
Everything posted by Joker
-
Real Genius (1985)
- 0 downloads
"Real Genius" (1985) là một bộ phim hài khoa học viễn tưởng do Martha Coolidge đạo diễn. Phim xoay quanh một nhóm sinh viên xuất sắc tại Viện Công nghệ California (Caltech), đặc biệt là nhân vật Chris Knight, do Val Kilmer thủ vai. Câu chuyện bắt đầu khi Chris và những người bạn của mình phát hiện ra rằng một dự án nghiên cứu mà họ đang làm cho một giáo sư sẽ bị sử dụng cho mục đích quân sự. Nhóm sinh viên quyết định chống lại kế hoạch này và tìm cách lật đổ nó bằng trí thông minh và sự sáng tạo của mình. Bên cạnh các tình huống hài hước và những thí nghiệm khoa học điên rồ, phim cũng khai thác những mối quan hệ giữa các nhân vật, đặc biệt là giữa Chris và một sinh viên mới tên là Mitch. "Real Genius" không chỉ mang lại tiếng cười mà còn phản ánh những giá trị về tình bạn, trách nhiệm và việc sử dụng trí thức một cách đúng đắn. -
Fatal Attraction (1987)
- 0 downloads
Ba mươi năm trước (1987), một cuộc tình tay ba trên màn ảnh đã làm rúng động xã hội. Với sáu đề cử cho giải Oscar, ''Fatal Attraction'' (Sự cám dỗ chết người) đã vượt khỏi tầm vóc của một bộ phim, trở thành lời cảnh báo có sức mạnh khủng khiếp, khiến không ít đàn ông phải thốt lên ''Cảm ơn vì đã làm cho tôi sáng mắt." Khi ăn vụng chùi mép không kịp! ''Fatal Attraction'' kể câu chuyện của luật sư Dan Gallagher (Michael Douglas đóng), trong một lần cô vợ Beth (Anne Archer thủ vai) và con vắng nhà, anh đã có một cuộc tình qua đường ngắn ngủi nhưng cuồng nhiệt với một người phụ nữ mới quen tên Alex Forrest (Glenn Close vào vai). Buổi sáng chia tay người tình để về với gia đình, Dan kinh hoàng khi thấy Alex cắt hai cổ tay mình tự tử. Dan phải ở lại để sơ cứu và chăm sóc cho Alex. Cứ tưởng thế là xong, nào ngờ những ngày sau đó, Alex bắt đầu đeo bám, đòi Dan phải có trách nhiệm vì cô ta đã có thai với anh. Khi Dan tìm mọi cách xa lánh, thì Alex chuyển hướng tấn công vào gia đình hạnh phúc của anh, với nhiều hình thức khủng bố tinh thần, mà đỉnh điểm là bắt cóc cô con gái nhỏ của Dan ở trường học. Khi cuộc sống gia đình ngày càng tồi tệ, Dan đành phải thú thật mọi chuyện với vợ. Alex cũng biết rằng những gì cô làm sẽ không thay đổi được Dan, nên một đêm nọ cô đột nhập vào nhà Dan với ý định giết cả gia đình anh. Bộ phim kết thúc bằng những cảnh kinh hãi đến rợn người… ''Quái vật phòng vé'' ''Fatal Attraction'' chỉ được sản xuất với kinh phí 14 triệu USD. Không có ngôi sao bảo chứng doanh thu, không có hiệu ứng đặc biệt ngoạn mục, không có sự đồng lòng ngợi ca của các nhà phê bình, và càng không kỳ vọng trở thành một bộ phim nghệ thuật. Nhưng bộ phim tâm lý ly kỳ, rùng rợn này nhanh chóng trở thành hiện tượng của thập niên đó. Trong bảy tuần đầu phát hành, các phòng vé xôn xao, cứ tuần sau lượt khán giả lại đông hơn tuần trước. Khép lại bằng con số 320,1 triệu USD, trở thành bộ phim đạt doanh thu cao thứ hai của năm 1987, đạo diễn Adrian Lyne gọi ''Fatal Attraction'' là ''quái vật phòng vé'': ''Bộ phim như một sinh vật ăn thịt công chúng và thay hình đổi dạng.'' Bộ phim đã chạm vào tình trạng bất ổn của đời sống tình dục và kết cục kinh hoàng chính là lời cảnh báo cho những cuộc tình ngoài luồng. Các cuộc bàn luận về ''Fatal Attraction'' diễn ra không ngừng. Thậm chí, cặp đôi Michael Douglas và Glenn Close còn xuất hiện trên bìa tuần báo Time (số ra ngày 16/11/1987) cùng nhiều trang nói về tác động của ''Fatal Attraction'' đến đời sống xã hội. Công chúng bực mình Dan, cảm thương Beth, căm ghét Alex, nhưng không ít người thấy ở Dan, Beth và Alex những hình ảnh khiếp đảm của chính mình. Đạo diễn Adrian Lyne nói: ''Nhiều người đàn ông gọi điện cho tôi và nói lời cảm ơn vì tôi đã làm cho họ sáng mắt.'' Bộ phim có tác động mạnh mẽ đến cánh mày râu, và tận nhiều năm sau, trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2008, Glenn Close (diễn viên thủ vai Alex) kể: ''Đến giờ, vẫn có những người đàn ông tiến về phía tôi và nói tôi đã làm họ sợ phát khiếp, hay tôi đã cứu vãn cuộc hôn nhân của họ.'' Dù khiến cánh mày râu kinh sợ, song ''Fatal Attraction'' lại không nhận được sự đồng tình của những người đấu tranh cho nữ quyền. Họ cho rằng hình ảnh Alex được xây dựng hoàn toàn tiêu cực - một phụ nữ có sự nghiệp vững chắc nhưng lại có những biểu hiện về tâm thần, trong khi sự bừa bãi, vô cảm và thiếu trách nhiệm của Dan với cả hai người phụ nữ lại không được đề cập tới. Xét dưới mọi phê bình về mặt điện ảnh, ''Fatal Attraction'' rõ ràng không phải là kiệt tác, nhưng tác động xã hội của nó thì khó có phim nào sánh được trong cả thập kỷ 80. Chính vì vậy, sáu đề cử Oscar (mặc dù không đoạt giải nào) của ''Fatal Attraction'' năm 1987 là một tưởng thưởng xứng đáng cho tầm vóc xã hội vượt trội của bộ phim. Điện ảnh Mỹ từ giữa thập niên 40 đã đầy rẫy những nữ ác quỷ trong các bộ phim tâm lý hình sự. Nhưng ''Fatal Attraction'' khéo léo hơn, thận trọng hơn, may mắn hơn - và cũng gây khó chịu hơn. Bộ phim cho thấy hai mặt yêu-ghét của người phụ nữ. Ngay cả những phụ nữ thành đạt, hạnh phúc từng coi bộ phim này như là lời phỉ báng dành cho phái đẹp, thì rốt cuộc cũng vẫn xem nó, chỉ để biết kẻ thứ ba có thể tới gần gia đình họ như thế nào. ''Fatal Attraction'' chỉ tạo nên cơn sốt phòng vé trong chín tuần, nhưng nỗi ám ảnh mà nó để lại trong tâm khảm của người xem thì rất lâu, 30 năm sau hoặc hơn thế, khi mà ngoại tình vẫn luôn là mối nguy rình rập bên ngoài cánh cửa hôn nhân./. -
The Meaning of Life (1983)
- 0 downloads
"The Meaning of Life" (1983) là một bộ phim hài của nhóm Monty Python, nổi tiếng với phong cách châm biếm và hài hước đặc trưng. Bộ phim được cấu trúc như một loạt các phân đoạn độc lập, mỗi phân đoạn khám phá các giai đoạn khác nhau trong cuộc sống con người, từ sinh ra cho đến cái chết. Câu chuyện bắt đầu với sự ra đời, tiếp theo là những chủ đề như giáo dục, tình yêu, chiến tranh, tôn giáo, và cuối cùng là cái chết. Mỗi phân đoạn sử dụng sự châm biếm và hài hước để phản ánh những khía cạnh sâu sắc và đôi khi nghiêm túc của cuộc sống. Bộ phim không chỉ mang tính giải trí mà còn mời gọi người xem suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống. Với những tình huống kỳ quặc, âm nhạc bắt tai và nhiều nhân vật đáng nhớ, "The Meaning of Life" vẫn giữ được vị thế là một tác phẩm kinh điển trong thể loại hài hước. -
Minions: The Rise of Gru (2022)
- 0 downloads
Gru nuôi tham vọng trở thành ác nhân vĩ đại từ nhỏ nhưng bị nhiều bạn bè chế nhạo ở phim "Minions: Rise of Gru". Năm Gru (Steve Carell lồng tiếng) 11 tuổi, Vicious sáu nổi tiếng là nhóm tội phạm có tiếng tăm. Lúc bấy giờ, Gru muốn trở thành kẻ xấu xa nhất thế giới. Cậu hâm mộ Vicious 6 và được chọn phỏng vấn vào nhóm sau khi thủ lĩnh cũ Wild Knuckles (Alan Arkin) bị loại trừ. Tuy nhiên, Gru bị loại vì Vicious 6 cho rằng cậu còn nhỏ và bất tài. Với sự hỗ trợ từ các Minions, Gru đánh cắp viên đá Hoàng Đạo chứa sức mạnh bí ẩn của trưởng nhóm Belle Bottom (Taraji P. Henson) nhằm chứng tỏ khả năng. Trong lúc giúp Gru trốn thoát, các Minions tạo ra nhiều tình huống dở khóc dở cười. Nội dung phim đơn giản, chủ yếu tập trung vào các Minions nhằm gây tiếng cười. Phim đóng vai trò tiền truyện của loạt phim Despicable Me. Gru nuôi tham vọng trở thành ác nhân vĩ đại từ nhỏ nhưng bị bạn bè chê cười, chế nhạo. Cộng với việc không nhận được sự quan tâm từ mẹ Marlena Gru (Julie Andrews), cậu bất mãn với mọi người. Từ đó, Gru ấn tượng với Vicious 6 vì nhóm này thực hiện thành công nhiều phi vụ, liên tục thoát khỏi sự truy đuổi của Liên minh chống kẻ xấu AVL (Anti-Villain League). Minions vừa là cộng sự, vừa là bạn của Gru. Chúng giúp Gru xây dựng căn cứ bí mật từ lúc còn là tầng hầm trong nhà cậu bé. Trước đêm phỏng vấn gia nhập hội Vicious 6, Gru muốn ở một mình để chuẩn bị. Nhưng khi biết hai Minions Kevin và Stuart gặp ác mộng, cậu sẵn sàng cho chúng ngủ cùng. Đáp lại tình cảm của chủ nhân, các Minions luôn bảo vệ Gru và cố gắng tìm cách chuộc lỗi khi chúng làm mất viên đá Hoàng Đạo. Vượt ngoài mối quan hệ chủ - tớ giữa Gru và các Minions, tác phẩm khắc họa một tình bạn đẹp đẽ thông qua những chi tiết nhỏ, không xuất sắc nhưng đầy cảm động. Ngoài bộ ba Minions Kevin - Stuart - Bob quen thuộc với người hâm mộ loạt phim, Minions: Rise of Gru còn có sự xuất hiện của Otto, một Minion hai mắt với thân hình to tròn. Điểm khiến cậu khác biệt so với các bạn khác đó là Otto đeo niềng răng và nói rất nhiều. Sai lầm tai hại của cậu đã khiến mạch phim thay đổi, từ đó mang lại tiếng cười cho người xem. Bên cạnh sự xuất hiện mới mẻ của Otto, phim còn có "đả nữ" Dương Tử Quỳnh đảm nhận lồng tiếng cho võ sư kungfu về hưu Master Chow, nay là bà chủ hiệu châm cứu trong khu phố Tàu (Chinatown). Ngoài ra, nhiều "easter egg" (chi tiết nhỏ) của các tác phẩm thuộc thương hiệu Despicable Me xuất hiện xuyên suốt phim. Không chỉ kể về bối cảnh gia đình Gru, phim hé lộ chi tiết về kẻ thù không đội trời chung Vector lúc nhỏ. Ngân hàng ác quỷ, chú chó hung dữ của Gru ở những phần trước cũng góp mặt trong phim. Cuộc gặp gỡ với tiến sĩ Nefario - nhà khoa học điên rồ đã trở thành cộng sự của Gru - cũng được khéo léo sắp đặt. Việc khai thác các xu hướng thập niên 1970 ở Mỹ và văn hóa châu Á, đặc biệt là Trung Hoa là điểm cộng cho tác phẩm. Từ những trang phục thịnh hành thời đó, bối cảnh cửa hàng băng đĩa, màn trình diễn múa lân trong khu phố Tàu đến cơn sốt bộ phim kinh dị Jaws của đạo diễn Steven Spielberg... Nhiều bản nhạc bất hủ được lồng vào phim, tạo sự hoài niệm, như You're No Good của Linda Ronstadt, You Can't Always Get What You Want do ban nhạc The Rolling Stones thể hiện, Funkytown của ban nhạc Lipps Inc... -
The Fog (1980)
- 0 downloads
"The Fog" (1980) là một bộ phim kinh dị do John Carpenter đạo diễn. Câu chuyện diễn ra tại một thị trấn nhỏ ven biển tên là Antonio Bay, nơi đang chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập. Vào đêm trước lễ kỷ niệm, một làn sương mù bí ẩn xuất hiện, mang theo những linh hồn báo thù của những người đã chết trong một tai nạn thảm khốc. Những linh hồn này, từng là nạn nhân của sự phản bội, giờ đây quay trở lại để trả thù những người sống sót. Các nhân vật chính, bao gồm một nhà phát thanh viên, một cô gái trẻ và một thuyền trưởng, phải đối mặt với những sự kiện kỳ bí và kinh hoàng khi họ tìm cách khám phá nguồn gốc của làn sương mù. Phim mang đến cảm giác hồi hộp và tạo ra một bầu không khí đáng sợ, với những yếu tố ma quái và những bí ẩn chưa được giải thích. -
Drive (1997)
- 0 downloads
"Drive" (1997) là một bộ phim hành động và tâm lý của đạo diễn Nicholas Winding Refn, kể về một tài xế chuyên nghiệp làm việc trong ngành phim ảnh và cũng là một kẻ tội phạm. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính, người có khả năng lái xe xuất sắc, nhưng cuộc sống của anh trở nên phức tạp khi anh phát triển tình cảm với một người phụ nữ tên là Irene. Khi Irene và con trai cô bị liên quan đến một vụ cướp, nhân vật chính phải đối mặt với những kẻ thù nguy hiểm và tìm cách bảo vệ họ. Bộ phim nổi bật với những cảnh hành động mãn nhãn, âm nhạc lôi cuốn và phong cách hình ảnh độc đáo. Tổng thể, "Drive" mang đến một trải nghiệm điện ảnh sâu sắc về tình yêu, sự cô đơn và hành trình tìm kiếm bản thân. -
Elvis (2022)
- 0 downloads
Điệu nhảy lắc hông của Elvis Presley khiến khán giả phát cuồng nhưng cũng mang đến cho ông nhiều bất hạnh, ở phim "Elvis". Tác phẩm do Baz Luhrmann đạo diễn, viết kịch bản kiêm sản xuất, nhận đề cử Phim chính kịch hay nhất giải Quả Cầu Vàng và đang tranh giải Phim hay nhất Oscar 2023. Bộ phim lấy điểm nhìn của người quản lý Tom Parker (Tom Hanks) về huyền thoại âm nhạc nước Mỹ Elvis Presley (Austin Butler). Trong mắt Parker, Presley là đại diện tiên phong cho làn sóng âm nhạc mới, đầy gợi cảm và phóng khoáng ở thập niên 1950-1960. Ca sĩ trẻ gây chú ý nhờ giọng hát nội lực, những ca khúc sôi động và điệu nhảy lắc hông. Phong cách của chàng trai đi ngược xu hướng trình diễn bấy giờ, khi các ca sĩ nhạc đồng quê không phô bày vũ đạo mà chỉ chú trọng vào giọng hát. Khán giả phát cuồng vì Presley, nhưng ông lại là "cái gai" trong mắt các chính trị gia. Họ phê bình gu âm nhạc và điệu nhảy làm nên thương hiệu của ông. Càng cấm cản, Presley càng muốn bộc lộ tố chất. Tuy nhiên, sự nỗ lực thể hiện chất nghệ sĩ nhanh chóng thất bại. Kết quả, khi đang trên đỉnh cao sự nghiệp, Elvis phải đi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cùng lúc đó, mẹ Gladys (Helen Thomson) qua đời, khiến ông gục ngã. Mục tiêu trong sự nghiệp của Presley là thực hiện chuyến lưu diễn toàn thế giới. Nhưng trước khi chạm tay đến giấc mơ, nghệ sĩ phải đánh đổi sức lực phục vụ cho tầng lớp giàu có ở Las Vegas. Điều này cũng là cạm bẫy khiến Presley không bao giờ có cơ hội hoàn thành ước mơ của cuộc đời. Nhà làm phim liên hệ kịch bản với những sự kiện chính trị, xã hội Mỹ nửa sau thế kỷ 20. Phim khai thác tối đa vấn đề phân biệt chủng tộc để gửi gắm thông điệp tình yêu âm nhạc không phân biệt màu da, thông qua hình tượng Elvis Presley. Cái chết của nhiều người có sức ảnh hưởng đến nước Mỹ như Martin Luther King Jr., Thượng nghị sĩ Kennedy hằn sâu trong tâm trí nhân vật chính. Ông lấy các sự kiện này làm cảm hứng, viết nên những tác phẩm phản ánh thời cuộc. Sau khi ra mắt, phim nhận về những lời khen ngợi từ giới chuyên môn, nhất là diễn xuất của Austin Butler. Anh tròn vai, cho thấy khả năng hiểu biết nhân vật qua hành động, lời nói. Butler cũng trực tiếp thu âm nhiều ca khúc trong phim. Anh mất một năm luyện thanh và tập giả giọng Presley trước khi ghi hình. Đạo diễn Baz Luhrmann ấn tượng khi xem video Austin thử vai Elvis, cho rằng anh đủ khả năng diễn xuất. Luhrmann nói trong cuộc phỏng vấn với VnExpress: "Austin đã khóc khi hát ca khúc Unchained Melody. Phim tập trung vào giai đoạn tuổi trẻ của huyền thoại âm nhạc và ngoại hình của Austin có sự phù hợp nhất định". Diễn viên chiến thắng hạng mục Nam chính trong phim điện ảnh chính kịch giải Quả Cầu Vàng 2023 và Nam chính xuất sắc ở BAFTA. Nhạc phim, thiết kế sản xuất và phục trang là những điểm sáng cho tác phẩm. Các bài hát gắn liền huyền thoại âm nhạc được vang lên trong nhiều trường đoạn gây xúc động. Phân đoạn Presley hát Trouble dưới ánh mắt khinh thường của các quan chức tạo cảm giác ngột ngạt, gò bó. Bài hát bất hủ Can't Help Falling in Love nổi lên trong một số phân đoạn tình cảm giữa nhân vật chính và vợ. Kết phim, êkíp tái hiện khoảnh khắc Elvis trình diễn nhạc phẩm Unchained Melody, thể hiện sự tận hiến của ông dành cho âm nhạc. Phim thắng hạng mục Làm tóc và trang điểm tại giải Critics' Choice Awards 2023. 90 bộ trang phục được Catherine Martin và Miuccia Prada - giám đốc sáng tạo của Prada và Miu Miu - thiết kế cho nhân vật Elvis sau thời gian dài nghiên cứu phong cách vợ chồng nhà Presley và kho lưu trữ của hai nhà mốt. Dự án được người thân của huyền thoại âm nhạc khen ngợi. Priscilla - cưới Elvis Presley năm 1967 - nhiều lần bày tỏ sự ủng hộ tác phẩm. Lisa Marie - con gái duy nhất của Elvis Presley - chung cảm xúc với mẹ, cho biết cô đã xem phim hai lần. Theo Metro UK, cháu gái của Presley - Riley Keough - khóc suốt một tuần vì màn hóa thân của Butler. Tạp chí The New Yorker khen phim: "Sự sống động trong cách kể chuyện của Luhrmann là chìa khóa giữ chân khán giả". Cây viết David Sims của tạp chí The Alantic nhận định: "Qua ống kính của Luhrmann, Elvis biến hóa từ một người đầy sức sống trở thành kẻ cố gắng thích nghi với sự thay đổi của thế giới. Câu chuyện quen thuộc nhưng có chiều sâu". Tuy nhiên, việc ôm đồm lượng lớn thông tin về danh ca khiến phim không có quãng nghỉ, kịch bản thiếu điểm nhấn. Phân đoạn mẹ Presley qua đời được xử lý qua loa, không truyền tải sâu sắc nỗi mất mát của nhân vật chính. Nhà làm phim lạm dụng các kỹ thuật stop motion, lia máy liên tục, chuyển cảnh nhanh làm khán giả khó tập trung. Đa số giới phê bình chê màn thể hiện của tài tử Tom Hanks trong vai quản lý Colonel Tom Parker. Tạp chí Hollywood Reporter cho rằng nhân vật Parker là vai diễn kém cỏi nhất trong sự nghiệp của tài tử. -
Platoon (1986)
- 0 downloads
Platoon (tạm dịch: "Trung đội") là một phim Mỹ về đề tài Chiến tranh Việt Nam của đạo diễn Oliver Stone. Phim được đánh giá là một trong những phim hàng đầu về chiến tranh của thế giới và được trao giải Oscar cho phim hay nhất và đạo diễn xuất sắc nhất cho Oliver Stone năm 1987. Phim được chọn vào danh sách 100 phim hay nhất 100 năm qua của viện điện ảnh Hoa Kỳ. Bộ phim Việt Nam của Stone miêu tả cuộc sống thực của con người trên quan điểm của anh về câu chuyện diễn ra trong cuộc sống thực mà anh ấy đã trải qua sau khi chuyến công tác tại Việt Nam kết thúc vào năm 1968. Tác giả đã khắc họa một màu sắc u tối, ảm đạm, tàn khốc của chiến tranh qua bộ phim nà. Không những vậy nó còn lột tả được bản chất con người thiện-ác, quân tử-tiểu nhân, độc ác, nhưng trong cái đen tối đó cho chúng ta đâu đó nhìn thấy được cái lương thiện con người, sự đau khổ, dằn vặt của lương tri khi phải đối diện với sự sống cái chết của đồng loại cho dù đó là kẻ thù đi chăng nữa. Thực tế đây là bộ phim lịch sử chiến tranh, nếu chúng ta dùng ý thức hệ của hiện tại để đánh giá thì có lẽ quá tàn nhẫn, tàn bạo, thảm thương do chiến tranh gây ra bao nhiêu nỗi đau cho con người với con người. Dù đó là bên thắng hay bên thua nhưng nỗi đau hằn dấu đó có lẽ là không bao giờ phai được. Nó được thể hiện rất rõ qua nội tâm của nhân vật chính Taylor, một chàng thanh niên tình nguyện vào trận chiến bởi vì lòng chính nghĩa mà cậu ta đặt câu hỏi rằng tại sao những người yếu thế, dưới đáy xã hội của Mỹ lại phải chiến đấu tại nơi này, tại sao họ lại ra trận còn những người giàu lại không và anh ta đã chiến đấu với tất cả lòng quả cảm của mình cùng đồng đội đến cuối cùng. GÓC NHÌN ĐA CHIỀU Mặt khác qua bộ phim này, đạo diễn thể hiện rất chân thật, nội tâm của nhân vật, của người lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam 1968 cho chúng ta thêm một góc nhìn đa chiều từ hai phía của những người lính thật rõ nét, thật sâu sắc làm sao, đó là điều tuyệt vời nhất khi xem bộ phim này bởi vì ý nghĩa của lịch sử là những bài học, mà để có những bài học thì cần phải biết sự thật, mà sự thật thì luôn có mặt trái-phải, trắng-đen, và bộ phim này cho chúng ta nhìn thấy được điều đó (cụ thể đây là những nội tâm của người lính Mỹ). Một tình tiết mà làm ta phải suy nghĩ khác đó là khi đại úy nói với trung sĩ Barnes rằng “Nếu tôi biết có chuyện thảm sát, tôi sẽ đưa ra tòa án bính” . TÌNH HUYNH ĐỆ, TÌNH ĐỒNG CHÍ Platoon để lại nhiều bài học xúc động về tình huynh đệ, tình đồng chí giữa các người lính, có lẽ là không có tình cảm nào có thể diễn tả được khi sát cánh cùng nhau trong lúc sinh tử, đó là tình cảm đẹp giữa Taylor và sếp của mình Elias cùng đồng đội trong tiểu đoàn. LÒNG CAN ĐẢM, CAN TRƯỜNG Lòng can đảm, can trường có lẽ là một sức mạnh thật sự của những người lính, sức mạnh đó không phải là cơ bắp, mà là thứ sức mạnh từ trái tim, tâm hồn của người lính, ý chí kiên cường mạnh mẽ cùng với tấm lòng vì đồng đội, chỉ có lòng can đảm thì dù bất kỳ hoàn cảnh nào thậm chí như lúc trung đoàn bị quân địch bao quay họ vẫn luôn rất đẹp, cái đẹp từ một trái tim quả cảm. Không chỉ trong trận chiến mà cả trong thời bình thì lòng can đảm cũng là một nghĩa cử rất đẹp của con người, và không có nơi nào cho chúng ta nhìn thấy rõ được bằng lúc sinh tử, nguy kịch, thử thách của cuộc sống như vậy. ĐÚC KẾT Platoon còn cho chúng ta thấu hiểu được thật sự bài học của chiến tranh, nỗi đau mà nó để lại, mạng sống con người. Chiến tranh chưa bao giờ là tốt đẹp, thật may mắn chúng ta đang sống trong thời bình nhưng khi xem xong bộ phim và nhìn lại thì chúng ta càng trân quý cái hòa bình mà chúng ta đang có đã được đánh đổi lấy bằng rất nhiều máu, mạng sống của người khác, những người nằm xuống dù bất kỳ phe nào thì đó cũng là mạng sống của con người. Bộ phim còn cho chúng ta thấy rằng địch và ta là những khái niệm càng ảo, chỉ có một thứ có thật là Con người, là giá trị nhân bản, là tình người, là thân và tâm. Mình xin trích đoạn kết cuối cùng của bộ phim qua lời kể của Taylor để đúc kết bài này và xin mời các bạn xem phim để có được những bài học ý nghĩa và sâu sắc cho chính mình: “Chúng cháu chiến đấu không phải với kẻ thù, chúng cháu chiến đấu với chính bản thân mình, kẻ thù thật sự là chính bản thân mình.” “Ai trong chúng ta cũng có nghĩa vụ xây dựng lại, chia sẻ cho người khác những gì chúng ta biết, và cố gắng với những gì còn lại trong cuộc sống của mình để tìm ra điều tốt đẹp và ý nghĩa trong cuộc sống này.” -
The War of the Worlds (1953)
- 0 downloads
"The War of the Worlds" (1953) là một bộ phim khoa học viễn tưởng do Byron Haskin đạo diễn, chuyển thể từ tiểu thuyết nổi tiếng của H.G. Wells. Câu chuyện xoay quanh cuộc xâm lược của người ngoài hành tinh đến Trái Đất. Bối cảnh phim diễn ra tại một thị trấn nhỏ ở California, nơi một tàu vũ trụ từ sao Hỏa hạ cánh. Ban đầu, người dân địa phương nghĩ rằng đây là một sự kiện kỳ diệu, nhưng ngay sau đó, họ phát hiện ra rằng những sinh vật ngoài hành tinh này cực kỳ nguy hiểm. Họ sử dụng những vũ khí hủy diệt để tấn công và tiêu diệt con người. Nhân vật chính, Dr. Clayton Forrester (Gene Barry), cùng với người yêu của mình, Sylvia (Ann Robinson), cố gắng tìm cách sống sót và chống lại cuộc xâm lược này. Phim khắc họa nỗi sợ hãi và hoang mang của con người trước sức mạnh vượt trội của công nghệ ngoài hành tinh, đồng thời thể hiện tinh thần kiên cường trong cuộc chiến sinh tồn. Với những hiệu ứng đặc biệt ấn tượng cho thời đại và cốt truyện hồi hộp, "The War of the Worlds" đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại khoa học viễn tưởng và góp phần định hình hình ảnh của các cuộc xâm lược ngoài hành tinh trong văn hóa đại chúng. -
Poltergeist (1982)
- 0 downloads
"Poltergeist" (1982) là một bộ phim kinh dị do Tobe Hooper đạo diễn và Steven Spielberg sản xuất, kể về câu chuyện của gia đình Freeling sống ở một khu nhà mới. Mọi chuyện bắt đầu khi cô bé Carol Anne (Heather O'Rourke) bắt đầu giao tiếp với các thế lực siêu nhiên qua một chiếc TV cũ. Ban đầu, những hiện tượng kỳ lạ diễn ra trong nhà chỉ là những tiếng động lạ và các đồ vật di chuyển. Tuy nhiên, mọi thứ nhanh chóng trở nên nghiêm trọng khi Carol Anne bị bắt cóc bởi các linh hồn ác quỷ và đưa đến một thế giới khác. Gia đình Freeling, do ông bà Steven (Craig T. Nelson) và Diane (JoBeth Williams) dẫn đầu, phải tìm cách cứu cô bé và đối đầu với các lực lượng siêu nhiên đang quấy rối họ. Họ nhờ đến sự trợ giúp của các chuyên gia tâm linh, dẫn đến một cuộc chiến gay go giữa cái thiện và cái ác trong nhà của họ. "Poltergeist" nổi bật với các hiệu ứng đặc biệt ấn tượng cho thời đại, cùng với những tình tiết căng thẳng và cảm xúc. Phim đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại kinh dị, mang lại những nỗi sợ hãi sâu sắc và vẫn được nhớ đến cho đến ngày nay. -
The Lost Boys (1987)
- 0 downloads
Câu chuyện xoay quanh hai anh em, Michael (Jason Patric) và Sam (Corey Haim), khi họ chuyển đến một thị trấn ven biển California cùng mẹ. Tại đây, Michael bị cuốn vào một nhóm thanh niên nổi loạn, do David (Kiefer Sutherland) dẫn đầu. Nhóm này có những bí mật tối tăm: họ thực chất là những ma cà rồng. Khi Michael dần bị cuốn vào lối sống của họ, anh bắt đầu thay đổi và phải đối mặt với sự thật về bản thân. Trong khi đó, Sam, cùng với hai thợ săn ma cà rồng trẻ tuổi (Corey Feldman và Jamison Newlander), quyết tâm cứu anh trai mình khỏi số phận tăm tối. Phim khéo léo kết hợp giữa hài hước và sự hồi hộp, đồng thời thể hiện những chủ đề về tuổi trẻ, tình bạn và sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. "The Lost Boys" được đánh giá cao và trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại phim ma cà rồng, nổi bật với phong cách hình ảnh đặc trưng và âm nhạc bắt tai. -
Old Henry (2021)
- 0 downloads
Câu chuyện xoay quanh Henry (Tim Blake Nelson), một người nông dân sống đơn độc cùng con trai mình, Wyatt, sau khi vợ qua đời. Cuộc sống của họ thay đổi khi Henry phát hiện một người đàn ông bị thương (Scott Haze) đang trốn chạy và quyết định giúp đỡ anh ta. Người này tiết lộ rằng anh ta đang bị truy đuổi bởi những kẻ săn tiền thưởng, và Henry phải đối mặt với quyết định liệu có nên bảo vệ người đàn ông này hay không. Khi những kẻ săn tiền thưởng tìm đến, bí mật về quá khứ của Henry dần hé lộ, khiến câu chuyện trở nên căng thẳng và kịch tính. Bộ phim không chỉ khám phá các chủ đề về sự hy sinh, lòng trung thành và mối quan hệ cha con mà còn mang đến những cảnh hành động hấp dẫn. -
In Bruges (2008)
- 0 downloads
In Bruges chỉ mới là phim đầu tay của đạo diễn kiêm nhà viết kịch bản người Anh Martin McDonagh. Thế nhưng bộ phim này đã gặt hái được khá nhiều đề cử quan trọng của các giải thưởng lớn. Mới đây, In Bruges đã mang về một giải Quả Cầu Vàng hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho diễn viên Colin Farrell. Ngoài ra, In Bruges còn nhận được nhiều đề cử giải Bafta, trong đó có đề cử cho phim Anh hay nhất và một đề cử Oscar cho Kịch bản nguyên gốc xuất sắc nhất. Quả là những thành tích ấn tượng đối với một bộ phim độc lập. In Bruges trước hết gây ấn tượng bởi bối cảnh của nó: thành phố Bruges xinh đẹp trong lòng nước Bỉ. Bruges với những viện bảo tàng cổ kính, những cây cầu thơ mộng, những dòng kênh êm đềm hẳn dễ dàng chinh phục những du khách khó tính tới đây vãn cảnh. Thế nhưng vẻ đẹp nao lòng của thành phố này không thể nào yên ủi trái tim trĩu nặng tội lỗi của một du khách trẻ tuổi. Đó là Ray (Colin Farrell thủ vai), tên giết người máu lạnh không chút do dự khi hạ sát một vị cha xứ già nhưng lại không thể tha thứ chính mình vì đã vô tình giết hại một cậu bé. Trái ngược với Ray, người bạn đường của hắn là Ken (Brendan Gleeson), một tên giết người khác, lại hào hứng với chuyến đi và xem đây như môt dịp để xả hơi và thưởng ngoạn cảnh đẹp. Chuyến đi của Ray và đồng sự được ông chủ của chúng là Harry Waters (Ralph Fiennes) tài trợ, nhằm mục đích giúp hắn nguôi ngoai sau vụ giết người bi kịch dẫn đến cái chết của đứa trẻ vô tội. Tuy nhiên, đằng sau sự tài trợ hào phóng này là một âm mưu đen tối khác. Phần đầu của In Bruges có thể nói là phần hay nhất trong cả bộ phim, khi chất hài châm biếm rất đặc trưng của Anh được pha trộn hài hoà với tính bi kịch của hoàn cảnh và tâm lý nhân vật. Phần đầu phim vì thế tuy mang không khí nặng nề u uất nhưng vẫn rất lôi cuốn với những đoạn hội thoại , những tình huống hài hước tinh tế giữa hai kẻ sát nhân . Tuy nhiên, càng về cuối phim, câu truyện càng trở nên u ám và nghiêm túc hơn , lộ rõ tính chất của một bộ phim hình sự điển hình dù vẫn điểm xuyết một vài tình huống gây cười . Ngoài ra, người xem còn có dịp thưởng thức những cảnh quay rất đẹp không khác gì những thước phim quảng cáo du lịch về thành phố Bruges êm đềm và thơ mộng. Vẻ đẹp yên bình của thành phố ngập trong tiếng đàn dương cầm êm dịu ngân vang suốt bộ phim đã tạo nên một hiệu ứng tương phản rõ rệt. Thành phố yên bình là thế, nhưng tâm trạng con người không chút bình yên. Trong khi Ray bị dằn vặt không dứt bởi tội lỗi mình vô tình gây nên thì Ken lại băn khoăn trước nhiệm vụ mới mà ông chủ hắn giao phó. Sự phức tạp trong tâm lý này khiến cho đôi bạn đường hiện lên như hai con người đáng thương hơn là những sát thủ máu lạnh. Bởi ngay cả những tên giết người đáng ghê tởm nhất cũng có thể có những nguyên tắc đạo đức chúng không muốn vi phạm. Thành công đó là nhờ In Bruges đã có thể quy tụ được một dàn diễn viên đầy tài năng. Colin Farrell xứng đáng với giải Quả Cầu Vàng anh mới nhận khi khắc họa một tên giết người không thể tội nghiệp hơn. Brendan Bleeson với khuôn mặt buồn đầy biểu cảm gợi nhớ nhiều đến Gene Hackman trong bộ phim Scarecrow từng đoạt giải Cành Cọ Vàng năm 1973, trong đó Gene thủ vai một tên tội phạm mới ra tù bặm trợn, người bạn đường tận tụy của nhân vật do Al Pacino đóng. Với In Bruges, Brendan cũng nhận được một đề cử Quả Cầu Vàng cho Nam diễn viên xuất sắc nhất. Ralph Fiennes với vai Harry Waters tàn ác và đầy nguyên tắc càng khẳng định vững chắc tên tuổi của mình: một trong những diễn viên Anh tài năng nhất. Và In Bruges hẳn là một trong những bộ phim đáng nhớ với diễn viên trẻ người Pháp Clémence Poésy – cô bé Fleur Delacour trong phim Harry Potter. Clémence đóng vai một cô gái người Bỉ mà Ray tình cờ gặp và nảy sinh tình cảm. * Trước In Bruges, Martin McDonagh đã đạo diễn và viết kịch bản phim, nhưng đó là một bộ phim ngắn. Phim này tên là Six Shooter, đoạt giải Oscar phim ngắn hay nhất năm 2006. -
Sound of Metal (2019)
- 0 downloads
Sound of Metal là một bộ phim chính kịch Mỹ được phát hành năm 2020 do Darius Marder đạo diễn và đồng biên kịch với sự tham gia của các diễn viên Riz Ahmed, Olivia Cooke, Paul Raci, Lauren Ridloff và Mathieu Amalric. Nội dung phim Sound of Metal xoay quanh cuộc đời của Ruben Stone (Riz Ahmed) – tay trống nhạc rock đầy triển vọng bỗng rẽ sang một trang khác khi thính giác của anh bỗng tệ đần. Đây không đơn thuần chỉ là một câu chuyện về những người khiếm thính và khó khăn của họ, nó còn là câu chuyện về những người từng có quá khứ nghiện ngập và về những tâm hồn cần nơi nương tựa và được hồi phục. Thứ mà cá nhân mình có thể cảm nhận được ở bộ phim này là đôi khi nó hơi lộ liễu trong việc cố gắng nhồi cho người xem thông điệp về sự khác biệt giữa một bên là những người coi “điếc” như một phần đặc trưng mới của bản thân và một bên là những người mà coi “điếc” như một loại bệnh mà họ có thể chữa/cần chữa. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua một phân đoạn khi Ruben đang sửa mái nhà của trung tâm phục hồi nhưng Joe bảo là: “Cậu không cần phải sửa bất cứ thứ gì ở đây”. Ngoài ra, bộ phim còn có thể khiến cho người xem bị một cảm giác có phần hơi tiêu cực đối với những lựa chọn của Ruben. Tuy kịch bản phim Sound of Metal có gặp một số hạn chế như được nhắc ở trên, không thể nói rằng đây là một kịch bản tệ. Mình nghĩ là dù một số chi tiết có hơi lộ liễu nhưng mình thực sự cảm nhận được bộ phim, cảm nhận được thông điệp/cảm xúc mà nó muốn truyền tải. Thế nhưng, không thể nào nói về bộ phim này mà không nói về phần biên tập âm thanh xuất sắc của nó. Chính phần âm thanh đã nâng tầm cho kịch bản của bộ phim. Và như mình nhắc đến ở ngay đoạn mở đầu, âm thanh của bộ phim này là thứ khiến cho mình phải thấy khó chịu nhưng là khó chịu theo một cách tích cực. -
The Lion of the Desert (1980)
- 0 downloads
"The Lion of the Desert" (1980) là một bộ phim sử thi do Moustapha Akkad đạo diễn, xoay quanh cuộc sống của Omar Mukhtar, một nhà lãnh đạo người Libya nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Italy vào những năm 1920. Nội dung phim tập trung vào cuộc chiến của Mukhtar và các chiến binh du kích Libya trong việc bảo vệ quê hương khỏi sự xâm lược của quân đội Italy do tướng Rodolfo Graziani lãnh đạo. Bộ phim khắc họa rõ nét những nỗ lực, chiến thuật và sự kiên cường của người dân Libya trong cuộc đấu tranh giành độc lập, đồng thời nêu bật những tội ác mà quân đội chiếm đóng đã gây ra. Bên cạnh đó, phim cũng thể hiện mối quan hệ giữa các nhân vật, đặc biệt là tinh thần lãnh đạo và lòng dũng cảm của Omar Mukhtar. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện về chiến tranh mà còn mang thông điệp về tự do, danh dự và sự hy sinh. Bộ phim được đánh giá cao về mặt hình ảnh, diễn xuất, đặc biệt là vai diễn của Anthony Quinn trong vai Omar Mukhtar. -
Tape Người Đẹp Bình Dương 10 - Gửi Về Anh
- Tape Khánh Ly - Mưa Hồng
- Tape Jo Marcel 2 - Merci Cherie (1985)
-
Tape Bốn Phương - Nói Với Người Tình - Chế Linh & Thanh Tuyền
-
Phương Phạm Guitarist - Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người (2024)
- 0 downloads
01 - Bác Hồ 1 Tình Yêu Bao La 02 - Đêm Nghe Hát Đò Đưa Nhớ Bác 03 - Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên NGười 04 - Quê Hương 05 - Viếng Lăng Bác 06 - Lời Bác Dặn Trước Lúc Đi Xa -
Phương Nam CD - Hà Nội Ngày Tháng Cũ - Vũ Vân
- Phương Nam CD - Ca Khúc Áo Trắng Tuyển Chọn 5 - Thương Lắm Tóc Dài Ơi (1999)
-
Phương Nam CD - Anh Luôn Cần Có Em
-
Làng Văn Hi-Res - Dạ Vũ Nồng Nàn
- 0 downloads
01. Mơ Hoa (Remastered) - Khanh Ha 02. Những Bước Chân Âm Thầm (Remastered) - Che Linh 03. Đợi Chờ (Remastered) - Lê Thu 04. Thu Khóc Trên Ngàn (Remastered) - Khanh Ly 05. Nỗi Lòng (Remastered) - Tuan Ngoc 06. Con Chim Nhỏ, Mắt Người Tình (Remastered) - Phuong Loan 07. Cho Tình Yêu (Remastered) - Julie 08. Tình Đầu (Remastered) - Lê Thu 09. Đoàn Lữ Nhạc (Remastered) - Khanh Ly 10. Cùng Một Kiếp Hoa (Remastered) - Ngoc Minh 11. Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay (Remastered) - Thai Hien 12. Mái Tóc Dạ Hương (Remastered) - Châu Đình An 13. Rừng Cây Trút Lá (Remastered) - Khanh Ly 14. Sống Cho Qua Hôm Nay (Remastered) - Tung Giang -
Hot - Thu Minh
- 0 downloads
01. Hot (Vietnamese Ver) 02. Hot (English Ver) 03. Where Did We Go Wrong 04. Yêu Mình Anh 05. Yêu Mình Anh (Club Mix 2013) 06. Hot (Vietnamese Ver Remix) 07. Hot (English Ver Remix) 08. Taxi (Remix) 09. Body Language (Bonun Skouteris Megamix)