
Everything posted by Joker
-
Carrie (1976)
- 0 downloads
Carrie White, một cô gái nhút nhát 16 tuổi, sống với người mẹ cuồng tín và không ổn định của mình, Margaret, không được yêu mến ở trường và thường bị bạn bè bắt nạt. Khi Carrie trải qua kỳ kinh nguyệt đầu tiên trong phòng tắm ở trường, cô ấy hoảng sợ, chưa bao giờ được kể về quá trình này. Các bạn cùng lớp của Carrie ném băng vệ sinh vào người cô ấy trong khi hô "Cắm nó đi!" cho đến khi giáo viên thể dục, cô Collins, can thiệp. Sau cuộc trò chuyện với cô Collins và hiệu trưởng, Carrie được cho nghỉ học trong ngày. Sau khi về đến nhà, Margaret nói với Carrie rằng kinh nguyệt của cô là do tội lỗi, và bà nhốt Carrie trong một "tủ cầu nguyện" giống như bàn thờ để cầu mong được tha thứ. Tại trường, Collins khiển trách những kẻ hành hạ Carrie, phạt họ bằng cách giam giữ kéo dài một tuần trong giờ học thể dục. Cô ấy đe dọa rằng những người bỏ qua biện pháp trừng phạt sẽ bị đình chỉ trong ba ngày và bị cấm tham gia vũ hội sắp tới. Tuy nhiên, kẻ bắt nạt lâu năm giàu có và nổi tiếng của Carrie, Christine "Chris" Hargensen, bước ra ngoài và bị loại khỏi vũ hội. Lập kế hoạch trả thù Carrie, Chris và bạn trai Billy Nolan đột nhập vào một trang trại và giết những con lợn để rút hết máu của chúng vào một cái xô, mà họ đặt phía trên sân khấu của trường trong nhà thi đấu. Norma, bạn thân nhất của Chris và là một nhân vật nổi bật trong chế độ hội học sinh của trường, lên kế hoạch tổ chức cuộc bầu cử Nữ hoàng vũ hội để có lợi cho Carrie để đưa cô ấy lên sân khấu. Trong khi đó, Sue Snell, một người bạn cùng lớp vô cùng hối hận, yêu cầu người bạn trai đẹp trai và nổi tiếng của cô, Tommy Ross, mời Carrie đến buổi dạ hội. Carrie tin rằng đề xuất này là một trò đùa, nhưng anh khẳng định rằng đó là sự thật và cô miễn cưỡng chấp nhận sau khi cô Collins an ủi cô. Ở nhà, cô ấy bắt đầu phát hiện ra rằng cô ấy có khả năng psychokinesis khi cô ấy rũ bỏ sự nhút nhát của mình. Bất chấp sự phản đối của Margaret, Carrie mặc một chiếc váy và kiểu tóc bồng bềnh cho buổi dạ hội. Margaret nhìn thấy sức mạnh từ xa của Carrie và tố cáo cô là phù thủy trước khi Carrie rời đi với Tommy. Trong buổi vũ hội, Chris và Billy trốn dưới sân khấu trong khi những kẻ âm mưu khác chuyển các lá phiếu để đảm bảo rằng Carrie giành được danh hiệu Nữ hoàng vũ hội. Khi Carrie đứng trên sân khấu với Tommy, cuối cùng bắt đầu cảm thấy được đồng nghiệp của mình chấp nhận, Sue nhận ra kế hoạch của Chris và Billy, và bắt đầu can thiệp. Cô Collins phát hiện ra Sue và nghĩ rằng cô ấy không ổn, ném cô ấy ra khỏi buổi dạ hội. Chris và Billy kéo sợi dây gắn vào xô máu lợn, khiến Carrie chết mê chết mệt; sau đó họ lẻn ra khỏi trường. Cái thùng rỗng đập vào đầu Tommy đang phẫn nộ, và anh ta gục xuống. Đám đông bị sốc và không nói nên lời trước trò chơi khăm, nhưng Carrie ảo tưởng rằng mọi người, ngay cả cô Collins, đang chế giễu cô và trong một cơn bùng phát đột ngột, đã bịt kín các lối ra và điều khiển vòi cứu hỏa, điều này làm bị thương một số người tham gia tiệc tùng cố gắng trốn thoát và làm phát sáng đèn trên cao. Cô Collins bị đè bẹp bởi một tấm ván sau bóng rổ rơi xuống và hiệu trưởng và giáo viên của Carrie bị điện giật, khiến phòng tập thể dục bốc cháy. Carrie ra khỏi phòng tập thể dục và bịt kín các cánh cửa sau lưng, bẫy nhân viên và các bạn cùng lớp. Khi Carrie đi bộ về nhà, Chris và Billy cố gắng chạy xe của Billy qua cô nhưng Carrie khiến xe của họ bị lật và phát nổ, giết chết họ. Sau khi Carrie tự tắm ở nhà, Margaret tiết lộ rằng Carrie đã thụ thai khi chồng cô say rượu, một hành động mà Margaret xấu hổ thừa nhận rằng cô rất thích. Cô an ủi Carrie, sau đó đâm cô vào lưng bằng một con dao làm bếp và bắt đầu đuổi theo cô trong nhà. Carrie phóng một số dụng cụ sắc nhọn và đưa chúng bay về phía Margaret, đóng đinh cô ấy; sau đó, cô phá hủy ngôi nhà và bỏ mạng. Một thời gian sau, Sue, người duy nhất sống sót sau buổi dạ hội, gặp phải một cơn ác mộng khi cô ấy đi đặt hoa trên tàn tích còn lại của nhà Carrie, trên đó có một tấm biển "Rao bán" bị phá hoại bằng sơn đen với dòng chữ: "Carrie White bùng cháy dưới Địa ngục! ”. Đột nhiên, cánh tay đẫm máu của Carrie vươn từ bên dưới đống đổ nát và nắm lấy cẳng tay của Sue. Sue thức dậy la hét và quằn quại vì sợ hãi khi mẹ cô cố gắng an ủi cô. -
Black Christmas (1974)
- 0 downloads
"Black Christmas" (1974) là một bộ phim kinh dị tâm lý, do Bob Clark đạo diễn, được xem là một trong những bộ phim slasher đầu tiên. Câu chuyện diễn ra trong một ngôi nhà ở một trường đại học, nơi một nhóm nữ sinh chuẩn bị đón Giáng sinh. Khi một kẻ giết người bí ẩn bắt đầu thực hiện các cuộc gọi rùng rợn và sau đó tấn công các cô gái, sự hoảng loạn và căng thẳng gia tăng. Bộ phim không chỉ tập trung vào yếu tố kinh dị mà còn phản ánh các mối quan hệ giữa các nhân vật và những vấn đề xã hội của thời đại. Với phong cách kể chuyện sáng tạo và không khí căng thẳng, "Black Christmas" đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại kinh dị. -
Dawn of the Dead (1978)
- 0 downloads
"Dawn of the Dead" (1978) là một bộ phim kinh dị về thây ma do George A. Romero đạo diễn, tiếp nối câu chuyện của "Night of the Living Dead." Phim xoay quanh nhóm người sống sót, bao gồm một cặp đôi, một cảnh sát và một người dân thường, tìm nơi trú ẩn trong một trung tâm thương mại giữa đại dịch thây ma. -
The Running Man (1987)
- 0 downloads
"The Running Man" (1987) là một bộ phim hành động khoa học viễn tưởng, dựa trên tiểu thuyết của Stephen King. Câu chuyện diễn ra trong một tương lai dystopian, nơi một chương trình truyền hình tàn bạo có tên "The Running Man" thu hút người xem bằng cách bắt các tù nhân bị kết án phải chạy trốn khỏi những thợ săn (stalkers) trong một cuộc đua sinh tử. Nhân vật chính, Ben Richards (do Arnold Schwarzenegger thủ vai), là một cựu cảnh sát bị cáo buộc sai và trở thành một phần của chương trình. Khi anh tham gia, anh phải sử dụng sự khéo léo và sức mạnh của mình để sống sót và tìm cách lật đổ hệ thống độc tài đứng sau chương trình. Bộ phim khám phá các chủ đề về quyền lực, truyền thông và sự thao túng của xã hội. Nó nổi bật với các pha hành động gay cấn và những bình luận sắc sảo về văn hóa đại chúng. -
Three Thousand Years of Longing (2022)
- 0 downloads
"Three Thousand Years of Longing" (2022) là một bộ phim lãng mạn giả tưởng do George Miller đạo diễn, xoay quanh một nhà nghiên cứu thần thoại tên Alithea (Tilda Swinton). Trong chuyến đi đến Istanbul, cô phát hiện ra một chiếc đèn cổ và giải phóng một genie (Djinn) (Idris Elba) có khả năng ban cho ba điều ước. Câu chuyện khám phá những câu chuyện của genie qua nhiều thế kỷ, đồng thời Alithea phải đối mặt với những mong muốn và nỗi sợ hãi của chính mình. Phim khai thác các chủ đề về tình yêu, sự khao khát và bản chất của con người. -
Synecdoche, New York (2008)
- 0 downloads
Có lẽ nên nói ngay rằng đây không phải là một bài review. Có những bộ phim, đôi khi khiến ta thấy bất lực khi phải miêu tả bằng lời. Như Synecdoche, New York. Đó là một ngày tháng ba ở Melb. Tan học, tôi rẽ vào rạp phim quen gần trường. Nova không phải là một cineplex hiện đại. Nội thất của nó tựa như Fansland ở Hà Nội, chỉ là tiện nghi hơn, ấm cúng hơn. Lúc này phòng chiếu có ánh đèn vàng rất dịu để khán giả ổn định chỗ ngồi. Tôi xem ca chiều, ba giờ. Cả phòng chỉ có hai ba người. Đó là một ngày mệt mỏi. Tôi nhắm mắt lại, tranh thủ thả lỏng vài phút, vì biết bộ phim sắp xem, Rachel Getting Married, sẽ khá nặng nề. Như thường lệ, mười phút đầu là trailer của những phim sắp chiếu. I’m just a little person, one person in a sea. Câu hát đầu tiên vừa dứt, tôi đã biết, bộ phim này mình sẽ phải xem. Nó rất dị. Và rất bình thường. Bình thường trong những chi tiết quái dị nhất. Quái dị từ những chi tiết bình thường nhất. Tôi sẽ cố gắng tìm một sự so sánh thích hợp. Nếu Synecdoche, New York được ví với một loại kem, nó sẽ là kem ký. Và nó có vị sầu riêng. Tại sao là kem ký? Vì đó là thứ kem đơn giản nhất. Nó chỉ là một khối vật chất mát lạnh thế thôi, không que, không ốc quế, không ly, không trái cherry, và không có ô giấy cắm vào làm cảnh. Tại sao là sầu riêng? Vì đó là một thứ hương vị mà ai đã thích thì mê mệt, còn ai đã sợ thì không bao giờ ăn được. Synecdoche, New York cũng vậy. Cái nó mang đến là một thứ cảm giác, một thứ hương vị, một sự xao động trong tâm hồn, và sẽ chỉ hoài công nếu ai đó cố gắng đi tìm cho nó một cốt truyện, một khuôn mẫu, một hình hài. It’s Charlie Kaufman, man. Đó là câu chuyện của nhân sinh. Về sự bình thường đến khác thường và sự tầm thường đến dị thường của kiếp người. Đó là đẹp, là buồn, là đôi chút ngọt ngào, là không ít bi thương, là rất nhiều cay đắng. Hình như khi ngôn từ bất lực thì người ta hay so sánh. Synecdoche, New York cũng giống như trò đu quay. Kaufman bắt đầu câu chuyện một cách bình thường đến mức khó có thể bình thường hơn. Một buổi sáng bình thường của một gia đình bình thường, và thấp thoáng đâu đó là những sự bất thường. Một ông chồng việc đầu tiên khi mở tờ báo sáng ra là đọc mục cáo phó. Một cô bé con đi ị ra màu xanh lá cây. Mật độ và cường độ của bất thường trong đối thoại, trong tình tiết, trong hình ảnh, cứ thế tăng dần như đu quay tăng tốc. Để khi kết thúc vòng quay cuối, khán giả ra khỏi chỗ ngồi, đầu óc hoặc quay cuồng lảo đảo, hoặc ngây ngất như mê như say. Như mê như say. Vì thế giới của Synecdoche, New York là một thế giới chưa bao giờ tỉnh. Không phải ngẫu nhiên mà Caden mang họ Cotard – một hội chứng hoang tưởng cho rằng mình đã chết. Adele thổ lộ rằng cô thường huyễn hoặc rằng Caden chết. Cô nhầm. Điều họ huyễn hoặc, là mình đang sống. Từ khi dòng chữ 7:44 xuất hiện trên màn ảnh, Caden Cotard đã bắt đầu cuộc chết của mình – một hành trình kéo dài nửa đời người. Mà cũng có thể chỉ kéo dài một giấc mơ. Đó là cuộc chết của thể xác và của tâm hồn. Gia đình. Tình yêu. Nghệ thuật. Thời gian. Và hơn bao giờ hết, của cảm giác rằng mình đang sống. Lẻ loi, lạc loài, kiệt quệ, Caden vẫn không ngừng tranh đấu. Like a lost and lonesome weeping willow (chỉ có điều, một lúc nào đó, nước mắt cũng sẽ rời bỏ ông). Cuộc chiến không cân sức ấy là điều đẹp đẽ nhất và đau đớn nhất của Synecdoche, New York. Hơn ai hết, Caden ý thức rõ ràng về sự nhỏ bé, bất lực đến vô cùng của kiếp người. I do my little job. And live my little life. Eat my little meals. Miss my little kid and wife. Biết rõ rằng mình rồi sẽ chết. Tất cả rồi sẽ chết. Nhưng, trước mỗi cú đánh của số phận, Caden đều kiên cường đáp trả, từ chối chết đi một cách lặng lẽ, để rồi cuối cùng lặng lẽ chết đi, trong một niềm thanh thản. Mỗi nỗ lực ấy, mỗi lần gượng dậy ấy, dù muộn màng, dù thơ ngây, dù khờ khạo, vẫn khiến ta phải nghiêng mình. Lọ nước mắt, cây gậy, mái tóc giả… là sự kháng cự tuyệt vọng của Caden trước sự tàn tạ của thể xác. Claire và Ariel là nỗ lực tái hiện bất thành Adele và Olive – một mái ấm gia đình. Chiếc hộp màu hồng và lời “tự thú” nghẹn ngào bên giường bệnh Olive là cố gắng vô vọng để hồi sinh một tình cha con đã chết. Sân khấu khổng lồ với hàng trăm, hàng nghìn diễn viên là sự ganh đua thất bại với những tác phẩm tiểu họa của Adele – không phải Adele-người-vợ mà là Adele-đối-thủ-trong-nghệ-thuật. Kiệt tác mà Caden ôm ấp, cái mộng tưởng tưởng chừng to tát là được lưu danh của người nghệ sĩ, thật ra, lại là mong muốn giản đơn nhưng bất khả của con người – được sống: “I’m gonna finally put my real self into something.” Còn Hazel, là cuộc truy cầu bất tận một tình yêu. I breathe your name in every exhalation. Thật khó nói Caden đã thành công hay thất bại. Chẳng ai có thể viết lại lịch sử. Chẳng ai có thể trộn mộng và thực để tái tạo đời. Chẳng ai có thể đi tìm thời gian đã mất. Chẳng ai có thể về lại dưới bóng những cô gái tuổi hoa. Nhưng, khi bà cụ hàng xóm trìu mến bảo Caden: “You’re very welcome, young lady!”, ta lại mơ hồ cảm thấy, điều ấy dường như là có thể. Vãn hồi một cuộc hôn nhân, một thuở hoa niên, một khát vọng, một tình yêu bằng cách ánh xạ cuộc đời lên sân khấu là không thể. Nhưng rũ bỏ bản thân và đi tìm lại chính mình giữa sân-khấu-cuộc-đời này thì hình như lại là có thể, phải không? -
Still Alice (2014)
- 0 downloads
Ừ thì mình không có ý định biến page này thành 1 trang review phim đâu nhưng khả năng cao là.. sắp rồi.. (Vì nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là 1) Có quá nhiều phim hay và 2) Với khả năng xem phim đến quên ăn quên ngủ quên cả lối về của mình thì.. vậy đó. Mình đi đến quyết định xem phim này đơn giản vì mai là một-ngày-rảnh-rỗi-hiếm-hoi-sau-một-chuỗi-ngày-với-vật-lộn-với-đống-bài-kiểm-tra, những ngày dài dằng dặc đằng đẵng và mệt mỏi như kiểu AI-ĐÓ-LÀM-ƠN-HÃY-GIẢI-THOÁT-TÔI-ĐI và lí do quan trọng nhất, do favorite actress, pick của mình- Kristen Stewart cũng tham gia (Dành cho ai chưa biết, đó là chị gái xinh đẹp đóng series Twilight tuyệt phẩm). Back to Alice.. Đây là 1 thể loại mình ít tiếp xúc (kiểu tâm lí, chắc nhiều người cũng vậy ha), nên khúc đầu tạo cảm giác hơi chán khi xem-vì bình thường toàn xem phim hành động đấm đá thì không cần suy nghĩ gì hết luôn - nhưng đây thực sự là 1 bộ phim sâu sắc và nó giống như kiểu.. tạo một cảm giác gì đấy rất mơ hồ như ảo giác vậy á. Giống cái cách mà bạn ngồi trước hiên nhà vào một buổi chiều muộn, tay mân mê lông một chú mèo có màu lốm đốm, bộ phim như một làn khói cuốn lấy, khiến bạn đê mê và có một xúc cảm thư thái. Nhịp điệu phần nào chậm rãi nhưng cũng có vài chi tiết đủ dồn dập để khiến người xem thoáng giật mình, hơn nữa thì là chột dạ và sợ hãi. Bộ phim thể hiện các cung bậc cảm xúc của một tiến sĩ ngôn ngữ học nổi danh - Alice - trong quá trình trở thành một bệnh nhân Alzheimer ( và cả nỗi ''khổ'' của mọi người xung quanh khi phải chịu đựng điều đó, tệ hơn là tiếp nối chứng bệnh đó - con gái đầu của cô ấy). Bằng một cách nào đó, bộ phim gây ám ảnh theo cách rất riêng biệt. Từ khi Alice phát hiện ra và chứng thực được căn bệnh của mình cho đến khi cô ấy gần như có thể cảm nhận được sự mất đi ý thức hệ của cổ thì nhịp điệu phim hầu như đều đều và nhẹ nhàng. Nếu có chi tiết nào nổi bật thì mình sẽ có thể nhớ rõ luôn (ví dụ như khi đêm Ali thao thức ko ngủ được rồi gọi cho chồng cổ dậy và kể chuyện & khóc bất lực, hay như vào 1 đêm ( lại đêm!) cô ấy thức dậy và lục tung mọi thứ như 1 bản năng, không còn nhân tính chỉ để tìm chiếc điện thoại của mình vì ''8h sáng mai nó sẽ kêu => em cần làm bài kiểm tra trí nhớ'' Giai đoạn đau khổ nhất có lẽ là phần giữa phim, hơi nghiêng về phía cuối, là khi Ali được xác nhận dương tính với bệnh và cổ cố gắng áp dụng mọi biện pháp để ngăn cản (làm chậm) căn bệnh alzheimer cho đến khi cô ấy biết việc đó là không thể nữa. Điều đáng buồn không phải là cô ấy bị alzheimer, mà là cô ấy vẫn ý thức rõ mình bị alzheimer và đau khổ, dằn vặt bản thân vì điều đó. ''Please do not think im suffering. Im not suffering. Im struggling to be a part of things, stay connected to I once was''. Cô ấy đã cố gắng như thế nào để còn là chính mình, hay nói chính xác hơn, để không đánh mất con người cô ấy trước kia, bạn sẽ thấy đấy. Nhưng cô ấy đã không thể. Kết thúc phim, theo quan điểm cá nhân của mình, là một bi kịch cho Alice. Vì nếu Alice thành công trong việc uống hết những viên thuốc ở ngăn kéo tủ có chiếc đèn màu xanh dương ấy, cô đã có thể thanh thản rời đi, giải thoát cho mọi người xung quanh, và cho cô khỏi chính bản thân cô ấy. Đó, là, mình xin phép lặp lại 1 lần nữa, một BI KỊCH. Mình có thể mường tượng ra cái cảnh cô ấy sống lay lắt cho đến những ngày tháng, giây phút cuối cùng chỉ ở viện đó, có thể cùng với con gái cô ấy, cũng có thể không, thỉnh thoảng người nhà cô ấy sẽ đến thăm, là chồng, là con. Trên tay họ sẽ là những giỏ quà, giỏ hoa quả tươi ngon và rực rỡ sắc màu. Họ sẽ nắm tay cô và ôm hôn cô. Tuy vậy, cô sẽ không thể cảm nhận được sự ấm áp, lòng yêu thương mà họ dành cho cô, cũng như những cảm xúc vui buồn, chán nản hay đam mê, cáu kỉnh hoặc lo lắng mà cô đã từng. Vì đơn giản là cô không thể nữa. Cảnh mà mình thích nhất ở bộ phim này là khi Alice có bài diễn thuyết cuối cùng. Nó gần như là cơ hội cuối cùng (mà đúng hơn thì nó CHÍNH là cơ hội cuối cùng) cô có thể làm công việc mình yêu thích và tâm huyết cả đời trước khi mất đi ý thức hoàn toàn. Sau đây là một đoạn nhỏ trích từ bài diễn thuyết đó: ''One thing I will try to hold on to, though, is the memories of speaking here today. It will go. I know it well. It may be gone by tomorrow, but it means so much to be talking here, today, like my old ambitious self who was so fascinated by communication. Thank you for this opportunity. This means the world to me. Thank you''. -
SLC Punk! (1998)
- 0 downloads
"SLC Punk!" (1998) is a coming-of-age film set in the 1980s that follows the life of Steve, a young punk rocker living in Salt Lake City, Utah. The story explores his rebellion against societal norms and his struggles with identity, friendship, and the constraints of a conservative environment. Steve, along with his friends, embraces the punk lifestyle, but as he confronts the realities of adulthood, he begins to question his beliefs and the consequences of his choices. The film blends humor with poignant moments, highlighting the challenges of youth and the search for authenticity. -
The Polar Express (2004)
- 0 downloads
Tôi cho “The Polar Express” 5 sao không phải vì giải thưởng mà nó đạt được, cũng không phải bởi vì ai đó nói rằng nó hay đến mức xứng đáng được 5 ngôi sao, mà là bởi vì tôi cảm thấy phần tuổi thơ đã trôi qua của mình xứng đáng nhận 5 ngôi sao ấy, và “The Polar Express” đã đưa tôi về với “tôi” năm 10 tuổi. Hình như khi trưởng thành, cuộc sống và những nỗi lo rất đời đều khiến cho họ cảm xúc của chúng ta chai lì hơn, và ta ít khi nào chìm đắm trong thế giới tưởng tượng mà ngày thơ bé ta vẫn hăng dạo chơi trong đó nữa. Những câu chuyện như “The Polar Express” dường như là một kí ức rất đỗi xa xăm rồi. Ông già Noel, những chú tuần lộc, chiếc xe kéo, món quà giấu sau cây thông hay tiếng chuông bạc trên cỗ xe của ông già Noel, lớn lên, chẳng ai còn tin điều đó. Ông già Noel không có thật! Lâu đài ở nơi cao nhất trên trái đất không có thật! Nhưng chúng ta có ai dám chắc điều đó không? Người dễ dàng quên đi tuổi thơ của chính mình, là chúng ta. Người sống thực dụng và chai sạn cảm xúc hơn, là chúng ta. Vậy chúng ta làm sao khẳng định rằng ông già Noel, cỗ xe, lâu đài ở Bắc Cực và những chú tuần lộc không có thật đây?! Như cha mẹ của cậu bé “tôi” không hề nghe thấy tiếng chuông từ cỗ xe của ông già Noel trong khi cậu và em gái lại nghe thấy. Và cô em gái Sarah của cậu cũng không còn nghe thấy tiếng chuông nữa khi cô trưởng thành. Chỉ còn cậu bé ấy, dù có già đi, vẫn nghe tiếng chuông ngân và nhớ về chuyến tàu tốc hành đến “ngôi nhà” của ông già Noel. Tiếng chuông đó kì thực là lời gợi nhắc của quá khứ, là tiếng ngân vang từ kí ức tuổi thơ, và chỉ có người nào vẫn giữ một tâm hồn thơ trẻ, vẫn giữ trong lòng một niềm tin thì mới có thể nghe thấy nó. Tiếng chuông thực ra chính là tuổi thơ của chúng ta, lớn lên, ta dễ dàng lãng quên những kí ức thời thơ ấu. Nhưng những ký ức đó giống như tiếng chuông ngân vang mãi trong lòng ta, chỉ cần lặng một chút và kiên nhẫn “lắng nghe”, ta sẽ “nghe” thấy âm thang của kí ức vọng về, ta sẽ lại trở về ngày thơ ấu vô tư và trong trẻo đó, ta sẽ lại có lại một niềm tin. Cuối cùng, “The Polar Express” là một câu chuyện ngắn gọn, đơn giản, súc tích một cách hoàn hảo, điều diệu kì sưởi ấm trái tim của mỗi người, tạo ra niềm thích thú cho lũ trẻ và khiến người lớn không thể không mỉm cười mơ màng mà nhớ về tuổi thơ của mình. Có thế mới thấy được, sức mạnh của ngôn từ thật là kì diệu biết bao, ta không bao giờ cần phải nói quá nhiều, chỉ cần chọn lấy những từ ngữ thật đắt giá, và rồi ngôn từ sẽ tự làm “phần việc” của riêng mình. “The Polar Express” là điều kì diệu dành cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi! -
The Company of Wolves (1984)
- 0 downloads
"The Company of Wolves" (1984) is a dark fantasy horror film that delves into the themes of sexuality and fear through the lens of fairy tales. It follows a young girl named Rosaleen who, while visiting her grandmother, becomes immersed in a dreamlike world where wolves symbolize danger and desire. As she navigates through various tales, the film explores her transformation and the complexities of growing up. -
Saturday Night Fever (1977)
- 0 downloads
Saturday Night Fever là một bộ phim nhạc kịch của Mỹ năm 1977 do John Badham đạo diễn với John Travolta đóng vai Tony Manero, một thanh niên giai cấp công nhân đang nghỉ hè và chơi nhạc tại một vũ trường ở Brooklyn. Karen Lynn Gorney đóng vai Stephanie Mangano, bạn nhảy của Tony và cuối cùng trở thành bạn tâm giao; và Donna Pescow vai Annette, bạn nhảy cũ của Tony và bạn gái dự định của anh. Khi ở vũ trường disco, Tony là vũ công vô địch. Bạn bè và các sàn nhảy cuối tuần của anh giúp Tony đối phó với những thực tế khắc nghiệt của cuộc đời: một công việc chán ngắt, đụng độ với gia đình không chăm sóc và hay cãi cọ, căng thẳng chủng tộc trong cộng đồng địa phương và sự bồn chồn của chính anh. Câu chuyện dựa trên một bài báo trên tạp chí New York năm 1976 của nhà văn người Anh Nik Cohn, "Các nghi lễ của bộ lạc vào đêm thứ bảy mới" (Tribal Rites of the New Saturday Night); Vào giữa những năm 1990, Cohn thừa nhận rằng ông đã sáng tác ra bài báo. Là một người mới đến Hoa Kỳ và một người xa lạ với lối sống disco, Cohn không thể giải thích được nền văn hóa ông đã được chỉ định để viết; Thay vào đó, nhân vật trở thành Tony Manero dựa trên một người quen Mod của Cohn. Bộ phim đã thành công lớn về thương mại và góp phần phổ biến nhạc disco trên khắp thế giới và khiến Travolta, vốn đã nổi tiếng từ vai diễn của mình trên chương trình Welcome Back, Kotter, trở thành một cái tên thân thuộc của mọi gia đình. Nhạc phim của Saturday Night Fever, với các bài hát của Bee Gees, trở thành một trong các album nhạc phim bán chạy nhất lịch sử. Bộ phim giới thiệu các khía cạnh của âm nhạc, khiêu vũ, và các tiểu văn hóa xung quanh thời đại disco: giai điệu với dàn nhạc giao hưởng; phong cách ăn mặc haute couture; tình dục thoải mái thời trước khi có bệnh AIDS; và các bài vũ đạo duyên dáng.Phần tiếp theo Staying Alive (1983) cũng do John Travolta đóng vai chính và được Sylvester Stallone đạo diễn, nhưng nhận được sự tiếp nhận kém tích cực hơn. Trong năm 2010, Saturday Night Fever được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đánh giá là "có ý nghĩa quan trọng về văn hoá, lịch sử, hoặc thẩm mỹ" và được lựa chọn để bảo quản trong Viện lưu trữ phim quốc gia Hoa Kỳ. -
Santa Claus Is Comin' to Town (1970)
- 0 downloads
"Santa Claus Is Comin' to Town" (1970) is a stop-motion animated special that delves into the origins of Santa Claus. It tells the story of Kris Kringle, a kind-hearted elf who brings toys to children in the town of Sombertown. However, the town's ruler, Burgermeister Meisterburger, forbids toys. Kris, with the help of his friends, ultimately finds a way to spread joy and gift-giving, overcoming obstacles to establish the Christmas spirit. -
Wayne's World (1992)
- 0 downloads
"Wayne's World" (1992) là một bộ phim hài do Penelope Spheeris đạo diễn, dựa trên một skit nổi tiếng từ chương trình "Saturday Night Live." Phim theo chân Wayne Campbell (Mike Myers) và Garth Algar (Dana Carvey), hai người bạn đam mê âm nhạc sống ở Aurora, Illinois. Câu chuyện bắt đầu khi Wayne và Garth quyết định sản xuất một chương trình truyền hình trực tuyến về âm nhạc từ hầm của Wayne. Khi chương trình trở nên nổi tiếng, họ thu hút sự chú ý từ một nhà sản xuất đầy tham vọng, Benjamin (Rob Lowe), người có ý định thương mại hóa chương trình. Mọi chuyện trở nên phức tạp khi Wayne phải đối mặt với cảm xúc của mình đối với Cassandra Wong (Tia Carrere), một nhạc sĩ tài năng mà Benjamin cũng đang theo đuổi. Phim kết hợp nhiều yếu tố hài hước, âm nhạc và văn hóa pop, với những câu thoại và tình huống vui nhộn đã trở thành biểu tượng. "Wayne's World" không chỉ là một bộ phim giải trí mà còn phản ánh tinh thần tự do và niềm đam mê của thế hệ 90. Phim đã gặt hái thành công lớn và trở thành một tác phẩm văn hóa đáng nhớ. -
Volver (2006)
- 0 downloads
Volver (tiếng Tây Ban Nha nghĩa là Trở về) đánh dấu hàng loạt sự trở về. Không chỉ là sự trở về của nhân vật , đó còn là sự trở về của nữ diễn viên chính Penelope Cruz với đạo diễn đã từng giúp cô trở thành minh tinh màn bạc đẳng cấp thế giới gần 10 năm trước và cũng là sự trở về quê nhà – ngôi làng nhỏ La Manchan của Pedro Almodóvar. Trong một phần tư thập kỷ, những bộ phim như All about my mother (Tất cả về mẹ), Talk to her (Nói với nàng), Bad Education (Giáo dục tồi) đã tạo nên một dòng phim mang đậm bản sắc riêng của Pedro Almodóvar. Đó là sự hoà trộn của các thể loại phim vào một, từ những cảnh hài dí dỏm ban đầu dẫn dắt người xem đến một bi kịch ở cuối phim, từ cảm giác một phim tình cảm để rồi kết thúc như một phim hình sự, với những cái kết bất ngờ và xúc động. Mở đầu của Trở về là sự dí dỏm về cuộc sống ở ngôi làng nhỏ La Manchan, nơi phụ nữ sống lâu hơn đàn ông và có cái nhìn lạc quan về cái chết: họ chăm sóc cho ngôi mộ của chính mình như ngôi nhà thứ hai. Trong một ngày đầy gió, Raimunda (Penelopez Cruz) cùng con gái Paula và chị gái Sole đến chăm nom cho ngôi mộ của Irene, người mẹ đã qua đời ba năm, thăm bà dì sống thui thủi một mình trong làng và nhờ người hàng xóm tốt bụng Agustina chăm nom cho bà dì tội nghiệp. Khi chồng của Raimunda, một gã vô công rỗi nghề định hãm hiếp đứa con gái mới lớn của họ, bị Paula đâm chết trong lúc cô bé tự vệ, phim như chuyển hướng sang thể loại hình sự. Sau đó người dì qua đời, hồn ma người mẹ trở về cùng với cô con gái Sole, bộ phim lại một lần nữa chuyển hướng. Khán giả không thể hình dung được chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp, và số phận của những phụ nữ của bộ phim, như Raimunda, Irene và Agustina (một nhân vật thú vị đáng để xây dựng thành một phim riêng về cô), dần mở ra với những nỗi lòng trắc ẩn. Sự thú vị bất ngờ đến vào phút chót, khi mà bí mật về cái chết của người mẹ, thân phận của bé Paula và sự mất tích kỳ lạ của mẹ Agustina hé lộ. Những phụ nữ trong Trở về đều có nỗi lòng, nhưng họ giấu nỗi buồn phía sau gương mặt rạng rỡ. “Thông điệp của bộ phim là nói về những phụ nữ này và mối quan hệ rất tự nhiên với cái chết” – Pedro nói. Penelope Cruz có một vai diễn xuất sắc trong bộ phim này, với nhiều lời bàn tán về một giải Oscar dành cho cô năm nay. Cô đã cùng Pedro tranh luận và xây dựng cho nhân vật Raimunda, với nhiều cảm hứng từ mẫu hình tượng phụ nữ trong các phim tân hiện thực của Ý. Cô không phải là nữ diễn viên duy nhất trong phim thể hiện xuất sắc vai diễn của mình – dù rằng sắc đẹp của Cruz khiến cô trở nên nổi bật hơn cả. Dàn diễn viên của cả bộ phim, với nữ diễn viên kỳ cựu Carmen Maura trong vai Irene, Lola Duena trong vai Sole và đặc biệt là Blanca Portillo trong vai Agustina, đã hoá thân xuất sắc với sự duyên dáng, hóm hỉnh và sắc sảo của họ. Cộng thêm Yohana Cobo và Chus Lampreave trong vai Paula và bà dì, sáu diễn viên nữ trong Trở về đã đồng đoạt giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes 2006 hồi tháng 5 vừa qua. Sau khi chinh phục khán giả châu Âu, Trở về bắt đầu khởi chiếu tại Hoa Kỳ ở hai thành phố Los Angeles và New York city từ 3.11.2006. -
The City of Lost Children (1995)
- 0 downloads
"The City of Lost Children" (1995) là một bộ phim khoa học viễn tưởng và giả tưởng của đạo diễn Marc Caro và Jean-Pierre Jeunet. Câu chuyện diễn ra trong một thế giới tối tăm và mộng mị, nơi một nhà khoa học tên là Krank đang tìm kiếm cách lấy cắp những giấc mơ của trẻ em để kéo dài tuổi thọ của mình. Krank, người không thể mơ, sống trong một thành phố bị bỏ quên, nơi mà những đứa trẻ bị bắt cóc và sử dụng để phục vụ cho những mục đích mờ ám. Trong khi đó, một người đàn ông tên là One, do Ron Perlman thủ vai, đang tìm kiếm em gái của mình, đã bị Krank bắt. One kết hợp với một nhóm trẻ em và một cô gái tên là Miette để cứu em gái và chống lại các thế lực của Krank. Phim nổi bật với hình ảnh đẹp mắt, phong cách nghệ thuật độc đáo và không khí u ám. "The City of Lost Children" không chỉ là một câu chuyện phiêu lưu mà còn đề cập đến các chủ đề như tuổi thơ, tình yêu và sự mất mát. Phim nhận được nhiều lời khen ngợi và trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại giả tưởng. -
The Celluloid Closet (1995)
- 0 downloads
"The Celluloid Closet" (1995) là một bộ phim tài liệu do Rob Epstein và Jeffrey Friedman đạo diễn, dựa trên cuốn sách cùng tên của Vito Russo. Phim khám phá sự đại diện của người LGBTQ trong điện ảnh từ những năm đầu của Hollywood cho đến những thập kỷ sau này. Bằng cách phân tích các bộ phim nổi tiếng và các nhân vật, phim chỉ ra cách mà đồng tính và các vấn đề liên quan đến giới tính đã bị kiểm duyệt, biến dạng hoặc thể hiện một cách sai lệch trong suốt lịch sử điện ảnh. "The Celluloid Closet" sử dụng nhiều đoạn phim cổ điển, phỏng vấn các nhà làm phim, diễn viên và nhà phê bình, nhằm tạo ra một cái nhìn sâu sắc về những thách thức mà cộng đồng LGBTQ phải đối mặt trong ngành công nghiệp điện ảnh. Phim không chỉ là một hành trình qua lịch sử điện ảnh mà còn là một bài luận về quyền của người LGBTQ, sự chấp nhận và tầm quan trọng của việc đại diện công bằng trong văn hóa đại chúng. "The Celluloid Closet" đã nhận được nhiều lời khen ngợi và là một tác phẩm quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về các vấn đề giới tính và bản dạng. -
A Christmas Story (1983)
- 0 downloads
"A Christmas Story" (1983) là một bộ phim hài gia đình, xoay quanh mùa Giáng sinh của một cậu bé tên là Ralphie Parker, do Peter Billingsley thủ vai. Câu chuyện diễn ra vào những năm 1940 tại Indiana, nơi Ralphie ao ước có được một món quà đặc biệt: một khẩu súng BB Red Ryder. Phim theo chân Ralphie và những trải nghiệm của cậu trong mùa lễ hội, từ việc cố gắng thuyết phục cha mẹ rằng súng BB là món quà hoàn hảo, đến những tình huống hài hước với bạn bè, thầy cô và gia đình. Các tình tiết như việc Ralphie phải đối mặt với sự khó khăn trong cuộc sống thường nhật và những niềm vui Giáng sinh tạo nên một bức tranh ấm áp và chân thực về tuổi thơ. "A Christmas Story" nổi bật với những khoảnh khắc dễ thương, những câu thoại hài hước và một thông điệp ấm lòng về tình yêu thương gia đình. Bộ phim đã trở thành một biểu tượng của mùa Giáng sinh và thường được phát sóng lại trong các kỳ nghỉ lễ. -
The Devil's Backbone (2001)
- 0 downloads
Đặt bối cảnh khi cuộc nội chiến kéo dài ba năm ở Tây Ban Nha sắp đến hồi kết thúc, năm 1939, The Devil's Backbone xoay quanh cuộc đời của cậu bé 10 tuổi Carlos khi được cha gửi vào một trường nội trú dành cho nam sinh. Sau phút bỡ ngỡ ban đầu, Carlos cũng dần thích nghi được với nhịp sống của cô nhi viện nhưng đồng thời, cậu cũng nhanh chóng khám phá ra nhiều bí mật kinh hoàng tại nơi tưởng chừng là chốn an bình nhất trong chiến tranh. Giống như nhiều phim kinh dị khác của del Toro, The Devil's Backbone mang màu sắc huyền ảo, đẹp đẽ như một bài thơ. Phim không có những sinh vật kì dị, lạ lùng mà chỉ có những hồn ma để làm yếu tố hù dọa khán giả. Nhưng rốt cuộc, chẳng có ma nào lại đáng sợ bằng lòng dạ con người. Không chỉ là một câu chuyện ma, The Devil's Backbone còn đem đến những bi kịch về chiến tranh, tình yêu, sự phản bội và tham lam. Ở đó, những dục vọng, những toan tính nảy sinh rồi ăn mòn, hủy hoại người lớn cũng như đẩy trẻ con vào bước đường phải chiến đấu để sinh tồn. Hoặc bạn cũng có thể xem The Devil's Backbone là một bộ phim 'coming of age' phiên bản đen tối. Phim khắc họa một câu chuyện trưởng thành thật sự tàn nhẫn chứ không mang không khí lưng chừng như bộ 6 đứa trẻ của IT Âm nhạc, diễn xuất và quay phim đều rất tuyệt vời. Đặc biệt là những cảnh quay về hồn ma mang đến cảm giác vô cùng liêu trai, đẹp nhưng cũng rợn hết cả tóc gáy. -
Used Cars (1980)
- 0 downloads
"Used Cars" (1980) là một bộ phim hài của đạo diễn Robert Zemeckis, xoay quanh cuộc sống của những người bán xe cũ tại một đại lý ở Arizona. Phim tập trung vào nhân vật Rudy Russo, do Kurt Russell thủ vai, một nhân viên bán hàng tài năng nhưng cũng rất mánh khóe. Câu chuyện xoay quanh cuộc chiến giữa Rudy và đối thủ cạnh tranh, cũng như những âm mưu và chiêu trò mà anh và đồng nghiệp sử dụng để bán xe. Phim có nhiều tình huống hài hước và châm biếm về ngành công nghiệp ô tô cũ, đồng thời phản ánh các vấn đề như sự cạnh tranh và sự thiếu trung thực trong kinh doanh. Ngoài những khoảnh khắc vui nhộn, "Used Cars" còn đề cập đến tình bạn và sự đoàn kết giữa những người lao động trong một môi trường khắc nghiệt. Phim nhận được nhiều lời khen về diễn xuất và kịch bản sáng tạo. -
The Power of the Dog (2021)
- 0 downloads
The Power of the Dog đánh dấu sự trở lại của Jane Campion - nữ đạo diễn New Zealand từng đoạt giải Cành Cọ Vàng với The Piano (1993) - sau 12 năm xa rời điện ảnh. Giới phê bình đánh giá cao phim từ phần kịch bản, đạo diễn cho đến diễn xuất. Tác phẩm được xem là ứng cử viên sáng giá trong cuộc đua tranh giải Oscar năm nay. Lấy bối cảnh miền Tây nước Mỹ năm 1925, bộ phim xoay quanh gia đình Burbank gồm hai anh em. Anh trai Phil (Benedict Cumberbatch) chưa vợ, hàng đêm vẫn ngủ cạnh em trai George (Jesse Plemons) không rời. Sóng gió ập đến khi George quyết định cưới góa phụ Rose (Kirsten Dunst), dẫn theo con trai cô Peter (Kodi Smitt-McPhee) về nhà. Thay vì hân hoan chào đón, Phil lại xem 2 mẹ con Rose là cái gai trong mắt, không ngừng buông lời khinh miệt trong khi George chẳng thể làm gì giúp vợ. Ngay từ những cảnh quay đầu tiên, Phil Burkbank lướt qua ống kính bằng hình ảnh cao bồi thứ thiệt: đầu đội mũ vành, sơ mi dài tay đóng thùng, quần da bò, dây nịt thắt chặt ở hông. Từ cách đi đứng cho đến cử chỉ, nhân vật đều toát lên vẻ mạnh mẽ, đàn ông. Anh dẫn đầu đám cao bồi như thủ lĩnh, ưỡn ngực tiến về trước không sợ hãi, cầm dao thiến bê bằng động tác dứt khoát khiến nhiều người phải dè chừng. Đôi khi sự nam tính trong Phil trở nên thái quá. Anh muốn mọi thứ phải đúng ý mình, thường xuyên buông lời mỉa mai và quát nạt người khác để áp chế. Phil miệt thị em trai George là “một đứa mập ngố, quá đần nên không học xong đại học”, không ngừng tra tấn tinh thần hai mẹ con Rose bằng mọi cách. Anh chê bai Peter vì vẻ ngoài ẻo lả và lối hành xử giống con gái, ném vào cậu những cái nhìn hằn học. Thậm chí ngay cả khi im lặng, Phil cũng khiến Rose ngộp thở, đến nỗi cô không còn cách nào khác ngoài tìm đến rượu để cứu rỗi tâm hồn. Nhân vật Phil là minh họa điển hình cho thuật ngữ nam tính độc hại (toxic masculinity). Song, tính cách khắc nghiệt không chỉ khiến những người xung quanh khốn khổ mà còn giết chết bản thân anh. Theo thời gian, người xem nhận ra bên trong lớp vỏ nam tính cũng chỉ là một tâm hồn vụn vỡ, chịu nhiều đè nén. Nhiều cảnh quay gợi mở việc Phil không thích phụ nữ mà đem lòng yêu Bronco Henry - người thầy đã mất cách đây nhiều năm. Trong khi mọi người nói cười vui vẻ giữa bàn tiệc, anh lẳng lặng ra về một mình để làm bạn với sự cô độc. Kịch bản The Power of the Dog được Jane Campion chuyển thể từ cuốn sách nổi tiếng cùng tên của Thomas Savage phát hành năm 1967. Theo đạo diễn, nguyên tác không phải tiểu thuyết hư cấu mà là tác phẩm bán tự truyện. Sinh thời, Savage là một người đồng tính, dùng trải nghiệm bản thân để viết nên câu chuyện nghiệt ngã về số phận những người giống như mình giữa thập niên 1920. Trong phim, Phil Burbank là người đồng tính nhưng luôn tìm cách che đậy thân phận bằng vỏ bọc mạnh mẽ, thô lỗ. Nhan đề The Power of the Dog bắt nguồn từ một câu trong Kinh Thánh: “Hãy giải cứu linh hồn tôi khỏi gươm, mạng sống tôi khỏi loài chó”. Khi còn sống, Bronco Henry từng dạy Phil về hình ảnh loài chó chạy dọc theo những ngọn núi bao quanh trang trại nhà Burbank. Xuyên suốt phim, Phil thường xuyên nhắc đến Bronco, nhớ ông và hướng về phía núi như nỗi ám ảnh vô hình. “Chó” cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tính cách độc hại của Phil, khi anh không ngừng “cắn phá” những người xung quanh mình không thương tiếc. Đạo diễn Jane Campion xử lý các cảnh quay trong phim hết sức tinh tế khi kể lại câu chuyện. Nhiều đoạn bà dùng hình ảnh thay cho lời thoại để lột tả nội tâm nhân vật. Ống kính luôn lướt theo cử chỉ của từng người dù là nhỏ nhất, như cái liếc mắt hay ngón tay bấu chặt. Nữ đạo diễn chuộng những cú máy góc rộng, bắt trọn khung cảnh thiên nhiên hoang dã khiến các nhân vật trở nên nhỏ bé giữa đất trời. Bên cạnh đó, dàn diễn viên thực lực giúp các nhân vật hiện lên sống động. Là người Anh, nhưng Benedict Cumberbatch lột tả trọn vẹn hình ảnh cao bồi Mỹ, sống cùng cảm xúc nhân vật Phil Burbank. Để vào vai, anh áp dụng kỹ thuật diễn phương pháp (method acting), nhiều ngày liền không tắm và tập hút thuốc đến mức ngộ độc nicotin. Tương tự, Kirsten Dunst cũng quyết định không nói chuyện với bạn diễn trong nhiều tuần liền để nuôi cảm xúc. Cô mang đến nhiều cảm xúc trong vai góa phụ Rose, người phải chịu nhiều nỗi đau tinh thần trước những sự "tra tấn" của Phil. Đặc biệt, diễn viên sinh năm 1996 Kodi Smitt-McPhee không hề lép vế khi đóng cùng các đồng nghiệp tên tuổi, để lại nhiều ấn tượng với vai Peter, là mắt xích quan trọng trong phim. Khi ra mắt lần đầu tại Liên hoan phim Venice 2021, The Power of the Dog đem về cho Jane Campion giải Sư tử bạc ở hạng mục “Đạo diễn xuất sắc”. Tác phẩm cũng chiến thắng ba hạng mục tại giải Quả Cầu Vàng 2022, bao gồm “Phim truyện xuất sắc”, “Đạo diễn xuất sắc” và “Nam phụ xuất sắc” (Kodi Smitt-McPhee). -
Rudolph the Red-Nosed Reindeer (1964)
- 0 downloads
"Rudolph the Red-Nosed Reindeer" (1964) là một bộ phim hoạt hình truyền hình cổ điển, được sản xuất bằng kỹ thuật stop-motion. Bộ phim kể về Rudolph, một chú tuần lộc với chiếc mũi đỏ phát sáng, điều này khiến cậu bị coi là khác biệt và bị bạn bè xa lánh. Khi Giáng sinh đến gần, thời tiết xấu làm cho ông già Noel gặp khó khăn trong việc giao quà. Ông cần một ánh sáng dẫn đường, và Rudolph với chiếc mũi đặc biệt của mình đã trở thành giải pháp. Bộ phim thể hiện hành trình của Rudolph từ một chú tuần lộc bị chế giễu đến vị trí quan trọng trong đội tuần lộc của ông già Noel. Bên cạnh câu chuyện cảm động về sự chấp nhận và tình bạn, phim còn có những bài hát memorable và hình ảnh đáng yêu. "Rudolph the Red-Nosed Reindeer" đã trở thành một phần không thể thiếu trong mùa lễ hội và được yêu thích qua nhiều thế hệ. -
Road House (1989)
- 0 downloads
"Road House" (1989) là một bộ phim hành động do Rowdy Herrington đạo diễn, với Patrick Swayze trong vai chính. Phim xoay quanh Dalton, một bouncer (người bảo vệ) nổi tiếng với khả năng xử lý tình huống khó khăn tại các quán bar. Dalton được thuê để làm việc tại một quán bar tên là Double Deuce, nơi có nhiều vấn đề bạo lực và hỗn loạn. Nhiệm vụ của anh không chỉ là giữ trật tự mà còn phải cải thiện bầu không khí của quán. Tuy nhiên, anh nhanh chóng phải đối mặt với sự chống đối từ những tay giang hồ địa phương do một ông trùm tên Brad Wesley đứng đầu. Khi tình hình leo thang, Dalton phải sử dụng kỹ năng chiến đấu và trí thông minh của mình để bảo vệ bản thân và những người xung quanh. Phim kết hợp giữa hành động kịch tính, những cảnh đánh đấm mãn nhãn và yếu tố lãng mạn, khi Dalton cũng phát triển mối quan hệ với một nữ bác sĩ địa phương. "Road House" đã trở thành một bộ phim kinh điển của thập niên 80 và nổi tiếng với các cảnh hành động ấn tượng cùng thông điệp về lòng dũng cảm và chính nghĩa. -
Malcolm X (1992)
- 0 downloads
“Đây là thời điểm cho những chiến binh tử vì đạo, và nếu tôi là một trong số đó thì lý do gia nhập chính là tình huynh đệ. Đó là điều duy nhất có thể cứu được đất nước này”. Những lời phát biểu này được một trong những người Mỹ gốc Phi nổi tiếng và gây tranh cãi nhất ở Mỹ thốt ra chỉ hai ngày trước khi anh bị ám sát. Tên của anh là Malcolm X, tên khai sinh là Malcolm Little. Nhiều cá nhân, tổ chức và trung tâm nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu về người đàn ông này. Trên thực tế tồn tại rất nhiều bản lý lịch và những bài phân tích sâu sắc về cuộc đời và triết lý sống của Malcolm X. Giấc mơ của Malcolm X Câu chuyện đề cập ở đây tập trung vào những sự kiện, giả thuyết và nghi ngờ xung quanh vụ ám sát Malcolm X và ảnh hưởng của nó đối với thế giới. Cũng giống như mục sư Martin Luther King, Jr., Malcolm X cũng có một giấc mơ. Ban đầu, nó ngập trong giáo lý của sự giận dữ, hận thù và mong muốn độc lập kinh tế cho những người theo chủ nghĩa ly khai. Sau này, giấc mơ đó chuyển hóa thành sự chấp nhận về một tổ chức thống nhất; thay thế hận thù bằng hòa bình; thay thế giận dữ bằng khát khao cháy bỏng cho sự bình đẳng của nhân loại. Malcolm, con trai của Louise và mục sư Earl Little, sinh ra ở Omaha, Nebraska (Mỹ) vào ngày 19/5/1925. Earl Little là một mục sư theo phái tin lành Baptist, một người ủng hộ tích cực cho Hiệp hội tiến bộ của người da đen toàn cầu (UNIA). Gia đình nhà Little sau này chuyển tới Lansing, Michigan và tại đây ngôi nhà của họ bị đốt cháy một cách đầy bí ẩn. Mục sư Little sau đó dựng một ngôi nhà khác cho gia đình ở East Lansing. Năm 1931, sau một cuộc tranh cãi với vợ, mục sư Earl Little giận dữ đi khỏi nhà. Thi thể của ông ta sau đó được tìm thấy trên đường ray xe điện. Nhà chức trách tuyên bố, nhiều khả năng đây là một vụ tự tử, tuy nhiên cộng đồng người Mỹ gốc Phi tin rằng, ông đã bị sát hại bởi một nhóm ủng hộ cho thuyết người da trắng thượng đẳng. Mẹ của Malcolm đã làm tất cả để chăm sóc cho 6 người con. Căng thẳng triền miên đã khiến cô bị mất trí và được đưa vào trung tâm điều trị năm 1939. Những đứa con của cô đã được đưa vào các trung tâm bảo trợ khác nhau. Cùng năm đó, giáo viên của Malcolm đã hỏi cậu sau này muốn làm nghề gì. Câu trả lời của Malcolm là luật sư. Vị giáo viên kia, người thường khuyến khích những học sinh da trắng lựa chọn nghề nghiệp, đã nói với Malcolm rằng, luật sư không phải là lựa chọn thực tế cho người da đen. Malcolm, từ một học sinh giỏi đã nhanh chóng mất hết hứng thú và bỏ học khi chỉ hết lớp tám. Sau khi làm một vài công việc vặt, Malcolm chuyển đến Boston với cô của mình. Ở tuổi 14, cậu chỉ có thể kiếm được những công việc nhỏ nhặt. Cuối cùng, Malcolm được chọn làm nhân viên cho tuyến đường sắt New Haven – nối giữa Boston và thành phố New York. Cơ hội này đã giúp cậu có thể gặp gỡ rất người Mỹ gốc Phi trí thức. Sau khi bị sa thải, Malcolm lại tiếp tục với những việc lặt vặt ở New York và Boston và thậm chí cũng có những hành vi trộm cắp vặt. Sau khi bị bắt vì mang theo vũ khí, cậu bị kết án tù. Trong thời gian hơn 6 năm chấp hành án tù, Malcolm đã tự xác định con đường đi cho mình, theo đó sẽ chuyển sang đức tin của đạo Hồi và trở thành một thành viên của tổ chức Quốc gia Hồi giáo (NOI). Sau khi ra tù vào năm 1952, Malcolm Little, lúc này cũng được biết đến là Malcolm X, đi tới Detroit và bắt đầu tích cực rao giảng cho người Mỹ gốc Phi về lợi ích của đạo Hồi. Malcolm truyền bá giáo lý và quan điểm của mình cho bất kỳ ai muốn nghe, dù trên đường phố hay trong thánh đường. Malcolm nhanh chóng nhận được sự ủng hộ và yêu quý của Elijah Muhammad, người đứng đầu NOI. Anh được cử đến các thành phố và rao giảng về đạo Hồi, thành lập những thánh đường mới và thuyết phục hàng nghìn người theo Hồi giáo. Hai năm sau, Malcolm X trở thành mục sư của Thánh đường số 7 ở Harlem, New York. Sau mối bất hòa với Elijah Muhammad và NOI, Malcolm X hiểu rằng mình đang trong tình thế nguy hiểm. Anh đã thành lập tổ chức nhà thờ Hồi giáo hợp nhất (MMI) và tuyên bố cho rằng lãnh đạo của NOI có thể sẽ giết anh: “Họ không thể để tôi sống được… Tôi biết nơi các thi thể bị chôn giấu. Và nếu họ gây sức ép, tôi sẽ cho khai quật một vài chỗ”. Malcolm X sau đó thành lập tổ chức thống nhất người Mỹ gốc Phi (OAAU) và bắt đầu cuộc đấu tranh chống lại hệ thống chủ nghĩa tư bản. Anh dự định xây dựng một đảng dân tộc của người da đen cùng với hành trình khắp châu Âu, Trung Đông, Cộng hòa Ảrập thống nhất và châu Phi, những nơi anh muốn bóc trần sự áp bức đối với người Mỹ gốc Phi để thế giới hay biết thông qua phong trào dân tộc Phi thống nhất. Vào tháng 4/1964, Malcolm X hành hương đến thánh địa Mecca và điều này đã dẫn đến sự chuyển biến thứ hai trong suy nghĩ của anh. Malcolm X gặp gỡ những người có cùng chí hướng đến từ nhiều quốc gia và nhiều chủng tộc, da đen, da nâu, da trắng và tất cả những người con của thánh Allah (theo đạo Hồi). Sự kiện này đã khiến anh chợt nhận ra rằng, ủng hộ sự hợp tác về chủng tộc và tôn giáo sẽ giúp giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc ở Mỹ, xa hơn sẽ dẫn tới một thế giới hòa bình. Ý tưởng và giấc mơ chuyển biến của Malcolm X đã thu được kết quả và sẵn sàng để thực hiện ở cả quy mô quốc gia và quốc tế. Một lần nữa, Malcolm X đổi tên, lần này là El-Hajj Malik El-Shabazz. Và một lần nữa, anh thấy mình đi ngược lại với chế độ. Tuy nhiên, lần này anh sẽ không đơn độc trong cuộc đấu tranh vì bình đẳng và công lý. Những người nhập cư này cạnh tranh việc làm, lương lậu với người da trắng ở Mỹ trong khi người da trắng tìm cách kháng cự lại cái mà họ coi là sự đồng hóa này. Từ tâm lý đó đã làm xuất hiện tư tưởng phân biệt với người nhập cư da màu. Một số muốn thanh lọc nước Mỹ và đòi ngăn người nhập cư da màu vào Mỹ bằng luật. Phản lại, nhiều phong trào đòi dân quyền rầm rộ đã nổ ra, trong đó hàng triệu người da màu giận dữ đòi thay đổi. Để đập tan sự phân biệt chủng tộc, thanh niên da màu đã chiếm lĩnh các quán bar, tổ chức phong trào Freedom Rides buộc hệ thống giao thông công cộng phải chấm dứt tình trạng phân biệt người da đen, da trắng. . Cái chết của Malcolm X Không lâu sau, những hành động của Malcolm X đã vấp phải sự phản ứng và chỉ trích từ nhiều phía. Các thành viên của NOI giận dữ với ý nghĩ cho rằng anh đang cố gắng để thay thế Elijah Muhammad. Các cơ quan của chính phủ lo ngại sự liên quan của Malcolm X với NOI trong các vấn đề quốc tế, trong khi các quan chức thực thi pháp luật coi Malcolm X và những hành động của anh là cực đoan, phạm tội và gây hại cho xã hội. Sáng sớm ngày 14/2/1965, Malcolm X và gia đình đang ngon giấc trong ngôi nhà ở Elmhurst, New York thì bất ngờ bị đánh thức bởi tiếng kính vỡ và những vụ nổ. Nhiều chai xăng đã được ném qua cửa sổ phòng khách và ngôi nhà bị chìm trong biển lửa. Malcolm X vội vã đưa vợ con thoát ra ngoài. Khi đã ở vị trí an toàn và trong tiết trời lạnh giá, họ buồn bã ngắm nhìn ngôi nhà đang bốc cháy. Malcolm X nghi ngờ NOI là kẻ chủ mưu muốn giết hại gia đình mình khi khai báo với nhà chức trách. Chiều hôm sau, hơn 400 tín đồ Hồi giáo đã tụ tập tại phòng khiêu vũ Audubon ở thành phố New York, háo hức chờ đợi sự xuất hiện của diễn giả khách mời, giám mục Malcolm X. Bên trong phòng khiêu vũ không thấy có sắc phục của cảnh sát, nhưng có hai nhân viên cảnh sát đứng chốt ở bên ngoài lối vào. Điều này là dễ hiểu, bởi vì một vụ ám sát nhằm vào Malcolm X hoàn toàn có thể xảy ra. Hàng chục cảnh sát có mặt ở phía bên kia con đường, được cho là theo yêu cầu của Malcolm X vì anh e ngại sự xuất hiện của cảnh sát trước phòng khiêu vũ sẽ tạo ra tâm lý bất an cho khán giả. Vợ của Malcolm X, Betty Shabazz, sau đó đã phủ nhận việc chồng của cô đưa ra đề nghị như vậy. Malcolm X luôn lo sợ bị ám sát và chắc chắn sẽ không từ chối sự bảo vệ. Bên trong phòng khiêu vũ Audubon, một vài nhân viên bảo vệ của NOI mặc đồ đen được bố trí đứng gần sân khấu và hướng về phía sau của căn phòng. Tính chuyên nghiệp của những vệ sĩ này là không phải bàn cãi, họ giám sát căn phòng và lặng lẽ theo dõi vị trí ngồi của những người đến muộn. Malcolm X, người vợ đang mang thai và bốn người con của họ ngồi tại một phòng chờ. Trong trạng thái căng thẳng và lo lắng, Malcolm X đã yêu cầu hai vệ sĩ đưa gia đình của anh tới hàng ghế gần phía trước sân khấu. Dường như bị căng thẳng và khá mệt mỏi, Malcolm X đã nói với các phụ tá rằng anh có nhiều do dự về bài phát biểu. Họ cố gắng trấn an Malcolm X nhưng không thành công. Sự bồn chồn của Malcolm X phản ánh rõ trên nét mặt đầy căng thẳng và đôi mắt lo âu khi đảo mắt quanh căn phòng. Malcolm X lắng nghe người đồng môn Benjamin Goodman phát biểu khai mạc và chờ đợi yên lặng trong hậu trường. Khoảng 3 giờ 08 phút chiều, người đồng môn Benjamin kết thúc bài phát biểu và giới thiệu Malcolm X. Anh bước ra sân khấu với sự tung hô kéo dài. Malcolm X tiến tới bục gỗ và nhìn xuống khán giả. Khi tiếng vỗ tay tạm lắng, anh chào khán giả và mỉm cười với họ. Ngay khi Malcolm X bắt đầu phát biểu, một sự huyên náo xảy ra gần phía sau của căn phòng khiêu vũ. Hai người đàn ông đang nổi xung và ném những chiếc ghế gấp bằng gỗ xuống sàn trong khi một người hét lên: “Bỏ tay ra khỏi túi quần của tao!”. Khi Malcolm X đề nghị mọi người bình tĩnh thì bất ngờ một tiếng nổ lớn phát ra ở phía sau căn phòng với rất nhiều khói. Tình huống này đã khiến vệ sĩ và trợ tá của Malcolm X mất tập trung, và đây chính là cơ hội tốt cho những tay súng có thể thực hiện kế hoạch của chúng. Một gã rời khỏi hàng ghế đầu và rút trong áo khoác ra một khẩu súng săn hai nòng loại ngắn và bắn hai phát vào Malcolm X. Cả hai viên đạn đều xuyên qua bục phát biểu và trúng vào ngực của Malcolm X. Trong lúc Malcolm X ngã ra phía sau và ôm ngực thì hai tên khác nhảy lên sân khấu và tiếp tục nhả đạn vào anh trước khi quay lưng chạy khỏi tòa nhà. Trong lúc bỏ chạy, chúng vẫn tiếp tục xả súng. Một vài môn đệ vội vã nhảy lên sân khấu để cứu giúp Malcolm X. Toàn bộ căn phòng khiêu vũ trở lên hỗn loạn. Đa số trong đám đông cố gắng chạy khỏi căn phòng đầy khói và tránh xa vụ tấn công khủng khiếp, trong khi một số người khác truy đuổi bọn tội phạm. Betty Shabazz lấy thân mình che chở cho những đứa con bên dưới một băng ghế. Ngay khi hết tiếng súng, chị vội vã chạy về phía chồng đang nằm bất động và hét lên: “Chúng giết chồng tôi rồi!”. Một trong những kẻ ám sát đã bỏ trốn thông qua cửa sổ phòng tắm, trong khi hai tên khác chạy theo hướng cầu thang. Chúng bị đám đông đang sợ hãi và tức giận ném theo ghế hoặc bất cứ vật dụng gì họ có thể tìm thấy. Một nghi can 22 tuổi, Talmadge Hayer (cũng được biết đến là Thomas Hagan) đã bị vệ sĩ của Malcolm bắn vào chân và không thể thoát khỏi cơn thịnh nộ của đám đông. Hayer bị đấm đá túi bụi trước khi hai cảnh sát mặc quân phục có mặt và cứu hắn ta khỏi cái chết cận kề. Một đồng phạm của hắn đã cố gắng trốn thoát sau khi bị một cảnh sát chìm có tên Gene Roberts, thành viên của BOSS (cơ quan bảo vệ công dân và tài sản liên bang) đánh gục. Roberts đã lớn lên cùng với Malcolm X và được Malcolm X cũng như môn đệ của anh gọi là người anh em Gene. Roberts sau đó vội vã chạy tới sân khấu và nỗ lực cứu giúp Malcolm X đang chảy rất nhiều máu. Malcolm X nhanh chóng được đưa đến bệnh viện, tại đây các bác sĩ đã cố gắng giữ mạng sống cho anh nhưng không thành công. Âm mưu, Lý thuyết và Thực tế Nhiều thập kỷ trôi qua kể từ buổi chiều tháng 2 định mệnh năm 1965 và câu chuyện xung quanh cái chết của Malcolm X vẫn là điều bí ẩn. Tác phẩm “The Smoking Gun: The Malcolm X Files” tiết lộ, một báo cáo của FBI vào ngày 22/2/1965 đã tuyên bố Malcolm X bị 10 vết thương trên ngực, đùi và mắt cá chân. Biên bản khám nghiệm tử thi này đã chỉ ra một viên đạn cỡ 9mm, một viên đạn cỡ 45mm và một số viên đạn nhỏ đã găm vào cơ thể của anh. Cả hai phát đạn bắn ra từ khẩu súng săn đã trúng vào tim và động mạnh chủ của Malcolm X. Cảnh sát New York và báo chí địa phương đã đưa ra bản tin đầu tiên, cho rằng hai nghi phạm đã bị bắt giữ và đưa tới đồn cảnh sát. Tuy nhiên, sau đó bản tin này biến mất và cảnh sát đã phủ nhận kịch liệt về sự tồn tại của nó. Đồng thời, họ khẳng định rằng chỉ có Talmadge Hayer bị bắt. Vì lý do nào đó, Gene Roberts đã chìm dần trong toàn bộ vụ án, tuy nhiên một vài nhà phân tích nghi ngờ rằng anh này chính là người thứ hai đã bị bắt nhưng đã được thả ngay sau đó để bảo vệ vỏ bọc là đặc vụ bí mật của BOSS. Câu hỏi Gene Roberts là ai không bao giờ được nói đến. BOSS là một cơ quan bí mật và ngay cả cảnh sát cũng không có nhiều thông tin về tổ chức này. Hồ sơ nhân sự của BOSS cũng được giữ bí mật. Vậy Gene Roberts liệu có liên quan đến vụ án và Roberts có phải là tên thật của anh ta hay không? Khẩu Luger không tìm thấy thì như thế nào? Ai đã sử dụng nó? Tại sao có nhiều bí ẩn như vậy? Trong phiên tòa, Hayer thú nhận đã bắn Malcolm X, tuy nhiên hắn khai rằng Butler và Johnson không có mặt tại vụ ám sát và cũng không liên quan tới vụ nổ súng. Cả hai người này đều có bằng chứng ngoại phạm, vì vậy công tố viên không xem xét kỹ lưỡng về họ. Thông tin đầu tiên của cảnh sát cho rằng có 5 kẻ tình nghi tham gia vào vụ ám sát. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà báo cáo này biến mất khỏi hồ sơ lưu trữ. Nhiều người vẫn tin rằng Talmadge Hayer cùng bốn tên khác đã tham gia tích cực trong vụ ám sát Malcolm X. Cho đến nay, bốn kẻ tình nghi này vẫn chưa xác định được danh tính. Karl Evanzz, một phóng viên của tờ Washington Post đã nghiên cứu hơn 300.000 trang tài liệu của FBI và CIA để viết cuốn sách “The Judas Factor”. Trong lời giới thiệu, ông khẳng định rằng: “Sau khi phân tích những tài liệu này, tôi tin rằng Louis E. Lomax, một nhà báo người Mỹ gốc Phi siêng năng và có tình bạn với Malcolm X vào cuối những năm 1950, đã khám phá những bí ẩn xung quanh vụ ám sát Malcolm X”. Lomax cho rằng âm mưu ám sát được dàn dựng bởi một người bạn cũ của Malcolm X có tên John Ali, một đặc vụ hoặc có thể là người cung cấp tin cho cơ quan tình báo. Trước đó, Malcolm X đã có lời chỉ trích Ali và cho rằng Ali phải chịu trách nhiệm cho việc Malcolm X bị hất cẳng khỏi NOI và cuối cùng Ali leo lên vị trí thư ký quốc gia của tổ chức này. Sau này, Lomax đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn ô tô do xe bị mất phanh. Đến nay người ta biết rằng, chính phủ và các cơ quan thực thi pháp luật đã đưa người thâm nhập vào OAAU, NOI và hầu hết các tổ chức đấu tranh vì dân quyền khác. Một vài trong số những đặc vụ hoặc người cung cấp tin đã giữ những vị trí cấp cao. Nhiệm vụ của họ không chỉ báo cáo tin tức về hoạt động, kế hoạch và thành viên của tổ chức mà còn gây chia rẽ, nghi ngờ và gieo rắc mối sợ hãi cho những người ủng hộ. Trong cuốn sách của mình, Evanzz đã đề cập đến sự dính líu của chính phủ qua kế hoạch mang tên Cointelpro nhằm ngăn cản hoạt động của Malcolm X thông qua BOSS, NOI và các nhóm tội phạm có tổ chức. Mục tiêu của chương trình Cointelpro là ngăn chặn những nhà bất đồng chính kiến và các tổ chức chính trị cực đoan thông qua các phương tiện bí mật. Nhiều người tin rằng Malcolm X và các nhân vật đấu tranh vì dân quyền khác là mục tiêu của chương trình Cointelpro. Mối lo lắng ngày càng tăng khi Malcolm X nhận được sự ủng hộ từ Martin Luther King để biến những cuộc đấu tranh của người Mỹ gốc Phi trở thành vấn đề quốc tế qua việc đệ trình một bản kiến nghị tới Hội nghị của Tòa án công lý quốc tế tại Hague. Trên thực tế, vụ ám sát Malcolm X diễn ra trước hội nghị này chỉ hai tuần. Cũng có nhiều người tin rằng Malcolm X có lẽ đã bị một băng nhóm tội phạm có tổ chức sát hại do anh đã vận động thành công chiến dịch chống ma túy, rượu và tội ác ở Harlem. Tuy nhiên, nhà chức trách đã không điều tra về sự dính líu của những nhóm mafia mà đa phần trong số đó là những kẻ có quan hệ gần gũi với Malcolm X. Sự nghi ngờ đổ dồn vào các tín đồ Hồi giáo, những người ghen tị với sự thành công đang lên của Malcolm X trong việc thuyết phục nhiều môn đệ của Elijah Muhammad gia nhập MMI do anh ta thành lập. Nhiều người Hồi giáo cho rằng Malcolm X đang thách thức thủ lĩnh của họ và bôi nhọ danh tiếng của Elijah Muhammad qua việc công khai tố giác ông ta ngoại tình. Muhammad, người đã coi Malcolm X như con, đã cảm nhận thấy Malcolm X phản bội lại mình và NOI thông qua việc thay đổi mục tiêu thực sự của đức tin Hồi giáo và các giáo lý hòa bình của kinh Koran. Cũng trong thời gian này, các cuộc gọi điện thoại và thư từ nặc danh đe dọa tính mạng của Malcolm X đã bắt đầu xuất hiện. Một số cuộc điện thoại được gọi đến nhà của anh hoặc tới báo chí địa phương và các hãng tin điện tử. NOI đã yêu cầu Malcolm giao trả nhà cửa và xe con thuộc sở hữu của họ. Với những gì biết được về vụ ám sát Malcolm X, mục sư Martin Luther King, Jr. nhận xét rằng, một người sẽ phải chế ngự nỗi sợ hãi của cái chết nếu anh ta muốn làm bất cứ điều gì mang tính xây dựng cho cuộc sống và đứng lên chống lại cái ác. Chúng ta có thể sẽ không bao giờ biết tất cả sự thật về những kẻ đứng sau vụ ám sát Malcolm X, nhưng chúng ta biết được rằng những kẻ ám sát không muốn cho anh cơ hội để có thể hành động theo niềm tin mạnh mẽ mới được hình thành. Ngày nay, người đàn ông này và tên của anh, Malcolm X, đã được biết đến ở Mỹ và trên thế giới. Anh là một người đấu tranh cho tự do nổi tiếng với tầm nhìn sâu rộng và ý chí đứng lên đấu tranh mạnh mẽ. Để công nhận và tôn vinh cho những đóng góp của Malcolm X trong cuộc đấu tranh vì nhân quyền, tên tuổi và hình ảnh của anh đã được in trên những con tem thư còn lưu hành ngày nay. -
Call Me by Your Name (2017)
- 0 downloads
“Call me by your name” là một bộ phim được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết lãng mạn cùng tên của nhà văn André Aciman, người đồng thời cũng là đạo diễn, biên kịch, nhà sản xuất của bộ phim này. Bộ phim kể về mối tình đồng tính giữa hai Elio (Timonthée Chalamet) và Oliver (Armie Hammer). Elio là cậu con trai 17 tuổi của gia đình ông bà Perlman. Cậu có một vẻ đẹp mỏng manh, đầy nội tâm tựa như những bức tượng Hy Lạp – thoát tục và đẹp đẽ. Với tài năng âm nhạc và niềm đam mê đọc sách mê mỏi, cậu mang trong mình một sức quyến rũ kì lạ, khiến cho ai gặp qua cũng cảm thấy tò mò và muốn tìm hiểu cậu. Và một trong những người bị cậu quyễn rũ chính là Oliver – cậu sinh viên ngành khảo cổ học vạm vỡ, đẹp trai người Mỹ mang trong mình dòng máu Do Thái. Với phong thái chủ động, đầy tự tin của mình, Oliver không chỉ làm mê mệt những cô gái địa phương, mà còn cả chàng Elio nữa. Có thể thấy rằng Elio và Oliver là hai mảnh ghép trái ngược nhau: một Elio mới lớn với một vẻ đẹp khá nữ tính, một tâm trí vô ưu vô lo, bay bổng với những bản nhạc, những phím đàn và những vần thơ. Còn Oliver lại là một người đã trưởng thành, mạnh mẽ, tự tin, chủ động tạo mối quan hệ cùng nhưng trong tâm trí lại tồn tại bao lo âu về tương lai, gia đình và sự nghiệp. Thế nhưng khi xếp lại, họ trùng khớp với nhau một cách kỳ lạ, không có lý do gì ngoài việc: “Because it was him (Vì đó là anh ấy) Because it was me” (Vì đó là con) (Lời thoại của bố Elio khi nói về sự gắn bó đặc biệt của Elio và Oliver) Tác giả André Aciman không chỉ khiến người đọc, người xem thích thú bởi sự đối nghịch của hai nhân vật chính mà còn bởi bối cảnh của câu truyện. Đó là vào mùa hè của những năm đầu 1980 ở nước Ý. Mùa hè Địa Trung Hải thật thanh bình với nắng vàng, táo chín và làn nước mát lạnh soi bóng cây xanh. Nhưng chính cái khung cảnh thanh bình, cách kể chuyện nhẹ nhàng của tác giả lại làm nổi bật những suy nghĩ của cặp đôi Elio và Oliver. Đó là những nỗi lo lắng, sợ hãi về định kiến xã hội, và cả những ngờ vực của họ về chính cuộc tình này. Thế nhưng, bất chấp những ngờ vực, bất chấp những lo âu, họ đã đến với nhau để rồi yêu nhau. Mùa hè năm ấy, Elio và Oliver đã đắm chìm trong tình yêu, nhục dục và khoái cảm. Thế nhưng, tại sao lại phải vội vã, phải hối hả đến vậy? Cũng dễ hiểu thôi. Bởi họ đã mất rất nhiều thời gian để nhận ra ra cảm xúc của mình và khi đó, họ cũng đồng thời nhận ra những ngày hè còn lại thật ngắn ngủi. Nhưng như một ngôi sao băng, ngắn ngủi nhưng đẹp đẽ thì tình yêu họ cũng vậy. Chính vì sự ngắn ngủi của thời gian mà họ đã cố gắng dành mọi phút giây ở bên cạnh nhau, để có thể được cảm nhận nhau, để có thể hòa quyện vào nhau. Và chính điều đó đã khiến mùa hè ngắn ngủi bỗng trở nên dài vô tận. Và rồi cái gì đến cũng phải đến. Oliver cuối cùng cũng phải rời xa cái nắng hè của miền quê nước Ý, những vần thơ, những thanh ấm của những phím đàn, và trên hết là rời xa Elio. Mối tình này kết thúc thật chóng vánh để lại trong lòng người xem và cả chính Elio những thắc mắc về tương lai. Giống như chính lời bài hát Mystery of love của Sufjan Stevens – bản soundtrack được sử dụng trong phim: “And what difference does it make when this love is over?” (Và sẽ khác biệt gì khi cuộc tình này kết thúc ?) Thế rồi thật buồn làm sao khi cuộc tình này lại kết thúc và để lại trong lòng cả hai người những nuối tiếc, những nỗi đau khi mà Oliver gọi gia đình Perlman để thông báo rằng mình sắp kết hôn sau hai năm xa biệt. Nhưng dù vậy, ký ức của hai người vẫn vẹn nguyên, như chính Oliver đã khẳng định với với Elio rằng: “I remember everything” (Anh nhớ tất cả mọi thứ) Đúng vậy, cuộc tình này đã kết thúc. Đó quả là điều đáng buồn nhưng không hề đáng tiếc chút nào. Bởi Elio và Oliver đã yêu hết mình để rồi những ngày hè rực rỡ đó sẽ tồn tại trong ký ức như là một dấu ấn của tuổi trẻ đầy ngây thơ và khờ dại – những ngày hè ngắn ngủi mà đẹp đẽ đó. Qua câu chuyện của mình, André Aciman đã mang đến cho người xem một thông điệp thật dung dị rằng tình yêu không phân biệt giới tính hay tuổi tác mà đơn thuần chỉ là sự thấu cảm giữa hai tâm hồn. Câu chuyện này còn cho chúng ta động lực để dám yêu thương, dám mở lòng bởi dù sau này có những tổn thương, những giọt nước mắt nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hối tiếc vì đã yêu bằng cả con tim và thể xác của mình. Cảm ơn André Aciman vì những dòng văn thật êm đềm, cảm ơn Timothée Chalaman và Armie Hammer vì những cung bậc cảm xúc thật chân thật. Họ đã cùng nhau kể một vẽ nên một câu chuyện về tình yêu đồng tính thật chân thật, nhẹ nhàng, êm ái, lãng mạn, dung dị và đẹp đẽ. Cảm ơn “Call me by your name”! -
Orlando (1992)
- 0 downloads
"Orlando" (1992) là một bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Virginia Woolf, do Sally Potter đạo diễn. Phim kể về cuộc đời của Orlando, một nhân vật sống qua nhiều thế kỷ và trải nghiệm sự thay đổi về giới tính. Câu chuyện bắt đầu vào thế kỷ 16, khi Orlando là một quý tộc trẻ tuổi. Sau khi được giao nhiệm vụ làm đại sứ cho Hoàng gia Anh, Orlando sống cuộc sống đầy tham vọng và sáng tạo. Tuy nhiên, sau một cuộc tình tan vỡ, Orlando ngủ thiếp đi và khi thức dậy, phát hiện ra mình đã trở thành phụ nữ. Phim theo chân Orlando qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, từ Elizabethan cho đến thế kỷ 20, khám phá những khía cạnh của giới tính, bản sắc và sự tự do. Với phong cách hình ảnh đẹp mắt và cách kể chuyện độc đáo, "Orlando" không chỉ là một tác phẩm về hành trình cá nhân mà còn phản ánh những biến chuyển xã hội và văn hóa. Tác phẩm đã nhận được nhiều lời khen ngợi và được xem là một trong những bộ phim quan trọng về giới tính và bản sắc.