tồn tại. Cùng lúc đó, những người trải qua vũ trụ song song bật dậy lúc nửa đêm, nhớ nhớ quên quên, cứ ngỡ 28 ngày kia là một giấc chiêm bao. Kitty Farmer bật dậy, tự hỏi liệu những việc làm của bà là đúng hay sai. Cherita mỉm cười hạnh phúc vì được gặp người cô bé thầm thương trộm nhớ. Frank sờ vào mắt phải mình, dường như nhớ lại lúc anh bị Donnie bắn hạ. Còn Jim Cunningham, hắn bật khóc khi bí mật xấu xí nhất của mình bị lộ tẩy. Hắn từng thuyết trình rằng mọi sự việc trên đời này chỉ có thể chia thành hai thái cực là “Love” và “Fear”, trớ trêu thay, việc kinh doanh băng khiêu dâm trẻ em lại nằm ở chính giữa, hắn vừa yêu thích lại vừa sợ hãi hành động này. Khoảng một tuần sau cái chết của Donnie, Cunningham tự sát. Nếu Frank không gọi Donnie ra khỏi nhà ở phân cảnh đầu, Donnie sẽ chết ngay tức khắc, đâu cần phải sắp xếp một kế hoạch khổng lồ đến thế này? Điều này chứng tỏ cái chết của Donnie không phải vô nghĩa. Cậu chết trong đơn độc, nhưng khi đó cậu lại mỉm cười, biết những việc mình làm là đúng đắn. Cậu hy sinh bản thân vì nhân loại, xoa dịu những ham muốn tiềm ẩn của người dân vùng Middlesex. Có một điều rất trớ trêu là bộ phim bắt đầu với một nụ cười và kết thúc với một nụ cười. Nhưng sắc thái của chúng không hề giống nhau. Nếu đầu phim, Donnie buồn cười vì chứng mộng du điên khùng của mình thì đến cuối, cậu đạt được sự thanh thản. Như bao con người, Donnie lần lượt trải qua những dòng cảm xúc: phủ nhận, tức giận, đàm phán, đau buồn và cuối cùng là chấp thuận. Cái chết của cậu mang đậm chất tâm linh. Bớt đau buồn về những người đã qua đời, bởi chẳng ai sinh ra và chết đi không có lí do cả. Hãy tin rằng cuộc đời của Donnie chưa kết thúc, cậu vẫn tồn tại, tiếp tục hành trình của mình. “Bà Roberta Sparrow thân mến, cháu đã đọc xong quyển sách và có rất nhiều điều muốn hỏi bà. Đôi khi cháu sợ những gì bà sẽ nói. Sợ bà sẽ bảo rằng đây không chỉ là một cuốn tiểu thuyết viễn tưởng. Cháu chỉ mong đáp án sẽ đến khi cháu tiến vào giấc ngủ. Cháu ước ao rằng khi thế giới này đi đến hồi kết, cháu có thể thở phào nhẹ nhõm, bởi vì sẽ có rất nhiều thứ để trông đợi phía trước.” THẾ GIỚI NƠI NHỮNG NGƯỜI TRẺ VẬT LỘN ĐỂ TỒN TẠI Donnie Darko liệu có phải là người điên hay không? Người xem, hay có lẽ là chính cậu, chắc hẳn đều mang trong mình câu hỏi này? Lúc ban đầu, cậu vẫn đi bác sĩ đều đặn, cậu thực sự muốn mình bình thường trở lại. Ừ thì những điều xảy ra thật quá là phi lí. Nhưng cuối cùng thì, cậu học cách tin tưởng bản thân mình và bỏ thuốc, quyết định làm theo trái tim mách bảo. Vị đạo diễn kiêm biên kịch đại tài Richard Kelly viết Donnie Darko khi ông 23 tuổi, một độ tuổi chưa hẳn là người lớn mà cũng chẳng còn thơ ngây. Vậy nên, sự cô đơn và điên loạn được khắc hoạ rất rõ trong bộ phim. Xem xong tôi vừa thấy buồn cười vừa thấy đau lòng. Ôi cái độ tuổi mà chẳng ai hiểu mình, nó chua xót mà nó điên cuồng, và mình chỉ trải qua một lần trong đời thôi! TẠM KẾT Nếu được dùng một tính từ để miêu tả bộ phim này, thì chính là “tinh tế”. Chỉ quay trong vẻn vẹn 28 ngày giời, tầm ảnh hưởng của bộ phim này có lẽ sẽ kéo dài đến cả trăm năm. Với những thông điệp kể trên, nó xứng đáng được gọi là một kiệt tác điện ảnh thế kỉ 21!
    • 0 downloads
    Phim mở đầu bằng dòng chữ: "Trong khi sự sống chẳng có giá trị gì cả, cái chết đôi lúc lại có giá. Vì vậy mà những kẻ săn người đã xuất hiện..." (tiếng Anh: While life had no value, Death, sometimes, had its price. That is why the bounty killers appeared). Hai tay súng thiện xạ Monco và Đại tá Mortimer gặp gỡ nhau tại miền Tây Texas khi đang theo đuổi hai mục đích khác nhau. Monco lùng cướp để lấy tiền thưởng còn Mortimer thì vì một mối tư thù riêng. Mortimer đến Tucumcuri, New Mexico để hạ sát tên cướp tên là Guy Callaway với số tiền thưởng một ngàn Mỹ kim. Monco đến White Rock giết tên Red Canagh với giá hai ngàn Mỹ kim. Cả hai đụng độ nhau tại El Paso, Texas trong việc truy lùng tên El Indio với giá treo thưởng mười ngàn Mỹ kim. Và việc truy lùng này đã kéo dài cho đến hết bộ phim. El Indio đang toan tính cướp ngân hàng El Paso, mà thời đó là một ngân hàng rất uy tín, được bảo mật rất kỹ càng, và nhất là chứa đựng một số tiền tồn khố khổng lồ. El Indio là một tên cướp gan dạ, tàn nhẫn, gian hùng và mưu mô; dưới tay y còn có mười ba thuộc hạ khác. Vì vậy thanh toán bọn El Indio không phải là một công việc dễ dàng. Để thực hiện điều đó, Monco và Mortimer đã đồng ý cộng tác làm việc chung, ăn chia đều. Monco sẽ trà trộn vào đám cướp còn Mortimer sẽ bao vòng ngoài. Mục đích của Monco là kiếm thêm "ít đô-la nữa". Trước kia El Indio đã hãm hiếp em gái của Mortimer, sau khi giết chết chồng cô, khiến cô này phải tự sát vì nhục nhã. Vì vậy mà trong việc hợp tác này Mortimer muốn chính tay mình hạ sát El Indio để rửa mối thù xưa. Để trà trộn vào đám cướp, Monco đã tìm cách cứu Sancho, là một bạn thân của El Indio, và đưa tận tên này đến sào huyệt. El Indio cùng thuộc hạ cướp ngân hàng El Paso thành công một cách ngoạn mục và lấy được cái tủ sắt đựng tiền và cả bọn kéo về miền Agua Caliente (Ôn Tuyền) theo chỉ thị của El Indio để cho tình hình lắng dịu. Trước đó Monco tính dẫn bọn cướp đi về miệt bắc trái ngược với dự tính đã thỏa thuận với Mortimer là thay vì đi về miệt nam. Tuy nhiên Mortimer đã đoán trước ra sự bất đồng của Monco cũng như ý định của El Indio và đã dến Agua Caliente để đón đường trước. Đụng độ bọn El Indio, Mortimer đề nghị mở cái tủ sắt với giá năm ngàn đô và El Indio đồng ý nhưng với điều kiện là phải đợi một tháng sau mới giao tiền. Thế là cả bọn đóng trại. Nửa đêm Monco chờ cho cả bọn ngủ hết lẻn vào nhà kho để đánh cắp số tiền kia, nhưng không ngờ Mortimer đã đến trước chực sẵn với cái túi đã nhồi tiền và giao hết cho Monco. Và sau đó cả hai toan trốn thoát. Nhưng việc bị bại lộ, cả hai bị một trận đòn hội đồng nhừ tử và bị trói giam. Bất ngờ El Indio âm thầm cho thả Monco và Mortimer rồi vu khống cho một đàn em, và sau đó ra lệnh cho cả bọn theo truy lùng. Ý đồ của y là để cho hai bên tàn sát nhau theo chiến thuật "lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận" và sau đó y sẽ ôm hết số tiền kia mà hưởng trọn một mình. Một tên đàn em tên Grossy đã tinh ý quay ngược lại dùng súng ép El Indio mở tủ sắt. Trong đó rỗng tuếch. Trong khi đó bên ngoài Monco và Mortimer đã hạ sát hết những tên ra truy lùng, buộc lòng Grossy phải giao súng lại cho El Indio. Phim kết thúc với màn đấu súng quen thuộc của đạo diễn Sergio Leone trong tiếng nhạc ai oán và gay cấn hồi hộp của Ennio Morricone. Mortimer giết chết El Indio rửa được mối thù cho em gái mình và nhường hết số tiền của bọn cướp cho Monco với câu trả lời "thôi để lần sau đi", sau khi Monco đề nghị chia số tiền kia ra làm hai.
    • 0 downloads
    Năm 1944, quân đội Đức Quốc xã bắt giữ Indiana "Indy" Jones và Basil Shaw ở dãy núi Alps. Nhà vật lý Jürgen Voller đã tìm thấy một nửa vòng quay của Archimedes, vật có thể tạo ra khe nứt thời gian, cho phép người sử dụng du hành thời gian. Indy lấy được mảnh vòng quay rồi cùng với Basil chạy thoát khỏi đoàn tàu của quân Đức trước khi lực lượng Đồng minh phá hủy đường ray. Hai mươi lăm năm sau, năm 1969, Indy sắp nghỉ hưu tại Đại học Hunter ở Thành phố New York. Marion Ravenwood, vợ ông, đã ly thân với ông. Helena Shaw, con gái của Basil và cũng là con gái đỡ đầu của Indy, đến thăm ông và nói rằng cô muốn nghiên cứu về chiếc vòng quay của Archimedes. Khi Indy và Helena lấy mảnh vòng quay từ trường đại học, thuộc hạ của Voller đã tấn công họ. Helena, được tiết lộ là người chuyên buôn lậu cổ vật, mang vòng quay bỏ trốn để bán đấu giá nó ở chợ đen. Indy bị buộc tội giết hại hai đồng nghiệp, ông phải chạy qua một cuộc diễu hành và một cuộc biểu tình phản chiến để trốn thoát. Sallah, bạn cũ của Indy, đã giúp ông rời khỏi nước Mỹ. Tại khách sạn Tangier, Indy phá rối cuộc bán đấu giá của Helena, lúc này Voller và thuộc hạ của hắn đến đánh cắp vòng quay. Indy, Helena và Teddy Kumar đuổi theo Voller bằng xe lam nhưng không bắt được hắn. Sau đó thuộc hạ của Voller đã giết các đặc vụ CIA và cướp máy bay trực thăng của họ. Nhóm của Indy đến gặp Renaldo, một thợ lặn biển và cũng là bạn cũ của Indy. Họ lặn xuống một con tàu đắm ở Biển Aegea và lấy tấm bảng "graphikos", vật hướng dẫn đến chỗ nửa còn lại của vòng quay. Khi Voller đến và giết Renaldo, nhóm của Indy chạy thoát và đến Sicily. Indy và Helena tìm thấy hầm mộ của Archimedes, trong đó có nửa còn lại của vòng quay. Voller xuất hiện và bắt Indy đi. Sau khi lắp ráp vòng quay, Voller tiết lộ rằng hắn sẽ du hành thời gian trở lại năm 1939 để ám sát Adolf Hitler và giúp nước Đức giành chiến thắng trong Thế chiến hai. Voller kích hoạt vòng quay, tạo ra khe nứt thời gian trên bầu trời. Helena đã kịp thời leo lên máy bay của Voller. Teddy cũng đuổi theo họ trên một máy bay khác. Khi tiếp cận khe nứt, Indy nhận ra rằng sự trôi dạt của lục địa có thể đã làm thay đổi tọa độ dòng thời gian. Thay vì năm 1939, cả nhóm đã đến Cuộc vây hãm Syracuse vào năm 212 trước Công nguyên. Các đội quân tham chiến bắn hạ máy bay của Voller vì cho rằng nó là một con rồng. Indy và Helena nhảy dù trước khi máy bay đâm xuống đất, giết chết tất cả người trên đó. Archimedes tìm thấy xác và đồng hồ đeo tay của Voller trong đống đổ nát. Ông đưa chiếc vòng quay cho Indy nhưng vẫn giữ chiếc đồng hồ. Indy và Helena biết rằng Archimedes đã tạo ra vòng quay để đưa người sử dụng từ tương lai đi qua khe nứt dẫn đến năm 212 trước Công nguyên, nhằm nhận được sự trợ giúp của họ trong cuộc chiến chống lại lực lượng La Mã áp đảo. Khi khe nứt sắp đóng lại, Indy nói rằng ông muốn ở lại nơi này, cảm thấy không còn gì để quay về. Helena lo sợ sẽ xảy ra nghịch lý thời gian và không muốn bỏ Indy nên đã đánh ông bất tỉnh rồi đưa ông về. Trở lại hiện tại, Indy tỉnh lại trong căn hộ của mình. Helena, Teddy, Sallah và Marion cũng có mặt ở đó. Indy làm hòa với Marion trong khi những người khác đi ra ngoài để cho hai người được riêng tư.
    • 0 downloads
    Năm 1936, nhà khảo cổ học người Mỹ Indiana Jones đã dũng cảm dấn thân vào một ngôi đền cổ xưa chứa nhiều cạm bẫy chết người tại Peru nhằm tìm ra một pho tượng thần bằng vàng. Sau khi vượt qua hàng loạt thử thách cũng như bị những kẻ dẫn đường phản bội, anh liền đối mặt với đồng nghiệp đối địch của mình, nhà khảo cổ René Belloq và đám thổ dân người Jibito bản địa. Do bị chúng bao vây và áp đảo, Jones buộc phải trao pho tượng cho Belloq rồi nhân cơ hội trốn thoát bằng một chiếc thủy phi cơ đậu gần đó. Không lâu sau, hai đặc vụ thuộc Cơ quan Tình báo đã có buổi gặp mặt riêng với Jones tại Đại học Marshall – nơi anh đang làm giảng viên; họ báo tin cho Jones rằng bọn Phát xít Đức đang làm việc cùng Abner Ravenwood, người thầy cũ mà anh từng theo học tại Đại học Chicago. Phát xít Đức biết rằng Ravenwood chính là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu về thành phố cổ đại Tanis ở Ai Cập, và ông này là người đang nắm giữ chiếc huy hiệu đính trên đầu cây "quyền trượng của thần Ra" – một di vật thuộc thời Ai Cập cổ đại. Jones đưa ra suy luận rằng bọn Phát xít đang tìm kiếm chiếc rương thánh vì tin rằng nó sẽ làm cho quân đội của chúng trở nên bất khả chiến bại. Cuối cùng hai đặc vụ ủy thác cho Jones nhiệm vụ tìm kiếm chiếc rương. Jones đi đến Nepal để tìm manh mối thì phát hiện ra Ravenwood đã chết, còn mảnh huy hiệu thì nằm trong tay con gái ông là Marion. Jones ghé thăm quán rượu của Marion để xin mảnh huy hiệu nhưng bị cô từ chối, ngay sau đó cô gái này bị một nhóm côn đồ do sĩ quan của Phát xít Arnold Toht dẫn đầu tìm đến. Một trận đấu súng nổ ra, quán rượu bị đốt cháy còn huy hiệu bị bén lửa. Toht cố cầm lấy chiếc huy hiệu và bị bỏng tay, thế là y cắn răng trốn khỏi quán rượu. Jones và Marion giành lại được mảnh huy hiệu, rồi cô quyết định trở thành bạn đồng hành cùng Jones trong chuyến phiêu lưu của anh. Họ di chuyển đến Cairo, Ai Cập và gặp gỡ bạn của Jones là Sallah, một thợ đào lành nghề. Sallah báo tin với hai người rằng Belloq cùng bọn Phát xít đang đào bới tìm kiếm "Giếng Linh hồn" — nơi được cho là dẫn đến chỗ cất giấu chiếc rương, với một bản sao của mảnh huy hiệu được tạo nên từ vết sẹo trên tay Toht. Tiếp đó, Jones và Marion bị một nhóm lính Phát xít tấn công và Marion tưởng như đã chết bởi một vụ nổ trong cuộc truy đuổi. Sau khi giáp mặt với Belloq tại một quán rượu địa phương, Jones và Sallah tái hợp nhau rồi họ nhận ra mảnh huy hiệu của bọn Phát xít sở hữu chưa hoàn thiện cũng như nơi chúng đang đào bị sai chỗ, bởi chúng chỉ nắm được một phần thông tin liên quan đến vị trí của Giếng Linh hồn. Jones và Sallah đã bí mật thâm nhập vào nơi Phát xít Đức đào xới. Tại đây Jones phát hiện Marion còn sống nhưng đang trong tình cảnh bị trói chặt và bịt miệng trong một túp lều; anh quyết định không cởi trói và giải thoát cho cô vì sợ đánh động bọn Phát xít, nhưng hứa sau đó sẽ trở lại cứu cô. Kế đó, Jones và Sallah cùng các cộng sự đã lần ra vị trí của Giếng Linh hồn và phát hiện trong đó toàn rắn độc. Họ chợt nảy ra ý tưởng xua đuổi bọn rắn bằng lửa và xăng rồi tiến đến chỗ quan tài đá đang cất giữ chiếc rương. Không lâu sau, Belloq, Toht cùng sĩ quan Phát xít Dietrich phát hiện ra hành tung của nhóm Jones và tiến hành bao vây chiếc giếng, đoạt lấy chiếc rương khỏi tay Jones cũng như nhốt anh và Marion vào trong hầm mộ. Cả hai nỗ lực thoát khỏi hầm mộ và tiến đến một phi trường địa phương, nơi Jones có màn đấu tay đôi với một tên thợ máy và giành chiến thắng, qua đó phá hủy chiếc phi cơ có thân cánh liền khối mà bọn Phát xít dùng để vận chuyển chiếc rương tới Berlin, Đức. Quân Quốc xã trong tâm trạng hoảng loạn đã đưa chiếc rương lên xe tải chạy trốn, nhưng Indy liền cưỡi ngựa truy đuổi đến cùng: anh cướp xe tải, đánh bại bọn Phát xít và thu xếp để vận chuyển chiếc rương đến Luân Đôn bằng tàu hơi nước có tên Bantu Wind. Ngày kế tiếp, một con tàu U-boat của bọn Quốc xã chặn đường đi của Bantu Wind. Belloq, Toht và Dietrich đoạt lại chiếc rương và bắt giữ Marion, nhưng không tìm thấy Jones; sau đó nhà khảo cổ này bí mật nhảy lên chiếc tàu U-boat và theo chân kẻ thù đến biển Aegea. Khi đặt chân đến đó, Belloq định kiểm tra sức mạnh của chiếc rương trước khi đem trình bày nó trước Hitler. Jones sau đó đã tự hiện diện trước bọn Phát xít và đe dọa phá hủy chiếc rương bằng một khẩu súng chống tăng, nhưng Belloq nhận ra trò bịp của anh và buộc Jones phải đầu hàng. Quân Quốc xã đưa Jones và Marion tới khu vực nơi chiếc rương sẽ được mở; chúng trói chặt họ vào một chiếc cột đứng để quan sát. Trong bộ trang phục Thượng tế của Israel, Belloq tiến hành nghi thức mở chiếc rương bằng lời gọi hồn của một người cầu nguyện Sabát, thế rồi chiếc rương mở ra chứa đầy cát bên trong – chúng có lẽ là những gì còn sót lại của Mười điều răn. Khi Jones cảnh báo Marion hãy nhắm chặt mắt lại, những linh hồn bay lên từ chiếc rương và sau đó dần lộ diện là những Thiên thần chết chóc. Kế đó những ngọn lửa dần hình thành phía trên chiếc rương bị mở, rồi chúng bắn ra hàng loạt tia năng lượng xuyên thủng bọn lính Quốc xã và giết chết tất cả chúng ngay tại chỗ. Dưới sức nóng khủng khiếp, Dietrich ngay lập tức bị biến thành cái xác ướp; tất cả da thịt của Toht bị tan chảy khỏi hộp sọ của y, còn đầu của Belloq thì nổ tung. Tiếp đó cả một bể lửa nhấn chìm và làm bốc hơi toàn bộ những người tận mắt chứng kiến vụ việc trong một cơn gió lốc, ngoại trừ Marion và Jones, trước khi nắp của chiếc rương tự đóng lại. Khi Jones và Marion mở mắt ra, họ thấy toàn bộ khu vực đã bị xóa sổ và đám dây trói họ cũng bị đốt cháy, cặp đôi vui mừng ôm nhau vì đã thoát nạn. Trở lại Washington, D.C., các đặc vụ thuộc Cơ quan Tình báo nói với Jones và Marcus Brody rằng chính phủ Hoa Kỳ đã trả cho họ một khoản tiền hậu hĩnh vì đã bảo vệ toàn vẹn chiếc rương. Các đặc vụ cũng cho biết chiếc rương hiện đang nằm ở một nơi an toàn và được trang bị bảo vệ nghiêm ngặt, và nó sẽ được "những chuyên gia hàng đầu" tiến hành nghiên cứu và giám sát. Tiếp đó ở cảnh cuối phim, chiếc rương được niêm phong trong một thùng gỗ và được cất giữ trong một nhà kho chính phủ khổng lồ bên cạnh vô số các thùng khác (sau này ngụ ý nhà kho đó chính là Khu vực 51).