
Everything posted by Joker
-
The Naked Gun: From the Files of Police Squad! (1988)
- 0 downloads
The Naked Gun: From the Files of Police Squad! (1988) là một bộ phim hài hành động, được đạo diễn bởi David Zucker và dựa trên loạt phim truyền hình "Police Squad!" Những tình huống hài hước và châm biếm trong phim xoay quanh nhân vật chính Frank Drebin, do Leslie Nielsen thủ vai. Câu chuyện bắt đầu khi Frank, một cựu cảnh sát hạ cánh từ tình trạng hôn mê, trở lại làm việc và nhận nhiệm vụ điều tra một âm mưu ám sát lãnh đạo một quốc gia trong một sự kiện thể thao lớn. Với phong cách hài hước điển hình của loạt phim, Frank gặp phải nhiều tình huống dở khóc dở cười và những sự hiểu nhầm ngớ ngẩn khi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Bên cạnh những màn hài hước, phim còn châm biếm các thể loại phim hình sự và hành động, với nhiều tình tiết bất ngờ và trò đùa sắc sảo. Sự xuất hiện của các nhân vật phụ như Ed Hocken (do George Kennedy) và Jane Spencer (do Priscilla Presley) cũng thêm phần hài hước cho bộ phim. Phim được đánh giá cao và trở thành một trong những bộ phim hài kinh điển, nổi bật với phong cách châm biếm và những tình huống dở khóc dở cười mà khán giả vẫn yêu thích cho đến ngày nay. -
The Monster Squad (1987)
- 0 downloads
The Monster Squad (1987) là một bộ phim phiêu lưu hài hước dành cho thiếu nhi, do Fred Dekker đạo diễn. Câu chuyện xoay quanh một nhóm trẻ em yêu thích phim quái vật, được gọi là "Monster Squad". Nhóm này bao gồm những đứa trẻ với đam mê về các quái vật cổ điển như Dracula, Frankenstein, và Quái vật sói. Khi một mối đe dọa từ thế giới quái vật xuất hiện và bắt đầu gây rối ở thị trấn của họ, nhóm trẻ em buộc phải đứng lên để bảo vệ thành phố khỏi các sinh vật siêu nhiên. Dracula, kẻ cầm đầu, có kế hoạch tìm kiếm một cổ vật mạnh mẽ có thể giúp hắn thống trị thế giới. Để ngăn chặn hắn, nhóm bạn phải sử dụng kiến thức về quái vật và sức mạnh của tình bạn. Bộ phim mang đến những pha hành động vui nhộn và những khoảnh khắc cảm động, đồng thời khám phá chủ đề về lòng dũng cảm, tình bạn và việc vượt qua nỗi sợ hãi. Mặc dù không thành công về mặt thương mại khi ra mắt, The Monster Squad đã trở thành một tác phẩm cult classic, được yêu thích bởi nhiều thế hệ người xem. -
Terms of Endearment (1983)
- 0 downloads
Terms of Endearment (1983) là một bộ phim hài-drama do James L. Brooks đạo diễn, kể về mối quan hệ giữa một người mẹ và con gái trong suốt nhiều năm. Bộ phim theo chân Aurora Greenway (do Shirley MacLaine thủ vai), một người phụ nữ độc lập và mạnh mẽ, và con gái cô, Emma (do Debra Winger thủ vai), người đang tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc sống. Câu chuyện bắt đầu khi Emma còn là một cô bé và tiếp tục cho đến khi cô trưởng thành. Aurora là một người mẹ bảo vệ, thường có những ý kiến mạnh mẽ về cuộc sống của con gái mình. Emma, mặc dù có một mối quan hệ không mấy dễ chịu với mẹ, vẫn tìm cách xây dựng cuộc sống riêng. Emma kết hôn với một người đàn ông tên Flap (do Jeff Daniels thủ vai) và có ba đứa con, nhưng cuộc sống hôn nhân của họ không suôn sẻ. Trong khi đó, Aurora cũng trải qua những cuộc tình và thử thách trong đời sống cá nhân của mình, đặc biệt là với một người đàn ông thú vị tên Garrett (do Jack Nicholson thủ vai). Bộ phim khai thác các chủ đề về tình yêu, mất mát, sự tha thứ và mối liên kết giữa các thế hệ. Nó mang đến nhiều khoảnh khắc hài hước và cảm động, đặc biệt là trong việc thể hiện mối quan hệ mẹ-con, cũng như những khía cạnh phức tạp của cuộc sống. Phim đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm 5 giải Oscar, trong đó có Giải Oscar cho Phim hay nhất và Giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Shirley MacLaine. -
Scrooged (1988)
- 0 downloads
Scrooged (1988) là một phiên bản hiện đại của câu chuyện cổ điển "A Christmas Carol" của Charles Dickens, do Bill Murray thủ vai chính. Trong phim, Murray vào vai Frank Cross, một nhà sản xuất chương trình truyền hình có tính cách lạnh lùng, tham lam và tàn nhẫn. Câu chuyện diễn ra vào mùa Giáng sinh, khi Frank chuẩn bị cho một chương trình truyền hình đặc biệt. Anh hoàn toàn không quan tâm đến những giá trị của lễ hội này và chỉ chăm chăm vào công việc và tiền bạc. Tuy nhiên, trong đêm Giáng sinh, Frank bị ma quái từ quá khứ, hiện tại và tương lai đến thăm, giống như Ebenezer Scrooge trong phiên bản gốc. Mỗi linh hồn mà anh gặp gỡ giúp Frank nhận ra những sai lầm trong cuộc sống của mình, từ việc bỏ rơi người thân, cho đến cách anh đối xử với những người xung quanh. Qua các cuộc gặp gỡ này, Frank dần nhận ra giá trị của tình yêu, sự tha thứ và lòng nhân ái. Cuối cùng, nhờ những bài học từ các hồn ma, Frank quyết định thay đổi cách sống của mình và trở thành một người tốt hơn, biết trân trọng và giúp đỡ người khác. Scrooged không chỉ mang tính giải trí mà còn chứa đựng thông điệp sâu sắc về tình người và sự thay đổi, kết hợp hài hước và cảm động trong bối cảnh lễ Giáng sinh. -
Violent Night (2022)
- 0 downloads
Nhắc đến Giáng Sinh, người ta thường nghĩ đến khung cảnh ấm cúng, gia đình sum vầy, nào bánh, nào nến, cây thông và ông già Noel. Đêm Hung Tàn cũng mở ra không khí tràn ngập tinh thần buổi lễ như vậy, nhưng mọi chuyện không dừng lại ở đó. Đêm Hung Tàn đưa ta đến hành trình của một ông già Noel hàng “real”. Suốt những năm tháng trao quà đến tay những đứa trẻ, ông già Noel giờ đây đã chẳng còn niềm hứng thú vì theo ông bọn trẻ giờ chỉ toàn là vòi vĩnh, chẳng hiểu rõ giá trị của buổi lễ Giáng Sinh. Khi đang làm nhiệm vụ phát quà và tự hứa sẽ là năm cuối cùng mình ghé thăm và trao quà xuống Trái Đất, Santa vô tình rơi vào một gia đình đang đối mặt với cuộc bắt cóc tống tiền tại gia. Vốn đã định quay đầu làm ngơ để phát quà tiếp, nhưng nhìn ánh mắt đứa trẻ trong nhà, Santa quyết định quay lại và giúp cả gia đình chống lại bọn xấu. Bộ phim là sự kết hợp của thể loại hài hước và máu me, kiểu Home Alone nhưng là phiên bản nâng cấp dành cho người lớn. Người viết đánh giá kịch bản của phim trọn vẹn, có những đoạn khiến mình cười lăn lộn, mà cũng có những phân cảnh, những đoạn đối thoại khiến người viết cảm động và khơi dậy cảm xúc vô cùng. Lịch chiếu Đêm Hung Tàn và mua vé Đêm Hung Tàn tại Moveek Mặc dù vậy thì Đêm Hung Tàn vẫn xây dựng kịch bản theo cấu trúc ba hồi thông thường và dễ đoán, vậy nên sẽ không quá khiến khán giả bất ngờ hay phải “wao”. Nội dung chỉ vừa đủ để cười, dễ theo dõi cùng nhiều những cảm xúc cảm động. Tuy nhiên người viết đánh giá cao nhịp điệu và cách bộ phim xây dựng không khí. Ấn tượng nhất là trong những phân cảnh hành động, các nhân vật chém và xông vào nhau, thì nhạc Giáng Sinh êm dịu và vui tươi lại vang lên. Sự tương phản này vừa hài hước vừa nhịp nhàng đến lạ. Nếu bạn ngờ ngợ đã thấy ông già Noel trong Đêm Hung Tàn xuất hiện ở đâu rồi thì đúng rồi đó, chính là chú Hopper siêu đáng yêu trong series Stranger Things cực hot trên Netflix. Với nhân vật Santa Clause lần này, David Harbour đã hóa một ông Noel cực tệ nạn khác xa với truyền thuyết, một ông già Noel chấm bánh với… rượu, đi phát quà trong cơn say, cực ngầu với “tha thu” nhưng bản chất vẫn là một ông già yêu quý trẻ em, cũng giống với chú Hopper quá nhỉ? Đêm Hung Tàn vẫn mắc phải sai lầm như nhiều bộ phim hài kinh dị khác, là tạo hình bọn phản diện trông nguy hiểm nhưng ngốc không tưởng. Từ đầu vào thì hùng hồn, nốc ao bao nhiêu kẻ, nhưng sau lại mắc những lỗi vô cùng ngốc nghếch, lý do, mục tiêu và hành động của các nhân vật cũng được khai thác sơ xài, chủ yếu làm nền để nổi bật hành trình của ông già Noel thôi. Đêm Hung Tàn là một bộ phim thương mại phục vụ cho mùa Giáng Sinh, nhưng bộ phim vẫn mang nhiều bài học ý nghĩa và cảm động, rốt cuộc thì Giáng Sinh có phải là đêm hội đòi quà? Hay bản chất thực là tìm cảm gia đình, là niềm tin vào những điều tốt đẹp. Dù còn tồn tại những điểm trừ trong phần kịch bản và xây dựng nhân vật, nhưng với những ai lấy máu me làm niềm vui, những ai thích Giáng Sinh phải giật đùng đùng chứ không được ấm áp, bình yên thì Đêm Hung Tàn vẫn là một lựa chọn tuyệt vời để xem trong mùa Giáng Sinh năm nay. -
Street Fighter II: The Animated Movie (1994)
- 0 downloads
Street Fighter II: The Animated Movie (1994) là một bộ phim hoạt hình dựa trên trò chơi điện tử nổi tiếng cùng tên. Nội dung phim xoay quanh cuộc chiến giữa các võ sĩ từ khắp nơi trên thế giới, tập trung vào cuộc đối đầu giữa các nhân vật chính như Ryu, Ken, Chun-Li và M. Bison. Cốt truyện bắt đầu với việc M. Bison, lãnh đạo tổ chức tội phạm Shadaloo, đang tìm cách kiểm soát thế giới thông qua các cuộc chiến và các võ sĩ. Ryu, một võ sĩ dũng mãnh, cùng với Ken và Chun-Li quyết tâm ngăn chặn âm mưu của Bison. Trong khi Ryu khám phá sức mạnh nội tại của mình, Ken tìm kiếm sự vinh quang, và Chun-Li, một đặc vụ cảnh sát, đang điều tra về cái chết của cha mình, người đã bị Bison giết hại. Phim nổi bật với các pha hành động mãn nhãn, đặc biệt là các trận chiến giữa các nhân vật nổi tiếng như Ryu, Ken, Guile và Chun-Li với Bison và những tay sai của hắn. Đặc biệt, bộ phim còn khám phá những mối quan hệ và xung đột giữa các nhân vật, làm nổi bật tâm lý và động lực của từng người. Với hình ảnh đẹp, âm nhạc ấn tượng và các trận chiến mãnh liệt, Street Fighter II: The Animated Movie đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại hoạt hình và tiếp tục được yêu thích bởi người hâm mộ trò chơi. -
Oppenheimer (2023)
- 0 downloads
“Thời bình, giết người là tội nhân; thời chiến, giết hàng vạn người là anh hùng”. Nếu vậy, J. Robert Oppenheimer là anh hùng vĩ đại nhất của người Mỹ trong thế chiến II, cũng là tội nhân tàn ác nhất trong lịch sử nhân loại. Và ‘Oppenheimer’ của Christopher Nolan đã khai thác việc này đến triệt để; một bộ phim tiểu sử choáng ngợp, vĩ đại và.. im lặng. ‘Oppenheimer’ có hai tuyến truyện song song xuyên suốt chiều dài ba tiếng, được dựa trên cuốn tiểu sử ra mắt năm 2005 ‘American Prometheus’ của Kai Bird và Martin J. Sherwin, phim xoay quanh J. Robert Oppenheimer, "cha đẻ" của bom nguyên tử. Prometheus stole fire from the gods and gave it to man. For this, he was chained to a rock and tortured for eternity." Tuyến đầu tiên nói về quá trình từ lúc bắt đầu đi du học ở châu Âu và nghiên cứu về vật lý lượng tử tới lúc Oppenheimer chiêu mộ các nhà khoa học tới Los Alamos ở New Mexico (Mỹ) – căn cứ nghiên cứu bom nguyên tử. Câu chuyện còn lại là những tranh cãi trong phiên điều trần an ninh năm 1954 với những cáo buộc ông là gián điệp của Liên Xô cùng với những âm mưu chính trị sau đó. Xuyên suốt bộ phim, hai tuyến truyện sẽ được đan xen lẫn nhau với hai tông - có màu và đen trắng cũng như sự cắt ghép các dòng thời gian rất ‘Nolan’. Nếu như ai đã từng xem những phim trước đây của ông như Tenet, Inception,.. thì đều biết là nó vô cùng phi tuyến tính và có thể gây ra nhiều sự khó hiểu cũng như câu hỏi cho những bạn lần đầu tiếp cận, nhưng trái lại chính vì thế mà đạo diễn Nolan đã thành công làm cho một bộ phim tiểu sử trở nên vô cùng kịch tính với nhịp phim dồn dập, làm nó thoát khỏi sự buồn chán của cách kể chuyện A-B-C như những phim tiểu sử điển hình. Bộ phim đưa chúng ta tới một diễn biến chi tiết hơn về tình hình nước Mỹ trong thế chiến II, về số phận những nhà khoa học người Do Thái lưu vong vì Đức quốc xã, về vật lý lượng tử sau thời đại Einstein, sự chạy đua vũ trang của các nước đế quốc cho tới những nan đề đạo đức sâu xa bên trong Lầu năm góc. Tất cả tập trung xoay quanh góc nhìn của J. Robert Oppenheimer, xoáy sâu vào những diễn biến tâm lý cũng như đời tư phức tạp của nhân vật khi đặt vào bối cảnh cuối thế chiến II và sự căng thẳng Mỹ - Nga. Phải nói là Cillian Murphy quá xuất sắc khi đảm nhận vai diễn, những biểu cảm trên gương mặt khi đau khổ, cắn rứt, sự ngạo mạn hay lúc nói dối đều được nam tài tử làm chân thực hết mức có thể. Chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được sự lo lắng của ông trong những cuộc điều tra, sự đau khổ khi hai tay nhuốm máu hàng trăm ngàn sinh mạng và sự thất vọng đối với chính phủ Mỹ lâm thời. Ngoài cách kể chuyện phi tuyến tính độc đáo, đạo diễn Christopher Nolan còn có nhiều trường đoạn lồng ghép những bản nhạc vô cùng hùng tráng ở đầu, giữa và cuối phim kèm theo những hiệu ứng khuếch trương âm thanh rất thực như tiếng dậm chân, hay tiếng gió buốt hậu một vụ nổ nguyên tử kéo tới sau ánh sáng đến vài giây, vô cùng chân thực. Chính những điều đó làm cho bộ phim 3 tiếng trở nên ‘rất ngắn’ vì nhịp điều quá dồn dập và làm người xem không thể rời mắt cho dù đó chỉ là vô số những cuộc hội thoại. Sự thành công của phim còn nằm ở chỗ những lý thuyết vật lý về phân hạch, sự co giãn của không thời gian, lỗ đen vũ trụ được nói một cách chặt chẽ. Nó như thực sự bắt bạn đọc một cuốn sách về vật lý lượng tử nhưng lại ngấu nghiến nó như một quyển truyện tranh không thể rời mắt vậy. Điều cuối cùng mà mình tâm đắc nữa đó là sự mỉa mai mà Nolan khắc họa dưới góc nhìn của ông đối với bộ máy chính phủ lâm thời và sự đấu đá của các đảng phái chính trị không chỉ của thời điểm trong bộ phim mà nó còn như thể đang nói về hiện thực, bây giờ. Mình sững người khi biết rằng những kẻ thống trị có thể chọn ai để chết như một nan đề đạo đức ‘có nên giết một người để cứu nhiều người?’. Tình huống đã xảy ra trong bộ phim cảnh tỉnh chúng ta rằng mình có thể chết bất kỳ lúc nào trong bối cảnh hiện tại, và điều đó thể hiện rất rõ trên mặt của J. Robert Oppenheimer khi ông biết mình đã tạo ra thứ gì và quyết định dung tất cả phần đời còn lại để đấu tranh ngăn chặn sự lây lan của thứ vũ khí mà mình thành danh, vì sau Hiroshima và Nagasaki, tất cả những cuộc chiến sau này đều sẽ kinh hoàng hơn Hiroshima và Nagasaki. Nếu hỏi mình về ‘Oppenheimer’ thì nó là một tuyệt tác quan trọng của thế kỷ này, nếu hỏi mình về J. Robert Oppenheimer thì có lẽ ông không nên tồn tại như ‘một người quan trọng nhất của thế kỷ này’. -
Mute Witness (1995)
- 0 downloads
Mute Witness (1995) là một bộ phim kinh dị tâm lý do Anthony Waller đạo diễn. Câu chuyện xoay quanh một nữ nhân viên làm phim đặc biệt, Billy, do Marina Sirtis thủ vai, người không thể nói. Trong một buổi quay phim tại Moscow, cô tình cờ chứng kiến một vụ giết người trong một studio. Billy trở thành mục tiêu của những kẻ giết người khi họ nhận ra rằng cô đã nhìn thấy mọi thứ. Không thể giao tiếp với cảnh sát do rào cản ngôn ngữ và tình huống nguy hiểm, Billy phải dựa vào sự thông minh và khéo léo của mình để thoát khỏi nguy hiểm và tìm kiếm sự trợ giúp. Phim khám phá chủ đề của sự cô đơn, sự thiếu khả năng giao tiếp và nỗi sợ hãi khi một người không thể lên tiếng. Với những tình tiết hồi hộp và một bầu không khí căng thẳng, Mute Witness đã trở thành một tác phẩm được yêu thích trong thể loại kinh dị. -
Mean Streets (1973)
- 0 downloads
Mean Streets (1973) là một bộ phim của đạo diễn Martin Scorsese, đánh dấu sự khởi đầu cho nhiều yếu tố đặc trưng trong phong cách làm phim của ông. Câu chuyện diễn ra tại New York và tập trung vào cuộc sống của những người trẻ trong một khu phố người Ý. Nhân vật chính, Charlie, do Harvey Keitel thủ vai, là một người đàn ông trẻ tuổi đang vật lộn giữa cuộc sống tội phạm và ý muốn làm điều đúng đắn. Anh có mối quan hệ phức tạp với Johnny Boy, một người bạn thân do Robert De Niro thủ vai, người thường xuyên gặp rắc rối và đang cố gắng trả nợ cho các khoản vay. Charlie cũng đang yêu một cô gái tên Teresa, nhưng tình yêu của họ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài, đặc biệt là tôn giáo và gia đình. Phim không chỉ khám phá các mối quan hệ cá nhân mà còn phản ánh những xung đột nội tâm, sự tha hóa, và những cạm bẫy của cuộc sống đô thị. Âm nhạc và hình ảnh trong phim rất ấn tượng, tạo nên bầu không khí đặc trưng của New York những năm 1970. Mean Streets được coi là một trong những tác phẩm quan trọng trong lịch sử điện ảnh và góp phần định hình phong cách của Scorsese trong các bộ phim sau này. -
Love Actually (2003)
- 0 downloads
Bộ phim của đạo diễn Richard Curtis mang tới một thông điệp ý nghĩa trong đêm Noel: “Tình yêu chạm đến tất cả chúng ta”. Love Actually bắt đầu bằng cảnh ở sân bay Heathrow khi hàng trăm con người vô danh ôm chầm lấy nhau sau một thời gian xa cách. Giọng của nhân vật David, tân thủ tướng Anh vang lên: “Ý kiến chung cho rằng thế giới này đầy thù hận và tham lam. Nhưng tôi không thấy thế. Với tôi, dường như tình yêu ở khắp nơi. Thường thì nó không trang trọng lắm hay đáng lên mục tin tức nhưng vẫn có nó - Bố và con trai, mẹ và con gái, bạn trai, bạn gái, bạn bè cũ... Nếu chú ý, tôi có cảm giác bạn sẽ thấy rằng tình yêu thật sự đang ở quanh ta”. Trong suốt 136 phút, đạo diễn Richard Curtis cố gắng truyền niềm tin ấy đến khán giả. Love Actually có sự hiện diện của ít nhất 8 câu chuyện tình ở mọi cung bậc, sắc thái khác nhau. Khái niệm về “Tình yêu” trong Love Actually không chỉ giới hạn trong tình đôi lứa, đó còn là tình cảm gia đình, tình bạn bè, tình đồng nghiệp, tình người… Bộ phim đặt bối cảnh tại thành phố London, thời điểm 5 tuần trước Giáng sinh. Một nghệ sĩ Rock & Roll hết thời đang cố gắng quay trở lại sân khấu với sự hỗ trợ từ người quản lý lâu năm. Một nhà văn quay trở về nhà phát hiện ra bạn gái đang ngoại tình với chính em trai ruột của mình. Một đôi trẻ mới cưới và chuẩn bị đi trăng mật. Cùng lúc đó, một người chồng nghẹn ngào nói những lời vĩnh biệt trong đám tang người vợ. Ở một nơi khác, một cặp diễn viên đóng thế cảnh sex đang làm quen với nhau. Một gã lập dị làm việc ở cửa hàng ăn uống thất bại hết lần này đến lần khác trong việc tán tỉnh phụ nữ. Một vị Thủ tướng vừa nhậm chức, phải lòng người giúp việc của mình trong khi chị ruột anh ta phải đối diện với cuộc hôn nhân nguội lạnh. Một phụ nữ yêu đơn phương anh chàng đồng nghiệp hơn hai năm trời nhưng chẳng dám ngỏ lời… Để tái hiện bức tranh cuộc sống, đạo diễn kiêm biên kịch Richard Curtis chọn nhân vật từ nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau. Có những người ở tầng lớp thượng lưu như David, Thủ tướng Anh; có những người ở tầng lớp dưới như Colin, người phục vụ hay John và Judy, những diễn viên đóng thế cảnh sex. Bộ phim có nghệ sĩ (ca sĩ Billy Mack, nhà văn Jamie, nghệ sĩ đương đại Mark), có doanh nhân (Harry - quản lý một công ty thiết kế), có chính khách (Thủ tướng Anh David), có người lao động… Hệ thống nhân vật đa dạng như vậy nhằm khẳng định một điều: “Tình yêu chạm đến tất cả chúng ta, bất kể chúng ta làm gì và ở đâu”. Tất cả nhân vật trong từng câu chuyện của Love Actually đều liên hệ với nhau theo một cách nào đó. Họ có thể là chị em một nhà, là bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm hoặc “người quen của người quen”. Thành phố London rộng lớn trên bản đồ nhưng chỉ bé bằng quả cam nếu xét theo những mối liên hệ. Nếu không có những sự liên kết kỳ diệu ấy, Love Actually sẽ chỉ là những mảng rời rạc, vụn vỡ và không thống nhất. Đạo diễn Richard Curtis luôn kèm một chút bi trong những phim hài của mình. Love Actually được dán nhãn là phim hài tình cảm song vẫn có những giây phút cay đắng, buồn bã. Bộ phim truyền đi thông điệp “Tình yêu quanh ta” song đó không phải là thứ tình yêu dễ dàng, nằm sẵn trong hộp quà chờ đợi người mở. Những nhân vật trong phim không thụ động chờ tình yêu tự đến với mình. Đôi khi họ lạc lối, đôi khi họ để vuột mất tình yêu nhưng họ vẫn không ngừng hy vọng và cố gắng. Daniel tưởng tình yêu đã chết theo người vợ nhưng rồi đã tìm thấy sự ấm áp trong tình cảm cha con với Sam, người con trai bé nhỏ. Khi Sam nói với ông là cậu đang yêu, Daniel cười lớn nhưng nhanh chóng lấy lại vẻ nghiêm túc và ân cần hỏi han. Ông gợi ý Sam học đàn và khuyến khích Sam theo đuổi đến cùng tình cảm của mình. Jamie, nhà văn chuyên viết truyện trinh thám, ngỡ đã mất hết niềm tin ở tình yêu khi bị bạn gái cắm sừng với chính người em ruột, rồi lại tìm thấy tình yêu một cách đủ đầy ở cô phục vụ người Bồ Đào Nha. Bất đồng về ngôn ngữ và khoảng cách địa lý tưởng như sẽ chia rẽ họ nhưng Jamie yêu cô tới mức sẵn sàng học tiếng và vội vã bay từ Anh qua Pháp để được đoàn tụ với người phụ nữ anh yêu. Love Actually cũng kể những câu chuyện cảm động về tình yêu đơn phương. Mark lặng thầm yêu Juliet, vợ bạn thân anh. Để che giấu tình cảm và tự bảo vệ bản thân, anh luôn tỏ ra xa cách với Juliet. Mối tình câm đó từ đầu đến cuối chưa bao giờ được nói ra. Tình yêu không lời đó được thể hiện qua những đoạn băng tư liệu ngập tràn hình ảnh Juliet mà anh quay tại lễ cưới. Đêm Giáng sinh khi Mark cuối cùng cũng lấy được can đảm để đối diện với tình cảm thật của mình, anh không nói một lời nào mà dùng những tấm bảng chữ để bày tỏ. Mối tình không có kết quả của Mark dành cho Juliet chứa những khoảnh khắc lãng mạn, đẹp đẽ nhất của bộ phim và sẽ còn được lưu giữ rất lâu trong tâm trí của những người yêu điện ảnh (xem video). Love Actually là tập hợp của hàng loạt câu chuyện dễ thương như thế. Kết thúc phim có những người hạnh phúc bên nhau, có những người vẫn lẻ bóng một mình nhưng không ai thấy hối tiếc vì họ đã can đảm theo đuổi tình yêu đến cùng, bất chấp kết quả thế nào. Love Actually là bộ phim được người Anh yêu thích. Một phần vì phim đã không ngại động chạm đến chính trị, đặc biệt là mối quan hệ nhạy cảm giữa Anh và Mỹ. Phim đã tranh thủ giễu nhại Mỹ mọi lúc mọi nơi. Ca sĩ Britney Spears được nhắc đến trong một trò đùa của Billy Jack và được gọi là “chẳng ra gì”. Những cô gái Mỹ xinh đẹp phát điên vì Colin - một gã lập dị chả tán tỉnh được cô gái Anh nào. Bài phát biểu của tân Thủ tướng David về mối quan hệ với Mỹ đã thỏa mãn mong ước thầm kín của rất nhiều người Anh. Chính cựu Thủ tướng Anh Tony Blair trong một bài phỏng vấn năm 2005 từng thừa nhận: “Tôi biết rằng một phần nào đó trong chúng ta luôn muốn tôi hành xử như Hugh Grant trong Love Actually…” Có lẽ chính vì lý do đó mà Love Actually được tán dương nhiệt liệt bởi các nhà phê bình điện ảnh người Anh nhưng không được lòng các nhà phê bình người Mỹ. Để truyền tải thông điệp “Tình yêu quanh ta”, một số câu chuyện trong Love Actually, nếu xem xét kỹ, còn gượng gạo và khiên cưỡng. Tuy nhiên, đây là bộ phim đặc biệt dành cho Giáng sinh và vào Giáng sinh thì người ta muốn tin vào ông già Noel cùng những điều kỳ diệu. Love Actually thỏa mãn mong ước chính đáng đó. Đây là kiểu phim có thể khiến khán giả thực sự cảm thấy hạnh phúc cho đến khi chìm vào giấc ngủ. Chừng nào đồ ngọt vẫn còn được yêu thích thì những bộ phim ấm áp như Love Actually vẫn tìm được chỗ đứng vững chắc trong tim khán giả. -
Gran Turismo (2023)
- 0 downloads
Dựa trên câu chuyện có thật về Jann Mardenborough, Gran Turismo: Tay Đua Cự Phách là hành trình biến ước mơ thành sự thật của những tay đua ảo. Gran Turismo là tựa game đua xe nổi tiếng đến từ Nhật Bản, thu hút đông đảo game thủ chơi và trải nghiệm như thế nào là một cuộc đua thực thụ. Dựa trên câu chuyện có thật về tay đua Jann Mardenborough, Gran Turismo: Tay Đua Cự Phách không đơn thuần là một trận game so tài, bộ phim đã hiện thực hóa những điều bấy lâu nay tưởng chỉ có trong game với sứ mệnh dẫn dắt những tay đua ảo trên con đường trở thành vận động viên đua xe chuyên nghiệp. Chinh phục ước mơ cùng Gran Turismo: Tay Đua Cự Phách Gran Turismo: Tay Đua Cự Phách là câu chuyện xoay quanh Jann Mardenborough (Archie Madekwe), tay đua xịn xò luôn đứng top trong tựa game Gran Turismo. Jann có niềm đam mê cháy bỏng với đua xe, không chỉ là tham gia thi đấu trong những ván game ảo, cậu luôn khao khát được dấn thân vào những cuộc đua thực thụ. Như bao game thủ khác, Jann cũng vấp phải sự phản đối từ gia đình. Bố mẹ cần cậu sống thực tế hơn, tiếp tục học đại học và lên kế hoạch rõ ràng cho tương lai của mình. Tuy nhiên, ngọn lửa đam mê không cho phép Jann bỏ cuộc. Cậu tiếp tục tập luyện cho giải đấu Gran Turismo với mong muốn chứng minh rằng cậu không mơ mộng viển vông và cũng có thể làm bố mẹ tự hào như em trai của cậu. Giải đấu Gran Turismo là cơ hội để ghi danh vào học viện GT, đó cũng là ải game cuối cùng quyết định chàng game thủ liệu có xứng đáng trở thành người đại diện cho đội Nissan chinh chiến trên những cung đường thực thụ. Sau bao tháng ngày tập luyện gian khổ, Jann Mardenborough đã chứng tỏ mình chính là người có đầy đủ năng lực và phẩm chất của một tay đua chuyên nghiệp, bắt đầu hành trình chinh phục những chiếc xe đua được ví như “tên lửa có vận tốc lên đến 300km/h”. Vượt qua nỗi sợ và giành lấy chiến thắng Đồng hành cùng Jann Mardenborough là Jack Salter (David Harbour), kỹ sư trưởng của đội Nissan và đồng thời cũng là một cựu tay đua nổi tiếng. Là người từng trải và buộc phải rời khỏi đường đua vì một tai nạn kinh hoàng, Jack cảm thấy chiến dịch quảng bá mới của Nissan hết sức hoang đường. Nhìn vào những game thủ gầy còm chỉ quen ngồi sau màn hình máy tính, ông chắc chắn chẳng ai trong những thanh thiếu niên này đã chuẩn bị sẵn sàng cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi để trở thành một vận động viên đua xe chuyên nghiệp, kỹ năng lái xe không thôi chưa đủ, đó còn là những yêu cầu gắt gao về sức khỏe, sự tập trung, khả năng phối hợp giữa người lái và thợ máy. Gran Turismo: Tay Đua Cự Phách đã tái hiện hành trình theo đuổi đam mê vô cùng gian nan của tay đua trẻ Jann Mardenborough. Xuất phát điểm của chàng game thủ “gà mờ” vốn không phải một vận động viên đua xe, vậy nên mọi người đều lấy đó làm cơ sở để chê cười cậu, phản đối cậu cũng như những tay đua ảo khác tham gia thi đấu trên những cung đường thật. Điều đặc biệt ở Jann là cậu không đi theo lối mòn của những tay đua khác. Với bao năm kinh nghiệm trong thế giới ảo, cậu biết phải làm thế nào để vượt qua đối thủ mà không gây ra va chạm, đồng thời lựa chọn đường đua tối ưu nhất để có thể giành chiến thắng. Một cuộc đua xe rất “thật” Nếu bộ phim mở đầu không mấy suôn sẻ với những tương tác có phần “sượng trân” giữa các nhân vật thì nửa sau phim đã trở thành một cuộc đua xe thực thụ. Cảnh quay hoành tráng với những cú lia theo sát xe đua mang đến cho người xem cảm giác như đang theo dõi giải đấu Le Mans ngoài đời thật. Bên cạnh đó, phần âm thanh vô cùng sống động đã bắt trọn từng tiếng rít khi bẻ lái, tiếng khởi động động cơ, tiếng xe tăng tốc và cả những âm thanh kinh hoàng khi xe lật nhào. Chắc chắn các giác quan của khán giả sẽ đứng ngồi không yên khi theo dõi bộ phim này. Đặc biệt, phim còn có sự tham gia đóng thế của Jann Mardenborough người thật ở những phân cảnh cầm lái nguy hiểm cần có kỹ năng của một vận động viên chuyên nghiệp. Thông qua Gran Turismo: Tay Đua Cự Phách, những ai yêu thích điện ảnh có cơ hội biết về một huyền thoại như tay đua Jann Mardenborough, vượt qua bao lời đàm tiếu và định kiến về game thủ để hiện thực hóa ước mơ của mình. Nhìn chung, Gran Turismo: Tay Đua Cự Phách là một bộ phim tiểu sử - nhập vai sống động, mang đến những giây phút giải trí thỏa mãn cả về phần nhìn lẫn phần nghe. Bộ phim cổ vũ cho những ai còn đang chần chừ theo đuổi đam mê, sợ hãi vì ước mơ quá xa vời hay không có đủ điều kiện tài chính. Hãy nhớ rằng Jann Mardenborough cũng đã từng như vậy, trải qua bao khó khăn, anh đã trở thành một vận động viên đua xe chuyên nghiệp và có thể tự hào gọi mình là một tay đua thực thụ. -
Duel (1971)
- 0 downloads
Duel (1971) là một bộ phim tâm lý hành động do Steven Spielberg đạo diễn, dựa trên một câu chuyện ngắn của Richard Matheson. Phim đánh dấu tác phẩm đầu tay của Spielberg trên màn ảnh lớn và được xem là một trong những bộ phim khởi đầu sự nghiệp của ông. Nội dung phim xoay quanh nhân vật David Mann (do Dennis Weaver thủ vai), một doanh nhân đang trên đường đi công tác. Khi lái xe trên một con đường vắng vẻ ở California, anh gặp phải một chiếc xe tải khổng lồ do một tài xế bí ẩn điều khiển. Từ những tương tác ban đầu, tình huống trở nên căng thẳng khi tài xế xe tải bắt đầu truy đuổi David một cách hung hãn và không khoan nhượng. Cảm giác sợ hãi và sự lo âu ngày càng gia tăng khi David cố gắng thoát khỏi sự truy đuổi của chiếc xe tải. Phim tập trung vào cuộc chiến tâm lý giữa David và tài xế xe tải, không chỉ là một cuộc rượt đuổi mà còn là cuộc chiến về tinh thần và bản năng sinh tồn. Phim được đánh giá cao về kỹ thuật quay phim, sự căng thẳng và cách tạo ra không khí hồi hộp. Spielberg đã khéo léo khai thác những cảm xúc và phản ứng của nhân vật trong một tình huống cực kỳ căng thẳng, làm cho bộ phim trở thành một tác phẩm đáng nhớ trong thể loại hành động tâm lý. -
Topaz (1969)
- 0 downloads
Topaz (1969) là một bộ phim chính trị gián điệp do Alfred Hitchcock đạo diễn, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Leon Uris. Bộ phim diễn ra vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh và xoay quanh các âm mưu chính trị phức tạp. Nội dung phim bắt đầu với một điệp viên Pháp, André Devereaux (do Frederick Stafford thủ vai), được giao nhiệm vụ điều tra một mạng lưới gián điệp Cuba có liên quan đến Liên Xô. Trong khi điều tra, Devereaux phát hiện ra một kế hoạch bí mật liên quan đến việc trao đổi thông tin giữa các thế lực quốc tế. Khi câu chuyện diễn ra, Devereaux bị lôi kéo vào một cuộc chiến gián điệp nguy hiểm, dẫn đến việc anh phải đối mặt với nhiều tình huống căng thẳng và những quyết định khó khăn. Những mối quan hệ cá nhân của anh cũng bị ảnh hưởng bởi những âm mưu chính trị này, đặc biệt là mối quan hệ với vợ và người tình. Phim mang đậm phong cách đặc trưng của Hitchcock, với những khung cảnh căng thẳng và các yếu tố hồi hộp. Dù không được đánh giá cao như một số tác phẩm khác của ông, phim vẫn phản ánh những mối quan tâm về chính trị và gián điệp của thời kỳ đó, cùng với phong cách làm phim đặc trưng của Hitchcock. -
The Blob (1988)
- 0 downloads
The Blob (1988) là một bộ phim kinh dị khoa học viễn tưởng do Chuck Russell đạo diễn, là phiên bản làm lại của bộ phim cùng tên năm 1958. Bộ phim này mang đến những yếu tố hài hước và kịch tính, cùng với các hiệu ứng đặc biệt ấn tượng. Nội dung phim xoay quanh một sinh vật bí ẩn, được gọi là "Blob," xuất hiện tại một thị trấn nhỏ. Blob là một loại chất nhầy màu đỏ, có khả năng nuốt chửng mọi thứ trên đường đi của nó, từ động vật đến con người. Sự xuất hiện của Blob bắt đầu gây ra sự hỗn loạn khi nó ăn thịt nhiều người dân trong thị trấn. Nhân vật chính của phim là một chàng trai tên Brian (Kevin Dillon) và một cô gái tên Meg (Shawnee Smith). Hai người cùng nhau tìm cách khám phá nguồn gốc của Blob và tìm cách ngăn chặn sự tàn phá của nó trước khi nó nuốt chửng toàn bộ thị trấn. Họ phải đối mặt với sự hoài nghi từ chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng, trong khi cố gắng thuyết phục mọi người về mối nguy hiểm đang rình rập. Phim nổi bật với những cảnh hành động kịch tính và hiệu ứng đặc biệt ấn tượng, đặc biệt là những cảnh Blob nuốt chửng các nạn nhân. **The Blob** (1988) không chỉ mang đến sự hồi hộp mà còn có nhiều yếu tố châm biếm về xã hội, làm cho nó trở thành một tác phẩm thú vị trong thể loại kinh dị. -
Fargo (1996)
- 0 downloads
"Fargo" (1996) một trong những bộ phim trượt giải Oscar gây tiếc nuối nhất, bạn đã xem chưa? Một vài số liệu liệt kê trên chỉ để cảnh giác với một số khán giả, bởi có thể một là bạn sẽ thấy phim chẳng có gì hấp dẫn và khó cảm, hai là bạn sẽ thấy đây là một bộ phim hay tuyệt vời. Dù đã xem hoặc chưa xem, dù bạn thích hay không thích, thì Fargo vẫn cứ nằm trong danh sách các tác phẩm tâm lý hình sự vĩ đại nhất. Vậy thì, cứ hãy thử xem bộ phim này để biết lý do vì sao? Fargo mở đầu bằng dòng giới thiệu: "ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT. Những sự kiện trong phim xảy ra ở Minnesota vào năm 1987. Theo yêu cầu của những người còn sống, danh tính thật đã được thay đổi. Bên cạnh sự tôn trọng với người đã khuất, tất cả đều nguyên vẹn như đã từng xảy ra. FARGO. " Đọc những lời giới thiệu này bạn nghĩ đây sẽ là bộ phim như thế nào? Có thể, bạn đã có vài suy đoán cho riêng mình, dù là gì thì tất cả đều đang chờ bạn ở phía trước trong 98 phút của bộ phim, hãy cứ theo chiếc xe ô tô đưa bạn đến Fargo. Fargo là một thành phố hoàn toàn có thật tại Mỹ, và trong tiếng Anh phát âm "far go", tạm dịch "đi quá xa" như một sự "chơi chữ" của biên kịch Coen. Và câu chuyện phim thật sự đi quá xa, khi chỉ một âm mưu tưởng như đơn giản bỗng trở nên phức tạp, khi mọi chuyện trở nên phức tạp thì nó lại diễn ra hết sức đơn giản. Hãy xem đạo diễn nhà Coen đã kể lại câu chuyện của mình "bình thường" đến nỗi khán giả nghĩ rằng nó "bất bình thường" như thế nào trong Fargo. Sử dụng gần như "tạp nham" các yếu tố: từ tâm lý xã hội đến hình sự gay cấn, từ kịch tính giật gân đến lãng mạn, hài hước... Fargo không cầu kỳ trong sử dụng thủ pháp nghệ thuật điện ảnh, không trau chuốt cài cắm triết lý trong lời thoại, không đầu tư khai thác những góc máy sáng tạo để lột tả nội tâm nhân vật... Những tưởng đây sẽ là một bộ phim gay cấn với những pha hành động kịch tính đến ngộp thở, không kém gì những bộ phim hình sự như khán giả vẫn thường xem, nhưng diễn biến trong Fargo lại bình thường một cách ngạc nhiên. Đầu tiên là hình ảnh lực lượng cảnh sát trong Fargo điều tra án mạng mà như không, truy bắt tội phạm thì như chơi. Đặc biệt là nhân vật chính, nữ đội trưởng cảnh sát vác bụng bầu 7 tháng đi phá án, sau khi xem hiện trường án mạng, cô và đồng nghiệp vẫn thản nhiên uống cà phê sáng, đi lấy tin điều tra mà cứ như cuộc nói chuyện xã giao bình thường, đến lúc gặp sát thủ cũng chẳng phải vật lộn chiến đấu... Có lẽ sẽ chẳng có gì bất ngờ nếu những cảnh tội ác trong phim diễn ra trong hoảng loạn với ánh mắt sợ hãi cùng tiếng thét kinh hoàng của nạn nhân. Thật ra, tất cả những chi tiết như thế chỉ có trên phim, do biên kịch, đạo diễn, diễn viên dàn dựng, hư cấu lên mà thôi. Nhưng ở Fargo thì ngược lại, mọi thứ diễn ra như chẳng phải là phim, diễn biến hành động xảy ra rất nhanh gọn, cách họ giết người cứ nhẹ như không một chút mảy may, do dự, hay sám hối, thậm chí nhiều tình huống đôi khi thật nực cười... Và chúng ta nhận ra: cuộc đời thực không gay cấn như trên phim, nó lạnh lùng như tuyết phủ ở Fargo. Có khán giả nào sau khi xem thắc mắc tự hỏi tại sao nhân vật chính trong Fargo lại là một nữ cảnh sát trưởng đang mang thai nhưng vẫn tham gia phá án? Cô sắp làm mẹ, ở thời kỳ cần sự nghỉ ngơi, thư giãn, nghe nhạc cổ điển, đọc truyện cổ tích và nghĩ về những điều tốt đẹp với một mong muốn một cuộc sống hạnh phúc sẽ đến với đứa con sắp chào đời. Thế nhưng cô vẫn phải đối mặt với cái ác, như một điều bình thường xảy ra trong cuộc sống. Có là cường điệu quá không nếu đây chính là hình ảnh của công lý, luật pháp được thể hiện đầy mỉa mai trong nhân vật người phụ nữ thô kệch nhưng thông minh, vụng về nhưng bình tĩnh và vô cùng mẫn cán trong công việc? Đó là chi tiết rất bình thường nhưng lại đem đến cho khán giả ấn tượng bất ngờ, là sau khi bắn hạ tội phạm và trên đường áp giải phạm nhân, nữ cảnh sát thản nhiên với một thái độ thờ ơ, khinh thường hành động kinh tởm của hắn: “Để làm gì hả? Cho một dúm tiền sao. Còn nhiều điều ý nghĩa cho cuộc sống này hơn thế. Anh không hiểu sao? Anh xem này… một ngày trời thật đẹp. Tôi thật không hiểu nổi." Cái ác và những điều xấu xa không thể phá hủy cuộc sống gia đình hạnh phúc của cô với người chồng luôn yêu thương, chăm sóc, cùng đứa con sắp ra đời. Và đừng quá bận tâm tới cái ác xuất hiện đều đặn trên bản tin trên truyền hình, đừng quá lo lắng tới những gì đã xảy ra, hãy bình thường và tận hưởng một ngày tốt đẹp bên người bạn yêu thương. Tội ác ư, không thể làm chúng ta run sợ, cuộc sống sẽ vẫn tiếp diễn. Bao trùm lên khung cảnh của Fargo là nền tuyết trắng. Cứ nghĩ trong cái màu trắng lạnh lùng ấy có thể che giấu những âm mưu đen tối, những hành động xấu xa, nhưng tuyết sẽ tan và sự thật sẽ bị phơi bày. Ở Fargo con người lạnh giá như tuyết phủ mùa đông. Hai kẻ phạm tội thản nhiên giết người nhanh gọn lẹ không một chút hoảng sợ, do dự hay mặc cảm tội lỗi, hay vì một mục đích gì kinh khủng. Tất cả vì tiền, vì những người bị giết hại là vật cản trên đường của chúng. Chỉ có vậy, chẳng vì trả thù, chẳng vì một món tiền gì quá lớn. Hai viên cảnh sát đến hiện trường vụ án, mà vẫn thoải mái trò chuyện, vừa xem tử thi vừa uống cà phê,... Thái độ "tưng tửng" trước cái ác dường như là cảm xúc của con người hiện đại, khi đồng tiền và lợi ích cá nhân được con người ta coi trọng hơn là tính mạng con người, thậm chí là cả người thân của họ. Người ta cứ bắn giết không một chút đắn đo, người ta cũng thản nhiên đưa người thân vào mưu đồ chỉ vì tiền và mọi chuyện cứ thản nhiên diễn ra ngoài đời thực, không chỉ ở thị trấn Fargo, ở Mỹ, mà có có thể xảy ra ở bất kỳ đâu. Dù có nhiều chi tiết hình sự, nhưng Fargo cũng mang nội dung tâm lý xã hội. Đó là hoàn cảnh đối lập giữa hai người chồng trong phim: một kẻ hám lợi, sẵn sàng biến vợ thành "con mồi" để kiếm tiền, và ngược lại là nhân vật người chồng nữ cảnh sát trưởng hết mực yêu thương vợ. Bằng những hành động rất đơn giản: Khi vợ phải đi làm sớm, anh chuẩn bị bữa sáng, đến giờ trưa thì mang đồ đến tận văn phòng và ăn cùng cô, không màu mè trong cách thể hiện một anh chồng phải làm những điều gì to tát lắm, mà đó chỉ là những hành động rất nhỏ bé, nhưng lại toát lên một tình yêu giản dị và chân thành. Rồi ở đoạn kết, sau khi nhân vật người vợ nữ cảnh sát trưởng lập chiến công bắt được kẻ giết người, không như mô tuýp của hầu hết những bộ phim mà chúng ta vẫn từng xem sẽ là những màn bình luận tung hô của phóng viên, truyền hình, trong Fargo thì "bất thường" một cách bình thường, viên nữ cảnh sát vẫn thản nhiên leo lên giường nằm xem TV cùng chồng, khán giả tưởng rằng cả 2 sẽ bàn luận gì đó về vụ án, nhưng họ lại trò chuyện về những điều rất đời thường về thú vui chơi tem của anh chồng. Và rồi viên nữ cảnh sát nói: “Em rất tự hào về anh“. Dù ngoài xã hội, người vợ có làm những điều gì to tát, thì khi trở về nhà cô vẫn là một người phụ nữ giản dị, bé nhỏ trong vòng tay chăm sóc của người chồng. Fargo kết thúc bằng câu nói: "2 tháng nữa thôi... Ừ, 2 tháng nữa...". Đó là thời gian đứa con trong bụng của nữ cảnh sát trưởng sẽ ra đời. Và khi đó tuyết sẽ tan, chiếc vali đựng tiền được chôn trong tuyết sẽ lộ ra, nhưng bộ phim không cho khán giả biết số phận của chiếc vali tiền đó sẽ thế nào. Nhật Bản cũng có bộ phim mang tên "Kumiko, the Treasure Hunter" cũng dựa trên một câu chuyện có thật về một người phụ nữ đã từ bỏ tất cả cuộc sống cũng như công việc của mình để tìm kiếm chiếc vali đựng đầy tiền do nhân vật Carl Showalter cất giấu trong bộ phim Fargo (1996). Có lẽ thành công của Fargo chính là anh em đạo diễn Coen đã biến phim không còn là phim nữa, mà nó chính xác là một câu chuyện có thật, tất cả đều nguyên vẹn như đã từng xảy ra trong cuộc cống và cuộc sống được lưu lại nguyên vẹn trên phim. Đâu là thật... đâu là hư cấu... hay những điều hư cấu lại là thật. Anh em đạo diễn nhà Coen đã tạo ấn tượng cho Fargo bằng phong cách làm phim "như thường" nhưng "bất thường”. Không ai có thể chắc chắn bởi cuộc sống như là một bộ phim có thật luôn có thể xảy ra bất cứ tình huống nào khiến con người ta không thể lường trước. Và Fargo đã thực sự mang đến cho khán giả một câu chuyện có thật, với những cảm xúc thật. -
eXistenZ (1999)
- 0 downloads
Allegra là một trong những nhà thiết kế trò chơi điện tử hàng đầu trên toàn thế giới. Cô và các cộng sự đang cùng nhau kiểm tra lại trò chơi thực tế ảo mới nhất trước khi chính thức tung ra thị trường. Trong trò chơi thực tế mang tên eXistenZ, người chơi phải gắn một thiết bị điều khiển vào sống lưng của mình để các tín hiệu có thể kết nối trực tiếp lên não. Bằng cách đó, họ sẽ được trải qua những sự kiện trong trò chơi với đầy đủ những cảm xúc hệt như một người trong cuộc. Khi Allegra đang đắm mình trong trò chơi thì một kẻ lạ mặt từ hàng ghế khán giả đã bất ngờ xuất hiện trên sân khấu và nã đạn ám sát Allegra. -
Cemetery Man (1994)
- 0 downloads
Cemetery Man (tựa gốc: Dellamorte Dellamore, 1994) là một bộ phim kinh dị hài hước của đạo diễn Michele Soavi, dựa trên tiểu thuyết "Dellamorte Dellamore" của Tiziano Sclavi. Phim mang đậm phong cách gothic và thường được xem là một tác phẩm cult. Nội dung phim xoay quanh nhân vật Francesco Dellamorte (do Rupert Everett thủ vai), một người quản lý nghĩa trang nhỏ ở một thị trấn hẻo lánh. Công việc của anh không chỉ là chôn cất người chết, mà còn phải đối mặt với tình trạng những xác chết thường xuyên sống lại và trở thành zombie. Điều này đã tạo ra nhiều tình huống dở khóc dở cười và bi kịch trong cuộc sống của Francesco. Francesco sống trong sự cô đơn và cảm thấy chán chường với cuộc sống. Anh có mối tình phức tạp với một người phụ nữ tên là She, nhưng những mối quan hệ của anh thường bị gián đoạn bởi các sự kiện kỳ quái liên quan đến những xác chết sống lại. Phim khám phá những chủ đề về tình yêu, cái chết và sự tồn tại, đồng thời mang đến những hình ảnh và tình huống thú vị, đen tối. Phim được đánh giá cao về mặt hình ảnh và cách kể chuyện độc đáo, cùng với sự kết hợp giữa yếu tố hài hước và kinh dị, đã tạo ra một tác phẩm gây ấn tượng trong thể loại này. -
Aquaman (2018)
- 0 downloads
Là tập phim thứ sáu trong Vũ trụ Điện ảnh DC, Aquaman xoay quanh hành trình của Arthur Curry (Jason Momoa đóng) - con trai một người đàn ông bình thường và nữ hoàng đại dương Atlanna (Nicole Kidman thể hiện). Anh có siêu sức mạnh, khả năng giao tiếp các sinh vật biển và trở thành người hùng Aquaman. Trở về sau cuộc chiến trong Justice League, Aquaman đối mặt những rắc rối mới. Phẫn nộ khi con người gây ô nhiễm đại dương, vua Orm (Patrick Wilson đóng) - người em cùng mẹ khác cha với anh - chuẩn bị huy động đại quân Atlantis tấn công thế giới mặt đất. Khi chiến tranh gần kề, Arthur phải đi tìm một chiếc đinh ba thần để thống nhất đại dương và ngăn chặn Orm. Việc lựa chọn James Wan làm đạo diễn cho Aquaman là một "nước cờ" thông minh của DC. Trước đó, nhà làm phim gốc Malaysia nổi tiếng qua các loạt phim kinh dị ăn khách như Saw hay Vũ trụ Điện ảnh Conjuring. Bom tấn đầu tiên của anh là Fast & Furious 7 (2015) là một trong những tác phẩm ăn khách nhất mọi thời (thu hơn 1,5 tỷ USD). Hầu hết diễn biến chính của bom tấn 160 triệu USD xảy ra dưới nước. Với Aquaman, đạo diễn gốc Malaysia tạo nên một thế giới dưới lòng đại dương huyền ảo, gây choáng ngợp cho người xem. Từng chi tiết về thế giới biển đều được làm rất kỹ lưỡng, bao gồm các loài sinh vật kỳ lạ đến bảy vương quốc dưới lòng đại dương. James Wan khéo léo kết hợp các yếu tố hiện đại lẫn những chi tiết dựa trên truyền thuyết cho phần thiết kế. Khán giả được chiêm ngưỡng nhiều hình ảnh đẹp, từ những kiến trúc khổng lồ gợi nhớ thần thoại Hy Lạp đến các tàu ngầm di chuyển trong nước giống phi thuyền không gian. Người Atlantis dùng các sinh vật biển làm vật cưỡi, tạo ra hình ảnh tương tự các kỵ sĩ thời Trung cổ. Nhóm nhân vật cũng có vũ khí đa dạng, từ đinh ba đến các súng hạng nặng. Tác phẩm mang phong cách phim sử thi thần thoại với nhiều cảnh phô diễn độ rộng lớn của không gian, hàng nghìn quân giao chiến và các nhân vật thường xuất hiện trong giáp trụ. Aquaman là một trong số ít tác phẩm gần đây có hiệu ứng 3D tốt, tương tác nhiều với người xem ở góc quay hay chiều sâu của hình ảnh. Các màn chiến đấu đối kháng giữa các nhân vật trong phim được làm kịch tính, có nhiều góc cho thấy độ sâu của hình ảnh ba chiều. Ở một số cảnh dưới biển, khi các loài sinh vật lạ phát sáng, phim gợi nhớ bom tấn Avatar của đạo diễn James Cameron. Tác phẩm quy tụ dàn diễn viên đình đám nổi trội về ngoại hình lẫn diễn xuất. Thủ vai chính là Jason Momoa - tài tử cao 1,93 m và có ngoại hình vạm vỡ. Trước phim này, anh mới tạo được dấu ấn qua vai Khal Drogo trong mùa đầu tiên của Game of Thrones. Tuy nhiên, Aquaman nhiều khả năng đưa Jason Momoa bước lên hàng ngũ sao lớn ở Hollywood. Dáng vẻ cao lớn, sức mạnh cơ bắp cũng như lối diễn xuất qua ánh mắt của Jason phù hợp với hình ảnh của một người hùng thần thoại. Sánh đôi bên anh là mỹ nhân Amber Heard trong vai công chúa đại dương Mera. Người đẹp sinh năm 1986 có vẻ ngoài nóng bỏng và thường xuất hiện trong các trang phục khoe đường cong. Gây ấn tượng hơn cả trong dàn diễn viên là "thiên nga Australia" Nicole Kidman. Ở tuổi 51, minh tinh vẫn cho thấy sức hút của một ngôi sao hàng đầu Hollywood. Cô không có nhiều đất diễn trong Aquaman nhưng thường xuất hiện ở những cảnh quan trọng. Nữ diễn viên thu hút nhờ ngoại hình và lối diễn giàu cảm xúc - nhất là ở cao trào. Trong vai phản diện, Patrick Wilson - người nhiều năm gắn bó với James Wan qua các phim kinh dị - đóng tròn vai. Tuy nhiên, ở tuổi 45, anh trông hơi già để vào vai em trai nhân vật của Jason Momoa (39 tuổi). Sau nhiều phim bị giới phê bình chỉ trích, DC đặt nhiều tham vọng vào Aquaman. Tác phẩm có nhiều trích đoạn hành động hơn phần lớn phim của Vũ trụ Điện ảnh Marvel - hãng đối thủ. Kịch bản bổ sung nhiều tình huống hài - chủ yếu đến từ lối cư xử bất cần của nhân vật chính. Câu chuyện về cậu bé Pinocchio cũng được đưa vào để gây cười. Chuyện tình giữa Aquaman và Mera được đan cài tạo nhiều tình huống lãng mạn giữa các trận đánh. Hướng đến tiêu chí bom tấn giải trí, Aquaman xây dựng đường dây và tâm lý các nhân vật đơn giản. Đấu tranh nội tâm của nhân vật chính - xoay quanh cảm giác lưng chừng, không biết mình thuộc về thế giới trên cạn hay dưới nước - hơi mờ nhạt giữa loạt cảnh hành động. -
American Graffiti (1973)
- 0 downloads
American Graffiti (1973) là một bộ phim cổ điển do George Lucas đạo diễn, lấy bối cảnh vào cuối những năm 1960 tại Modesto, California. Phim xoay quanh một đêm cuối cùng của mùa hè, khi một nhóm thanh niên phải đối mặt với những quyết định quan trọng trước khi bước vào cuộc sống trưởng thành. Nội dung phim tập trung vào hai nhân vật chính: Curt (Richard Dreyfuss) và Steve (Ron Howard). Curt đang suy nghĩ về tương lai của mình và tìm kiếm một hướng đi mới, trong khi Steve sắp rời khỏi thị trấn để theo học đại học. Trong suốt đêm, họ cùng với bạn bè tham gia vào những hoạt động điển hình của thanh niên, như lái xe quanh phố, tham gia các buổi tiệc và gặp gỡ những cô gái. Phim khắc họa rõ nét văn hóa xe hơi, âm nhạc và lối sống của giới trẻ thời kỳ đó, với nhiều cảnh biểu diễn những chiếc xe cổ và những bản nhạc rock 'n' roll nổi tiếng. American Graffiti không chỉ mang lại cảm giác hoài niệm về thời kỳ đó mà còn khám phá những chủ đề như tình bạn, tình yêu và sự trưởng thành. Bộ phim đã nhận được nhiều lời khen ngợi và trở thành một tác phẩm kinh điển, mở đường cho nhiều bộ phim về thanh thiếu niên sau này. -
The Man Who Knew Too Much (1956)
- 0 downloads
The Man Who Knew Too Much (1956) là một bộ phim kinh dị và hành động do Alfred Hitchcock đạo diễn, là phiên bản làm lại của bộ phim cùng tên mà ông đã thực hiện vào năm 1934. Phim có sự tham gia của James Stewart và Doris Day. Nội dung phim xoay quanh một cặp vợ chồng, Ben và Jo McKenna, đang đi nghỉ ở Morocco cùng con trai của họ. Trong chuyến đi, họ tình cờ gặp một người đàn ông bị thương, người đã tiết lộ cho Ben một âm mưu ám sát chính trị. Tuy nhiên, khi con trai họ bị bắt cóc để giữ bí mật này, cặp đôi buộc phải dấn thân vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm để cứu con và ngăn chặn âm mưu ám sát. Phim khéo léo kết hợp yếu tố hồi hộp và kịch tính, thể hiện rõ nét phong cách đặc trưng của Hitchcock. Âm nhạc cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là bài hát "Que Sera, Sera" do Doris Day thể hiện, trở thành một biểu tượng của bộ phim. Cuộc chiến giành lại con và giải mã âm mưu ám sát tạo ra một cốt truyện căng thẳng, khiến người xem không thể rời mắt. -
The Muppets Take Manhattan (1984)
- 0 downloads
The Muppets Take Manhattan (1984) là một bộ phim hài ca nhạc do Frank Oz đạo diễn, thuộc loạt phim về các nhân vật Muppet. Nội dung phim xoay quanh việc nhóm Muppets quyết định đến Manhattan để theo đuổi ước mơ làm kịch. Câu chuyện bắt đầu khi Kermit, Miss Piggy, và các Muppet khác tốt nghiệp từ trường nghệ thuật và muốn đưa vở kịch của họ đến Broadway. Họ đầy hy vọng và nhiệt huyết, nhưng khi đến Manhattan, mọi thứ không diễn ra như dự định. Họ gặp phải nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm một nhà sản xuất và phải đối mặt với những thử thách trong cuộc sống đô thị. Khi Kermit bị mất trí nhớ và không còn nhớ ai trong nhóm, Miss Piggy cùng các Muppet phải tìm cách đoàn tụ và hoàn thành giấc mơ của mình. Phim không chỉ mang lại tiếng cười mà còn chứa đựng thông điệp về tình bạn, sự đoàn kết và theo đuổi ước mơ. Âm nhạc trong phim rất phong phú, với nhiều bài hát nổi tiếng và màn trình diễn hài hước, tạo nên không khí vui tươi, đầy màu sắc. -
The Black Phone (2021)
- 0 downloads
Phim điện ảnh 'The Black Phone' mang lại cho khán giả cảm xúc hồi hộp, run sợ khi cùng nhân vật chính thoát khỏi tên sát nhân hàng loạt. The Black Phone (Điện thoại đen) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên do con trai "ông hoàng tiểu thuyết kinh dị" Stephen King – Joe Hill sáng tác. Phim xoay quanh nhân vật chính là cậu bé nhút nhát Finney và cô em gái Gwen sống cùng bố trong một thị trấn nhỏ thuộc Bắc Denver, Mỹ năm 1978. Lúc này, trong khu vực xảy ra hàng loạt vụ trẻ em mất tích bí ẩn. Giới chức trách cho rằng người đứng sau toàn bộ sự việc là một nhân vật được đặt mật danh Kẻ Bắt Cóc, song vẫn không thể tìm ra danh tính cũng như bước đi của hắn. Sau khi bạn bè xung quanh Finney lần lượt biến mất, cậu chính là nạn nhân tiếp theo của Kẻ Bắt Cóc. Lúc bị nhốt trong căn hầm cách âm của gã, Finney nhận được những cuộc gọi bí ẩn từ các nạn nhân trước của hắn thông qua chiếc điện thoại đen đã đứt cáp trong buồng. Đó là chìa khóa giúp Finney thoát khỏi căn hầm đen tối. Cùng lúc đó, trong thị trấn, bằng năng lực tâm linh của mình, cô em gái Gwen đang phối hợp với cơ quan điều tra để giải cứu anh trai mình. Được định danh là phim kinh dị nhưng The Black Phone lại là tác phẩm tổng hòa của nhiều thể loại. Mở đầu, phim giới thiệu đến khán giả hoàn cảnh sống của các nhân vật và môi trường học đường tại Mỹ những năm 1970, mang đậm màu sắc của các tác phẩm về tuổi trưởng thành (coming-of-age). Sau đó, khi biến cố đầu tiên xảy ra, bộ phim rẽ hướng sang thể loại trinh thám (crime, mystery). Bên cạnh những cuộc gọi mang đậm tính siêu nhiên (supernatural) là hành trình sinh tồn trong căn hầm tối của Finney (survival). Cuối cùng, tinh thần của thể loại giật gân (thriller) bật lên với màn mèo vờn chuột giữa Kẻ Bắt Cóc và Finney khiến người xem nghẹt thở. Dù vậy, bộ phim không bị biến thành một "nồi lẩu thập cẩm" tạp nham và hời hợt. Trong 102 phút, thời gian dành cho từng thể loại được phân bố một cách hợp lý, vừa vặn. The Black Phone khai thác nỗi sợ của khán giả thông qua nội dung câu chuyện và không khí bộ phim hơn là lạm dụng các pha hù dọa. Những màn jump scare được tiết chế nhưng vẫn tạo được hiệu quả. Từ đầu, các nhà làm phim dành phần lớn thời lượng để xây dựng bối cảnh, thiết lập câu chuyện. Cách làm này khiến mạch phim trở nên chậm nhưng lại có tác dụng tích lũy và bồi đắp cảm giác sợ hãi nơi người xem. Ngoài ra, đây cũng là thời lượng đủ để tác phẩm giới thiệu nhân vật chính, tạo nên sự gắn kết giữa nhân vật và khán giả. Khi mối quan hệ đã đủ vững, biến cố xảy ra, bộ phim đạt được hiệu quả cao khi chơi đùa với sự lo lắng của người xem dành cho nhân vật chính. Ở nhiều thời điểm, Finney hành động đúng với suy nghĩ của khán giả nhưng lại thất bại, khiến tia hy vọng vừa lóe lên lại vụt tắt. The Black Phone đánh dấu sự hợp tác trở lại của bộ ba đã tạo nên thành công cho bộ phim kinh dị Sinister từng nhận được nhiều lời khen từ giới phê bình: đạo diễn Scott Derrickson, biên kịch C. Robert Cargill và nam diễn viên Ethan Hawke. Ở lần tái hợp này, Ethan Hawke hóa thân thành Kẻ Bắt Cóc. Giấu gương mặt sau lớp mặt nạ xuyên suốt thời lượng phim, nam diễn viên gieo rắc nỗi sợ hãi cho khán giả bằng chuyển động hình thể linh hoạt, uyển chuyển cùng giọng nói man rợ, khiến người xem rợn người mỗi khi nhân vật này xuất hiện. Ethan Hawke đã biến Kẻ Bắt Cóc trở thành một trong những biểu tượng kinh dị mới của điện ảnh thế giới. Cộng hưởng với lối trình diễn của Ethan là màn chào sân điện ảnh ấn tượng của Mason Thames trong vai Finney. Giữ vai trò dẫn dắt bộ phim, Mason thể hiện tròn trịa hình ảnh một cậu bé nhút nhát, thường xuyên bị bạo hành nhưng vẫn mang nội lực phi thường khi chống trả Kẻ Bắt Cóc. Xuyên suốt tác phẩm, đôi mắt cậu luôn toát lên nỗi khát khao vượt lên số phận và khát vọng chiến thắng cái ác. Trong khi đó, Madeleine McGraw tạo được thiện cảm với người xem khi hóa thân thành cô em gái Gwen có cá tính mạnh. Trái với người anh Finney, Gwen bộc trực, luôn nêu lên quan điểm cá nhân và sẵn sàng bảo vệ anh mình trước những tên bắt nạt. Xây dựng nhân vật tốt kết hợp với màn tương tác chân thực giữa hai diễn viên nhí, The Black Phone khiến khán giả tin, yêu mến và lo lắng cho bộ đôi này, kể cả khi cả hai không xuất hiện cùng nhau. Ngoài ra, The Black Phone được đánh giá cao về âm thanh và thiết kế sản xuất. Hình ảnh cổ điển kết hợp với hiệu ứng âm thanh nặng, dồn dập tạo nên bầu không khí rùng rợn cho tác phẩm. Phim gợi nhắc nhiều tác phẩm kinh dị kinh điển của Mỹ ra mắt thập niên 1970. Không chỉ tái hiện chân thực hình ảnh nước Mỹ lên phim, The Black Phone còn kể lại câu chuyện và các vấn đề nhức nhối tồn tại trong lòng xứ sở cờ hoa lúc bấy giờ. Đó là giai đoạn những kẻ bắt cóc và sát nhân hàng loạt trở thành nỗi ám ảnh trong lòng nhiều người dân nước Mỹ. Hillside Strangler hay Son of Sam đều là những cái tên thường xuyên được kể lại và trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm điện ảnh, phim tài liệu đến tận ngày nay. Nhân vật Kẻ Bắt Cóc trong The Black Phone cũng mang dáng dấp của John Wayne Gacy, tên sát nhân từng gieo rắc nỗi kinh hoàng cho nhiều trẻ em và phụ huynh giai đoạn 1972-1978. Dù xuyên suốt The Black Phone tràn ngập hình ảnh bạo lực, đến cuối cùng bộ phim khép lại bằng những thông điệp tích cực, tươi sáng về tình cảm gia đình cũng như nỗ lực tìm kiếm sức mạnh và niềm tin của mỗi cá nhân ngay trong tình huống tuyệt vọng nhất. -
The Way We Were (1973)
- 0 downloads
Phim The Way We Were (Thuở ấy đôi mình) là một bộ phim tình yêu lãng mạn của đạo diễn Sydney Pollack, và được coi là một trong 100 bộ phim tình yêu vĩ đại nhất trong lịch sử điện ảnh Mỹ với vị trí thứ 6, và giải Oscar dành cho bộ phim có kịch bản hay nhất, nhạc phim hay nhất. Mời bạn cùng Mây xem qua review bộ phim này nhé! Thuở ấy đôi mình (tên gốc: The Way We Were) là một bộ phim tình cảm lãng mạn của Mỹ sản xuất vào năm 1973 của đạo diễn Sydney Pollack. Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết của tác giả Arthur Laurents. Trong phim, Barbra Streisand và Robert Redford thủ vai hai nhân vật chính. Câu chuyện tình của họ diễn ra trong bối cảnh sau Thế chiến II, trong thời kỳ McCarthyism, khi mà một cặp đôi với hai quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau tìm đến được với nhau, chỉ để nhận ra rằng tình bạn chân thành và sự hấp dẫn về mặt thể chất không đủ để vượt qua những niềm tin cơ bản của xã hội. Bộ phim không chỉ là một câu chuyện tình yêu, mà còn là một bài học về xã hội, về sự cần thiết của việc hiểu và tôn trọng những khác biệt. Mặc dù họ thật sự yêu thương và quan tâm đến nhau, nhưng cuối cùng, họ nhận ra rằng những khác biệt về quan điểm và giá trị cốt lõi của họ không thể hòa hợp. Phim The Way We Were đã nhận được nhiều đề cử và giải thưởng quan trọng. Đặc biệt, phim đã được đề cử giải Oscar cho quay phim xuất sắc nhất. Ngoài ra, bài hát chủ đề của phim cũng đã giành giải Oscar cho nhạc phim xuất sắc nhất. Phim không chỉ được đánh giá cao về mặt nghệ thuật mà còn được công chúng yêu mến, từ đó trở thành một trong những bộ phim lãng mạn nổi tiếng và ấn tượng nhất của điện ảnh Mỹ. Katie Morosky (Barbra Streisand), một sinh viên người Do Thái tràn đầy nhiệt huyết, luôn nỗ lực vì công bằng xã hội, gặp gỡ Hubbell Gardiner (Robert Redford), một chàng trai WASP (tức là người Mỹ gốc châu Âu, không theo đạo, có sống một cuộc sống thông thường và có gia đình địa vị xã hội) đầy quyến rũ, tài năng, sống thoải mái và tự do, chọn lựa con đường đầy hoa hồng mà không có gai góc. Họ là hai cực đối lập, với hai lối suy nghĩ, hai phong cách sống trái ngược nhau. Tuy nhiên, duyên phận đưa đẩy, họ gặp nhau lúc đang học đại học, nhưng cho đến cuối Thế chiến II, họ mới tái ngộ và dù mọi khác biệt rõ ràng, họ quyết định kết hôn. Hubbell muốn trở thành một biên kịch, vì vậy họ chuyển đến California dù Katie phản đối. Họ thịnh vượng ở đó, nhưng khi danh sách đen Hollywood xuất hiện, hoạt động chính trị của Katie đe dọa danh tiếng của mình. Điện ảnh Hollywood thập kỷ 1950 – giữa thời kỳ đen tối với danh sách đen Hollywood – đã gây ra rạn nứt trong cuộc sống và sự nghiệp của Hubbell. Katie không thể chấp nhận những thỏa hiệp mà Hubbell sẵn lòng – hoặc cần phải – thực hiện để tiếp tục sự nghiệp của mình. Lương tâm và hoạt động chính trị của Katie cũng khiến cô gặp rắc rối với cơ quan chức năng, cái dường như đã làm tổn thương Hubbell một cách nặng nề. Ở đây, những khác biệt giữa Katie và Hubbell không chỉ xoay quanh quan điểm chính trị mà còn là vấn đề về giá trị cá nhân và lựa chọn trong cuộc sống. Hubbell muốn sống một cuộc sống thoải mái và không rắc rối, ngược lại, Katie không thể từ bỏ sự nhiệt tình chính trị và lòng trung thành với những nguyên tắc của mình. Trong thời gian khó khăn này, mối tình giữa Katie và Hubbell đã trở nên căng thẳng và bất ổn đến nỗi họ phải đưa ra quyết định chia tay. Katie quay về New York và Hubbell tiếp tục chạy theo những giấc mơ của anh ấy ở California. Cuối phim, Katie và Hubbell tình cờ gặp nhau trên đường phố New York. Mặc dù họ nhớ về những ngày hạnh phúc trước đây, cả hai đều hiểu rằng quá khứ chỉ là quá khứ và họ phải tiếp tục cuộc sống của mình. Đây là một kết thúc thực sự cảm động cho một phim điện ảnh tuyệt vời về tình yêu, sự mất mát, và lịch sử của chúng ta. Cốt truyện của The Way We Were kết thúc ở đó nhưng những cái nhìn về mối quan hệ của Katie và Hubbell, về xã hội và lịch sử Mỹ không kết thúc. Phim đã để lại những bài học mạnh mẽ về tình yêu, lòng trung thành, và cách chúng ta đối diện với sự khác biệt. Chiến tranh thế giới thứ hai, chiến tranh lạnh và danh sách đen Hollywood là những khung lịch sử mà chúng ta không thể quên. Thời điểm phim diễn ra không chỉ là bối cảnh cho mối tình của Katie và Hubbell, mà còn minh chứng cho sự thay đổi lớn lao của xã hội Mỹ. Trong khi phần lớn phim tập trung vào một mối tình cá nhân, The Way We Were cũng là một bức tranh về lịch sử và xã hội Mỹ. Những khắc họa chân thực của cuộc sống sau chiến tranh, cuộc sống của người Mỹ Do Thái và người Mỹ trắng, các biến cố chính trị và xã hội như danh sách đen Hollywood, tất cả đều góp phần tạo nên sự độc đáo và không thể nào quên của The Way We Were. The Way We Were đầy những hồi ức và chia ly, những tiếng cười và giọt lệ, những lời yêu thương và oán hận. Mọi cung bậc cảm xúc đều được thể hiện qua những thước phim đầy cảm xúc. Tình yêu giữa Katie và Hubbell như một bản giao hưởng, đầy nỗi nhớ, sự bi thương và đau khổ, của hai con người sinh ra nhưng không dành cho nhau. Tình yêu là tất cả những gì họ có, nhưng thứ tình yêu đó không thể hòa hợp hai tính cách trái ngược và mang lại hạnh phúc. Họ mơ ước được ở bên nhau, nhưng họ lại không thể ngừng tổn thương, đau đớn nhau tới mức tuyệt vọng. Điều đó quá giống với cuộc sống, phải không? Tình yêu không phải là thứ chỉ cần cố gắng là có thể kéo dài mãi mãi. Ngoại trừ tình yêu và sự ngưỡng mộ dành cho nhau, Hubbell và Katie không bao giờ thực sự phù hợp với nhau. Ngay cả khi họ gặp lại nhau sau hàng chục năm xa cách, tình yêu vẫn còn đó, nhưng họ không thể trò chuyện được với nhau. Họ cảm thấy có nhiều điều phải nói với nhau, nhưng họ lại không thể cất lời. Mọi kỷ niệm, mọi điều từng có với nhau, ngay cả những lần làm tổn thương nhau, đều trở thành một phần ký ức dành cho nhau. Họ trân trọng, nhớ nhung về quãng thời gian đó. Nhưng để tiếp tục, họ đều không thể, và có lẽ họ cũng không cần thiết phải tiếp tục nữa. Đoạn đường chúng ta từng đi thực sự cần một ngã rẽ khác, và chúng ta đã rẽ về hai hướng hoàn toàn ngược nhau. Barbra Streisand và Robert Redford, hai diễn viên chính của bộ phim, là những ngôi sao trẻ tuổi vào thời điểm đó. Họ có sự kết hợp tuyệt vời, khiến câu chuyện tình yêu trở nên chân thực và gần gũi, chiếm được nhiều tình cảm của khán giả. The Way We Were đã khiến chúng ta cười, rồi khóc, tràn đầy niềm vui cũng như tiếc nuối. Bộ phim đã thành công ngoài sức tưởng tượng khi nhận được 6 đề cử tại giải Oscar 1974 và giành được 1 giải thưởng. Âm nhạc của phim cũng đã gặt hái nhiều thành công, với 23 tuần liên tiếp có mặt trên Billboard Hot 100 và thậm chí bán hết 1 triệu bản. Đây là một bộ phim không chỉ chạm đến trái tim của khán giả bởi câu chuyện tình yêu xúc động, mà còn bởi cái nhìn sâu sắc về lịch sử và xã hội của nước Mỹ những năm 1940s và 1950s. The Way We Were chắc chắn là một bộ phim đáng xem và trải nghiệm. The Way We Were là một bộ phim đáng nhớ, một bài học về tình yêu và cuộc sống, một hành trình đi tìm tình yêu đích thực. Nó đã khiến chúng ta cười, đã khiến chúng ta khóc, và dù cuộc sống có biến đổi như thế nào, tình yêu vẫn luôn là điều quý giá nhất. -
Videodrome (1983)
- 0 downloads
Bộ phim khoa học viễn tưởng của Canada với tên gọi Videodrome ra lò năm 1983 với đầy đủ các yếu tố kinh dị cơ thể được đạo diễn bởi David Cronenberg, cùng sự tham gia của các ngôi sao trẻ đang lên thời bấy giờ là James Woods và Debbie Harr. Bộ phim được lấy bối cảnh tại Canada vào những năm 80. Cốt truyện xoay quanh một Giám đốc điều hành kiêm Nhà sản xuất truyền hình có tên là Max Renn (do James Woods thủ vai) bỗng tình cờ phát hiện ra một kênh chương trình bí mật đầy mê hoặc có tên gọi là “Videodrome”, chuyên phát sóng những hình ảnh kỳ lạ đầy bạo lực và máu me. Sau đó, ông bị ám ảnh bởi việc tìm ra nguồn gốc của tín hiệu và quyết định tìm hiểu sự thật về nó. Sau khi lần theo những dấu vết, ông dần phát hiện ra đằng sau chương trình này là một âm mưu khủng khiếp nhằm kiểm soát tâm trí con người của một thế lực đen tối. Trong suốt thời gian đó, Max vẫn tồn tại những ảo giác ngày càng kỳ quái có tính chất bạo lực. Cốt truyện xoay quanh nhiều lớp lang có tác dụng gây… đau đầu và có khá nhiều cảnh cực kỳ đáng lo ngại. Videodrome được xem là một bộ phim siêu thực hiện đại với các yếu tố kỹ thuật, được gọi là “techno-surrealist”. Do đó, mặc dù Videodrome đã thu khá “hẻo” về mặt thương mại khi phát hành, nhưng lại nhận được hầu hết các đánh giá tích cực. Bộ phim thậm chí còn được tiểu thuyết hóa bởi nhà văn Dennis Etchison và một số đạo diễn thời nay đã bày tỏ quan tâm đến việc làm lại bộ phim khá kỳ quặc này. -
The Others (2001)
- 0 downloads
Những người yêu thể loại phim kinh dị hẳn sẽ không thể không nhắc tới “The Others”, tạm dịch là “Kẻ xâm nhập”, bộ phim của điện ảnh Hoa Kỳ do đạo diễn kiêm biên kịch có hai dòng máu Tây Ban Nha và Chilê, Alejandro Amenábar nhào nặn. Bộ phim ra đời vào năm 2001 thật sự gây chấn động giới phê bình lẫn khán giả trên toàn thế giới. Nó được liệt vào danh sách phim kinh dị hay nhất năm 2001 và thập niên 2000, đồng thời đạt doanh thu hơn 200 triệu USD, gấp 12 lần số vốn bỏ ra ban đầu. Không những thế, bộ phim còn gặt hái được vô vàn giải thưởng Điện ảnh danh giá, trong đó, phải kể đến giải “Phim hay nhất” tại mùa giải Goya lần thứ 16, trở thành tác phẩm hoàn toàn bằng tiếng Anh đầu tiên thắng giải này trong lịch sử giải thưởng điện ảnh Tây Ban Nha. Alejandro Amenábar thường đạo diễn các kịch bản do mình sáng tác, có lẽ vì thế mà hầu hết các tác phẩm của ông đều vô cùng thành công, mang những đặc điểm riêng khó lẫn, để lại trong lòng khán giả rất nhiều dấu ấn mạnh mẽ, mà “The others” là một ví dụ điển hình. Không phải thuộc kiểu kinh dị dọa người rẻ tiền, bộ phim là một tác phẩm nghệ thuật thực sự được nhiều nhà phê bình xếp vào hàng kinh điển. Nó là những khái niệm bất ngờ về cõi Âm - Dương, là những ẩn dụ sâu xa về cái chết và định nghĩa khác về những hồn ma. Thông qua bộ phim, cái cách mà Amenábar lý giải về hồn ma bỗng trở nên thấu đáo và ám ảnh kì lạ. Sự cô độc - sát thủ thầm lặng Truyện phim kể về Grace, một người phụ nữ Anh chuẩn mực, sống cùng hai con nhỏ là Anna và Nicolas trong tòa biệt thự cổ trên một hòn đảo hoang vắng của nước Anh vào những năm cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, khoảng năm 1945. Amenábar đã tạo nên một gia đình với biết bao những chi tiết có một không hai để chuẩn bị cho tất cả những kì bí xảy ra sau đó. Anna và Nicolas, hai con của Grace, bị một chứng bệnh lạ lùng, đó là dị dứng với ánh sáng mặt trời. Vì vậy mà Grace luôn phải giữ lũ trẻ trong bóng tối. Cô luôn có một chùm chìa khóa lớn ở bên mình, chỉ để mở và khóa cánh cửa của những phòng họ sẽ đi tới. Tất cả các cửa đã mở ra thì phải khóa lại ngay sau đó. Tất cả đều sinh hoạt dưới ánh đèn dầu tù mù, lúc nào cũng mờ ảo nửa sáng nửa tối như sắp xảy ra chuyện gì kinh khủng. Chồng của Grace tham gia chiến trận và đã bặt tăm từ lâu. Một mình cô ở trong ngôi biệt thự cũ kĩ, lạc lõng, cô độc với nỗi lo sợ các con sẽ bị tổn thương. Người đàn bà nào có thể chịu đựng nổi điều đó, một mình? Trong thế giới phim kinh dị, phụ nữ và trẻ em thường là mục tiêu của những thế lực hắc ám rình rập, đe dọa. Cũng vì thế, khi phái yếu là nhân vật chính thì người xem càng rùng mình sợ hãi và lo lắng cho họ, đặc biệt là trong hoàn cảnh mà Grace bị đặt vào, cô phải chiến đấu trong đơn độc. Vừa phải chăm sóc gia đình, vừa nhớ chồng da diết, băn khoăn về sự biến mất của anh … Grace mệt mỏi, căng thẳng, kiệt quệ cả về thể xác lẫn tinh thần. Đó là tất cả những gì Amenábar đặt ra để cho câu chuyện chính của phim bắt đầu. Những vị khách không mời Truyện phim trở nên đáng xem hơn khi ba người giúp việc mới xuất hiện vào một buổi sáng sương mù dày đặc. Họ mang theo những bí mật và những hành động khó hiểu khiến Grace dấy lên nghi ngờ. Cùng lúc này, nhiều hiện tượng kì lạ xảy ra. Anna vẽ ra bức tranh gồm bốn người, một người đàn ông, một người đàn bà, một cậu bé tên là Victor và một bà già mù. Cô bé khẳng định nhìn thấy tất cả họ trong nhà và Victor luôn tranh giành phòng với mình. Grace không chấp nhận những câu chuyện ấy và hăm dọa con hãy dừng nói dối. Hai mẹ con bỗng chốc có mâu thuẫn gay gắt, cùng với cơn đau nửa đầu khủng khiếp, Grace luôn cau có với Anna một cách vô lí. Thế nhưng, tiếng dương cầm vang lên trong căn phòng trống trải do chính tay Grace đã khóa kín khiến cô cảm thấy vô cùng sợ hãi. Bản thân Grace cũng có lúc nhìn thấy bà già mù ẩn hiện trên gương mặt của Anna. Cô giằng giật bà ta, bắt phải trả lại con gái cho mình nhưng hóa ra cô lại đang dày vò chính Anna và làm cho cô bé bị thương. Grace bắt đầu tin vào việc ngôi nhà không chí có mình họ. Những hiện tượng ghê rợn, những tiếng bước chân và giọng nói của những kẻ lạ mặt trong căn biệt thự cũ quá nhiều phòng trống, lời kể của bé Anna về những nhân vật đáng sợ, những hành động quái gở của ba người giúp việc … Tất cả đã khiến cho bộ phim được bao trùm bởi bầu không khí kinh dị đến dựng tóc gáy. Tài tình là, tác giả kịch bản kiêm đạo diễn Amenábar đã liên tục tạo nên những chi tiết làm cho khán giả tin rằng sự bí ẩn và hiểm nguy với ba mẹ con đến từ ba người giúp việc mới. Một bà trông trẻ kiêm quản gia nghiêm nghị, một ông già làm vườn lúc nào cũng lừ lừ và một cô giúp việc nhà bị câm thường xuyên trao đổi với nhau những lời thoại khó hiểu. Đến lúc ông già làm vườn che giấu những tấm bia mộ trong vườn và bị Anna cùng Nicolas phát hiện đó chính là bia mộ của họ thì tất cả dường như vỡ bung ra. Chính Grace đã nhìn thấy bức ảnh chụp xác của họ trong cuốn sổ “chết chóc” mà cô tìm thấy trong kho ảnh cũ của biệt thự. Kẻ xâm nhập thật sự Cú twist kinh điển làm nên cái TẦM của tác phẩm điện ảnh đặc biệt này chính là nằm ở trường đoạn cuối của phim. Nó thay đổi hoàn toàn suy nghĩ và phán đoán của người xem ngay từ đầu, để rồi, người ta đã phải thốt lên “Alejandro Amenábar đủ kiên nhẫn để sáng tạo một không gian u ám và mộng mị, cùng với diễn xuất của Nicole Kidman, đã thành công trong việc thuyết phục chúng ta rằng cô là một người bình thường trước nhiều tình huống kinh khủng mà cô gặp phải”. Trường đoạn cuối này, khán giả như ngạt thở khi những chi tiết đáng sợ ngày càng dồn dập, để rồi hé lộ sự thật về thân phận tất cả các nhân vật khiến mọi thứ vỡ òa. Một buổi sáng, những tấm rèm cửa bỗng biến mất, Grace vô cùng hoảng sợ, lo lắng hai con của cô sẽ bị thiêu rụi bởi ánh nắng mặt trời nhưng bất ngờ là bọn trẻ không bị sao cả. Ba người giúp việc mới đã cho Grace biết sự thật họ là những hồn ma đã từng sống trong căn biệt thự này nhiều năm trước và Grace cùng hai con nhỏ cũng chính là những hồn ma. Vì quá căng thẳng bởi áp lực chăm sóc các con, một mình chịu đựng sự cô độc và quá nhung nhớ người chồng mất tích của mình, Grace đã giết hai con và tự sát bằng khẩu súng trường. Chính cô và các con mới là những hồn ma đang ám ảnh căn biệt thự, còn những người mà cô tưởng là thế lực đen tối kia lại chính là người đang sống, là chủ nhân mới ở đây. Grace ngỡ ngàng, đau khổ hồi tưởng lại chuyện đã xảy ra với mình và các con. Cũng lúc này, cô biết được chồng cô đã hi sinh ngoài chiến trận. “The others” có một cái kết có hậu với Grace khi mà lũ trẻ không còn trong cơ thể sống như trước nên chúng có thể vô tư đùa giỡn dưới ánh nắng mặt trời và những người chủ mới không thể đuổi Grace đi thì cũng dọn đi nơi khác. Đóng góp vào thành công tuyệt vời của tác phẩm, không thể không nhắc tới diễn xuất vô cùng tài tình của Nicole Kidman. Vai diễn này đã mang về cho cô giải Sao Thổ cho “nữ diễn viên chính xuất sắc nhất”, một đề cử giải Quả cầu vàng và một giải BAFTA cùng hạng mục. Nicole Kidman được ví như là điểm sáng lớn nhất của phim. Cô đã khắc họa sống động chân dung một phụ nữ Anh Quốc chuẩn mực, đẹp chỉn chu. Nét sắc sảo quý phái pha lẫn sự rụt rè vụng về và cố chấp thậm chí có phần điên rồ để bảo vệ các con khỏi hiểm nguy rình rập. Ngay cả những phút run rẩy, đôi môi luôn rung lên bần bật và đôi mắt to đầy cương quyết của cô cũng tạo nên ấn tượng khó phai về hình tượng một người Mẹ cô độc, đau khổ cùng cực đến mức tự tay hại chết các con và tự sát. Nỗi đau ấy có lẽ chính là thứ còn níu kéo họ ở lại trên dương thế, trụ lại trong căn nhà thân thương và khó có thể siêu thoát. “The others” hóa ra không chỉ là một bộ phim kinh dị về những hồn ma. Nó khiến ta nhận ra đôi khi chỉ cần chúng ta thay đổi góc nhìn thì bản chất sự việc mới được sáng tỏ. Thế giới người chết dường như không đáng sợ như ta vẫn nghĩ. Họ, những linh hồn ấy, cũng vẫn đầy những xúc cảm, những khát khao và hi vọng. Nỗi đau ở nơi dương thế vẫn còn ám ảnh họ, theo họ sang tận thế giới bên kia, như là một sợi dây vô hình níu giữ những vấn vương chưa có lời giải đáp.