Jump to content

Joker

Quản Trị
  • Joined

Everything posted by Joker

    • 0 downloads
    Rolling Thunder (1977) là một bộ phim hành động và tâm lý do John Flynn đạo diễn, với sự tham gia của William Devane và Tommy Lee Jones. Phim xoay quanh nhân vật Major Charles Rane (William Devane), một cựu chiến binh từ Việt Nam trở về nhà sau khi bị giam giữ. Khi trở về, Rane gặp lại gia đình và cố gắng tái hòa nhập với cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên, cuộc sống của anh nhanh chóng bị đảo lộn khi băng nhóm tội phạm xâm nhập vào nhà, giết hại vợ và con trai của anh, đồng thời cướp đi chiếc chiếc mề đay đặc biệt mà anh giữ. Quá đau khổ và tức giận, Rane quyết định trả thù. Anh liên kết với một người bạn cũ là Johnny (Tommy Lee Jones) để truy lùng những kẻ đã làm tổn thương gia đình mình. Cuộc chiến giữa Rane và băng nhóm tội phạm không chỉ là một hành trình báo thù, mà còn phản ánh những tác động tâm lý sâu sắc mà chiến tranh để lại cho những người lính. Phim mang đậm chất hành động với nhiều cảnh quay kịch tính, đồng thời khám phá những chủ đề về mất mát, sự tàn khốc của chiến tranh và nhu cầu báo thù. "Rolling Thunder" được đánh giá cao vì cách xây dựng nhân vật và những thông điệp sâu sắc về hậu quả của chiến tranh.
    • 0 downloads
    Vậy là đã 3 năm trôi qua kể từ khi Danny Ocean cùng 10 đồng đội tiến hành thành công vụ cướp tiền hoành tráng nhất trong lịch sử. Qua mặt quý ông Terry Benedict, "11 Tên Cướp Thế Kỷ" đã cuỗm đi 150 triệu USD tiền mặt từ một sòng bạc ở Las Vegas. Vừa tức vì bị mất tiền, vừa giận vì bị hạ nhục, Terry quyết truy tìm 11 kẻ lừa đảo nhằm rửa mối hận này và đòi cả phần lãi sau ngần ấy năm. Ocean và bạn bè chỉ có 12 ngày để kiếm đủ tiền để trả cho Terry. Lần này nhóm Ocean tái xuất giang hồ và nhắm đến mục tiêu mới, viên kim cương trị giá hàng triệu USD đang được trưng bày tại viện bảo tàng Amsterdam. Đây quả là một thử thách lớn với họ, bởi nhóm vừa phải tìm cách qua mặt lực lượng an ninh bảo vệ, vốn được cảnh sát quốc tế hỗ trợ, vừa phải đối đầu với tên siêu trộm tài ba nhất châu Âu Night Fox. Câu chuyện trở nên rắc rối hơn khi chính kẻ thách thức ngạo mạn này đang nằm trong tầm ngắm của Isabel Lahiri cô bồ cũ của Rusty Ryan. Càng kịch tính hơn khi lần lượt từng thành viên trong nhóm bị cảnh sát và đàn em của Night Fox bắt nhốt. Liệu Ocean và bạn bè có thoát khỏi vòng vây dày đặc? Liệu họ có tiếp tục trở thành những tên trộm thành công nhất thời đại? Hãy tìm câu trả lời cho chính mình sau hơn 2 tiếng phiêu lưu cùng nhóm trộm Ocean
    • 0 downloads
    Ocean's Thirteen (2007) là phần ba trong loạt phim Ocean's, do Steven Soderbergh đạo diễn. Phim tiếp tục theo chân nhóm trộm cắp do Danny Ocean (George Clooney) lãnh đạo. Nội dung chính của phim xoay quanh việc nhóm của Danny Ocean quyết định trả thù Willy Bank (Al Pacino), một ông trùm casino đã lừa dối Reuben Tishkoff (Elliott Gould), một thành viên trong nhóm. Sau khi Reuben bị đột quỵ vì căng thẳng từ việc mất một khoản tiền lớn, Danny và các cộng sự lên kế hoạch phá hoại lễ khai trương của casino mới mà Willy đang đầu tư. Nhóm của Ocean thực hiện một loạt các kế hoạch tinh vi để gây rối và khiến Willy thất bại. Họ không chỉ phải đối phó với hệ thống an ninh chặt chẽ mà còn phải xử lý những xung đột nội bộ và những rắc rối bất ngờ. Phim mang đậm tính giải trí với nhiều tình tiết hài hước, những màn lừa đảo thông minh và sự tương tác thú vị giữa các nhân vật. Với dàn diễn viên đình đám và phong cách trình bày đặc trưng, Ocean's Thirteen tiếp tục thu hút khán giả với những bất ngờ và cái kết hài lòng.
    • 0 downloads
    Major League là một bộ phim hài thể thao phát hành năm 1989, do David S. Ward đạo diễn. Phim xoay quanh một đội bóng chày chuyên nghiệp có tên là Cleveland Indians, được mô tả là một đội bóng kém cỏi và có nhiều vấn đề. Nội dung chính của phim bắt đầu khi đội bóng được chuyển giao cho một chủ sở hữu mới, Rachel Phelps (Margaret Whitton), người có ý định khiến đội thất bại để có thể chuyển đến một thành phố khác. Tuy nhiên, các cầu thủ, bao gồm những nhân vật độc đáo như Jake Taylor (Tom Berenger), Willie Mays Hayes (Omar Epps), và Pedro Cerrano (Dennis Haysbert), quyết tâm chứng minh khả năng của họ. Trong suốt mùa giải, đội bóng gặp rất nhiều thử thách, nhưng dần dần họ bắt đầu cải thiện và trở nên mạnh mẽ hơn. Những tình huống hài hước và các mối quan hệ giữa các cầu thủ được khắc họa sinh động, mang đến cho người xem những khoảnh khắc thú vị và cảm động. Phim không chỉ đơn thuần là một bộ phim thể thao, mà còn là một câu chuyện về sự kiên trì, tình bạn, và việc vượt qua những khó khăn để đạt được mục tiêu. Phim đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại hài thể thao và được yêu thích bởi nhiều thế hệ khán giả.
    • 0 downloads
    True Lies là bộ phim hành động hoành tráng kể về một điệp viên có tên Harry Tasker (Arnold Schwarzenegger) ẩn mình dưới lớp vỏ bọc thường ngày là nhân viên bán máy vi tính. Dưới vỏ bọc này, anh đã thực hiện thành công nhiều nhiệm vụ mà vẫn giữ được bí mật với gia đình mình trong suốt 16 năm. Tuy vậy, do điều kiện công việc, Harry không thể dành sự quan tâm, chăm sóc cho gia đình nhỏ bé của mình, cụ thể là người vợ và đứa con gái ngỗ ngược đang ở độ tuổi dậy thì. Đến một ngày, Harry phát hiện ra vợ mình có dấu hiệu ngoại tình. Anh lên kế hoạch để cứu vãn hạnh phúc gia đình. Và mọi chuyện bi hài bắt đầu khi bọn khủng bố bắt cóc anh và vợ anh. Lúc này anh phải vừa đấu tranh chống lại âm mưu tàn độc của bọn khủng bố, vừa phải bảo vệ gia đình thân yêu của mình. Harry đến văn phòng của Helen để mời cô đi ăn, nhưng tình cờ nghe được cô đang bí mật đi gặp một người tên là Simon. Nghi ngờ Helen ngoại tình, Harry sử dụng nguồn lực của Omega Sector để biết rằng Simon là một nhân viên bán xe cũ, người thường giả danh điệp viên bí mật để quyến rũ phụ nữ. Harry và các đặc vụ Omega khác bắt cóc Helen và Simon. Sau khi khiến Simon sợ hãi phải tránh xa Helen, Harry và Gib thẩm vấn cô bằng thiết bị che giấu giọng nói. Họ biết được rằng cô đang phải chịu đựng khủng hoảng tuổi trung niên và đang tìm kiếm sự "phiêu lưu mạo hiểm" trong cuộc sống. Do đó, Harry sắp xếp để Helen thực hiện một nhiệm vụ điệp viên được dàn dựng, mà cô sẽ quyến rũ một nhân vật bí ẩn, thực ra là Harry, và đặt một thiết bị vào phòng khách sạn của anh. Thuộc hạ của tên khủng bố Salim Abu Aziz xông vào bắt cóc hai vợ chồng và đưa họ đến một hòn đảo ở Florida Keys. Trên đảo, Harry biết được tổ chức Crimson Jihad đã trả tiền cho Juno Skinner để ả giúp chúng vận chuyển bốn đầu đạn hạt nhân MIRV bằng cách giấu chúng trong những bức tượng cổ. Aziz yêu cầu Hoa Kỳ rút quân đội khỏi Vịnh Ba Tư, nếu không hắn sẽ cho nổ một đầu đạn tại một thành phố lớn của Hoa Kỳ. Hắn cũng sẽ cho nổ một đầu đạn trên hòn đảo hoang để chứng minh sức mạnh hạt nhân của Crimson Jihad. Trước khi bị tra tấn cùng Helen, Harry được tiêm huyết thanh sự thật và thú nhận cuộc sống kép của mình với vợ. Họ trốn thoát và biết rằng một đầu đạn sẽ phát nổ sau 90 phút trong khi những đầu đạn khác được chất lên các xe để đưa vào Hoa Kỳ qua Đường cao tốc Overseas, qua mặt Hải quan Hoa Kỳ. Trong trận hỗn chiến sau đó, Harry và Helen tiêu diệt hầu hết bọn khủng bố, trong khi Aziz trốn thoát với một đầu đạn trên một chiếc trực thăng. Helen bị Juno bắt và đưa lên chiếc limousine đi theo đoàn xe. Gib và các đặc vụ Omega khác đến đón Harry. Họ gọi hai máy bay phản lực của quân đội để đánh chặn đoàn xe bằng cách phá hủy một phần của Cầu Bảy dặm. Harry giải cứu Helen khỏi chiếc limo trước khi nó lao ra khỏi đường cao tốc, giết chết Juno. Đầu đạn còn sót lại trên đảo hoang phát nổ mà không giết chết ai. Harry phát hiện ra rằng Aziz đang giữ Dana làm con tin trong một tòa nhà chọc trời ở Miami và đang đe dọa cho nổ đầu đạn cuối cùng của chúng. Harry lái một chiếc máy bay phản lực để giải cứu con gái. Faisil vào tòa nhà bằng cách đóng giả phóng viên. Khi Faisil giết một số thuộc hạ của Aziz, Dana đã đánh cắp chìa khóa điều khiển đầu đạn và chạy lên mái nhà, cuối cùng leo lên cần trục tháp. Aziz đuổi theo và suýt bắt được cô bé trước khi Harry đến. Harry giải cứu Dana, và sau một cuộc vật lộn với Aziz, anh đã khiến hắn vướng vào quả tên lửa của máy bay, mà Harry bắn nó vào một chiếc trực thăng của bọn khủng bố, giết chết Aziz và tàn quân của Crimson Jihad. Harry, Helen và Dana được đoàn tụ an toàn. Một năm sau, Harry và Helen cùng làm việc với tư cách là đặc vụ Omega. Khi đang làm nhiệm vụ tại một bữa tiệc, họ gặp Simon, người đang làm bồi bàn và lại giả danh điệp viên. Simon sợ hãi bỏ chạy sau khi hai vợ chồng lộ diện và đe dọa giết anh ta. Harry và Helen khiêu vũ trong khi chờ đợi người liên lạc của họ, và Gib cầu xin họ hãy nghiêm túc thực hiện công việc của mình.
    • 0 downloads
    Kể từ bộ phim đầu tiên “Iron Man” (2008) cho tới nay, loạt phim Marvel Cinematic Universe (Vũ trụ điện ảnh Marvel - MCU) đã có tổng cộng 13 tập phim. Tổng doanh thu của 13 bộ phim kể trên là 10,2 tỷ USD và giúp MCU trở thành loạt phim có doanh thu cao nhất lịch sử điện ảnh. Tám năm với bao đổi thay nhưng thành công của MCU là bất biến, nhờ một kế hoạch đường dài được tính toán cẩn thận và không ngừng làm mới mình. Bộ phim thứ 14 mang tên “Doctor Strange” (tựa Việt là Phù Thủy Tối Thượng) tiếp tục nối dài chuỗi thành công của MCU. Người hùng mới Stephen Strange Sau khi giới thiệu cho khán giả những nhân vật từ truyện tranh của Marvel Comics như "Iron Man," "Captain America" hay "Thor"..., Marvel Studios tiếp tục cho trình làng một người hùng mới là Stephen Strange (Benedict Cumberbatch thủ vai). Strange là một bác sỹ giải phẫu thần kinh ngoại hạng tại New York, với đôi bàn tay tài hoa có thể cứu được cả những bệnh nhân thập tử nhất sinh. Tài năng hơn người ấy của Strange khiến anh sở hữu một cái tôi cao vời vợi, và hiếm ai có thể chịu đựng được tính cách ấy của Strange như nữ đồng nghiệp Palmer (Rachel McAdams). Biến cố đến với vị bác sỹ thiên tài này một cách đột ngột khi anh bất ngờ gặp tai nạn ôtô. Dù mạng sống của Strange đã được cứu nhưng y học hiện đại đã không thể chữa lành được đôi bàn tay đã chịu quá nhiều tổn thương của anh. Với một bác sỹ giải phẫu lấy việc mổ những ca khó làm lẽ sống, việc không thể một lần nữa cầm dao mổ khiến Strange cảm thấy u uất và tiêu tốn cả gia sản để tìm cách chữa lành. Khi mà y học phương Tây đã “bó tay,” Strange đành tìm tới những liệu pháp thần bí của phương Đông. Theo lời của một bệnh nhân từng bị liệt nhưng nay đã lành lặn một cách kỳ diệu, Strange lấy những đồng cuối cùng để đặt vé bay tới thủ đô Kathmandu của Nepal. Tại đây, anh được pháp sư Mordo (Chiwetel Ejiofor) đưa tới một ngôi đền bí ẩn có tên Kamar-Taj. Người đứng đầu ngôi đền này là Thượng Cổ Tôn Giả (Tilda Swinton) với nhiều phép thuật kỳ bí. Với tố chất bẩm sinh, Strange nhanh chóng lĩnh hội và thuần thục cách sử dụng những quyền năng kỳ ảo. Nhưng chính từ đây, anh dần nhận ra mình đang dần bước vào một cuộc chiến chống lại thế lực bóng tối do một cựu môn đệ Kamar- Taj cầm đầu. Tên Kaecilius (Mads Mikkelsen) từng theo học phép thuật tại Kamar-Taj nhưng sau khi tinh thông phép thuật, hắn lại ngả sang phe hắc ám và đe dọa trở lại tấn công chính nơi từng tôi luyện mình Thành công tiếp theo của Marvel Không phải ngẫu nhiên khi dù đã có tới 14 tập phim nhưng khán giả vẫn không ngừng háo hức mỗi khi có một phim mới của MCU. Những người đứng đầu của Marvel Studios đã có một kế hoạch chi tiết chia thành từng giai đoạn và đã công khai lịch phát hành phim tới tận năm 2019. Các bộ phim của Marvel đều giàu tính giải trí, được đầu tư kỹ xảo đẹp mắt nhưng quan trọng là không bị dập khuôn. Việc “tổng công trình sư” là nhà sản xuất Kevin Feige có nhiều đạo diễn khác nhau dưới trướng giúp các tác phẩm MCU không ngừng được làm mới. Sau giai đoạn đầu với các siêu anh hùng Avenger, “Giai đoạn 2” của MCU đã giới thiệu các phim với phong cách mới mẻ là “Guardians of the Galaxy” (phim phiêu lưu có bối cảnh tại vũ trụ) và “Ant-Man” (phim dạng heist về những phi vụ đột nhập). Nếu như các bộ truyện Marvel tồn tại khái niệm “đa vũ trụ” thì các bộ phim cũng đa dạng không kém với sự mới mẻ qua từng bộ phim. Tới “Doctor Strange,” khán giả lại được làm quen với những nhân vật mới và bối cảnh mới. Thay vì những bộ giáp siêu anh hùng tối tân và những trận chiến tại các thành phố hiện đại, câu chuyện lại mang màu sắc huyền bí của phương Đông với những ngôi đền, những cuốn sách cổ dạy phép thuật... Ngay từ những phút đầu tiên, màn giao chiến giữa các pháp sư đã khiến khán giả nhanh chóng dán mắt vào màn ảnh nhờ hiệu ứng kỹ xảo đẹp mắt. Với việc câu chuyện xoay quanh các pháp sư sở hữu những quyền năng thay đổi không gian và thời gian, các nhà làm phim của Hollywood được phép thỏa sức “phô diễn” kỹ xảo điện ảnh. Cách đây sáu năm, “Inception” từng khiến khán giả há hốc mồm với cảnh những khu phố bị uốn cong trong thế giới của giấc mơ, phá vỡ mọi nguyên tắc vật lý thông thường. “Doctor Strange” cũng có những cảnh tương tự nhưng ở mức độ sáng tạo và choáng ngợp vượt trội. Với mức kinh phí lên tới 160 triệu USD, các cảnh kỹ xảo trong phim đem lại cảm giác choáng ngợp và xứng đáng là một trong những phim đem lại ấn tượng thị giác mạnh nhất trong năm 2016. Người xem không khỏi bị ngợp trước cảnh đường phố bị đảo chiều, những kết giới mở ra những chiều không gian mới hay các màn giao chiến “tóe lửa” đầy sáng tạo trong “Doctor Strange.” Bối cảnh phim được trải dài từ New York, Hong Kong, London cho tới Nepal; cho thấy sự đầu tư kỹ lưỡng của đoàn làm phim. Tính giải trí của phim không chỉ đến từ các pha hành động với kỹ xảo được đầu tư mà còn nhờ phần kịch bản. Câu chuyện phim lôi cuốn với hành trình “tầm sư học đạo” của Strange và nhiều phen khiến khán giả cười nghiêng ngả qua những câu thoại hài hước. Tuy là một bộ phim phiêu lưu có nhiều pha hành động, nhưng “Doctor Strange” vẫn khéo léo lồng ghép vào phim những triết lý sống. Người xem có thể thấy hành trình thay đổi rõ rệt của Strange, từ một kẻ cao ngạo chỉ biết lo cho bản thân tới một pháp sư cảm thấy có trách nhiệm với thế giới và những người xung quanh. Nam diễn viên Benedict Cumberbatch xứng đáng nhận được những lời khen ngợi với vai Stephen Strange. Tài tử này nổi tiếng với vai diễn Sherlock Holmes trong loạt phim truyền hình “Sherlock” và dần trở thành gương mặt quen thuộc trên màn ảnh rộng những năm gần đây. Sherlock Holmes và Stephen Strange có nhiều điểm tương đồng: từ trí thông minh xuất chúng, cái tôi cao diệu vợi cho tới phong cách gây cười mà mặt vẫn tỉnh bơ. Khả năng biểu cảm đa dạng mà Cumberbatch vào vai Strange một cách tự nhiên như thể nhân vật này được “đo ni đóng giày” cho tài tử này. Trong thực tế, Cumberbatch cũng từng tới Ấn Độ để dạy tiếng Anh trong một tu viện ở Tây Tạng, một hành trình gần giống với chuyến đi của Strange tới Nepal. Ngoài Cumberbatch, những ngôi sao khác như Rachel McAdams, Tilda Swinton hay Chiwetel Ejiofor... đều hoàn thành tốt vai diễn của mình. Điểm trừ chỉ tới từ việc kẻ phản diện Kaecilius không để lại nhiều ấn tượng ngoài các pha phô diễn quyền năng, dù diễn viên Mikkelsen là một ngôi sao có hạng. Nhưng đó là một điểm trừ không đáng kể và không ảnh hưởng tới chất lượng tổng thể của “Doctor Strange.” Bộ phim vẫn giữ được những nét đặc trưng của Marvel như kỹ xảo hoành tráng, tính giải trí cao với sự hài hước trong thoại và những màn giao chiến đẹp mắt... đồng thời mở rộng thêm vũ trụ MCU qua thế giới phép thuật. Sự góp mặt thoáng qua của huyền thoại Marvel là tác giả Stan Lee hay hai đoạn phim ngắn sau khúc credit cũng khiến những người hâm mộ Marvel thích thú.
    • 0 downloads
    Picnic at Hanging Rock là một bộ phim của đạo diễn Peter Weir, phát hành vào năm 1975, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Joan Lindsay. Phim diễn ra vào năm 1900, kể về một nhóm nữ sinh của trường St. Valentine’s College ở Australia trong chuyến picnic tại Hanging Rock, một địa điểm nổi tiếng với vẻ đẹp tự nhiên kỳ bí. Nội dung chính xoay quanh sự biến mất bí ẩn của ba nữ sinh: Miranda, Edith và Marion, cùng với một giáo viên, trong khi họ khám phá khu vực Hanging Rock. Sự biến mất của họ gây ra sự hoang mang trong cộng đồng, dẫn đến những cuộc tìm kiếm và câu hỏi không có lời giải. Bộ phim khắc họa sâu sắc sự tác động của sự mất tích này đối với bạn bè, gia đình và cả những người tham gia tìm kiếm. Không chỉ là một câu chuyện ly kỳ về sự mất tích, mà còn khám phá những chủ đề như sự bí ẩn của thiên nhiên, tâm lý con người, và sự xung đột giữa văn hóa châu Âu và phong cảnh hoang dã của Australia. Phim nổi bật với hình ảnh tuyệt đẹp và âm nhạc ma mị, tạo ra một bầu không khí huyền bí và đầy chất thơ. Tác phẩm này đã trở thành một biểu tượng văn hóa và được nhiều người xem là một trong những bộ phim hay nhất của điện ảnh Australia.
    • 0 downloads
    Hubert: Này Vinz, mày có biết chuyện một thằng rơi từ trên tòa nhà 50 tầng xuống không? Cứ xuống thêm một tầng, để chấn an nó lại lẩm bẩm: cho đến giờ vẫn ổn, cho đến giờ vẫn ổn, cho đến giờ vẫn ổn… Vinz: Hah, tao biết chuyện ấy nhưng là phiên bản về một ông pháp sư Do Thái. Hubert: Thấy không, giống như bọn mình từ đây này… Nhưng vấn đề không phải là việc rơi xuống. Mà là việc tiếp đất cơ. Những mẩu vụn vặt như thế ở các nước phương tây được gọi là urban legend - những “huyền thoại” nửa hư nửa thực, mà ai cũng bán tín bán nghi và tiếp tục truyền tai nhau với một lời khẳng định: bạn của bạn của bạn tớ chứng kiến hẳn hoi nhé. La Haine không phải là một urban legend, mà là một fiction-documentary (nửa hư cấu nửa tài liệu). Mathieu Kassovitz kể câu chuyện về hành trình rơi xuống, không phải là của ai cả, mà của một xã hội hiện đại với những bế tắc mà ở đây cụ thể là nạn phân biệt chủng tộc và cuộc sống của những người nhập cư bên lề xã hội. La Haine dạo đầu bằng những cảnh bạo động – cơn giận, và hận thù của những người nhập cư ở ngoại ô (banlieue) thành phố Paris nhằm vào cảnh sát – lũ cớm – đã làm trọng thương Abdel - một thiếu niên A-rập. Phim thực sự bắt đầu khi đồng hồ điểm 10:38. Vinz – Do Thái, Saïd – A-rập, Hubert – boxer da màu lần lượt xuất hiện. Bộ ba vẫn còn ở độ tuổi đến trường ấy bắt đầu một ngày như bao ngày: lang thang trong khu ngoại ô nhếch nhác xập xệ, gặp những kẻ cũng tụ bạ như mình, hút sách, ăn uống, nhảy breakdance, nói chuyện nhăng cuội, hay không làm gì cả. Cái ngày ấy nếu có khác cũng vì nó tiếp ngay sau đêm bạo động. Vinz có được một khẩu súng của cảnh sát và thề sẽ trả thù nếu Abdel không qua khỏi… Và đồng hồ điểm lần cuối là 06:01 sáng sớm ngày hôm sau. Và hết ba mươi giây cuối là khoảng lặng. Lặng điếng người. Trống rỗng và căm hận. Có thể nói, cả bộ phim là một sự trống rỗng và căm hận. Mối hận xoay vòng giữa cớm và dân nhập cư đã nổ bung ngay từ phần intro. La Haine dành hơn 5 phút bắt đầu bằng tư liệu về những gì diễn ra năm 1993 – một cuộc bạo động có thật với cùng nguyên nhân trực tiếp: cậu bé người Zair (Cộng hòa dân chủ Congo) 16 tuổi Makobé M’Bowole bị cảnh sát bắn chết. Những hình ảnh tư liệu và bản tin thời sự đưa ra bối cảnh câu chuyện – nguyên nhân chính dẫn đến bi kịch cuối cùng. Trong suốt 96 phút, không kể khoảng 7 phút giới thiệu nhân vật, diễn biến chính kéo dài tới hơn 80 phút. Trong bối cảnh thời gian gần 24 tiếng, cuộc sống của những người trẻ trong chốn ngoại ô tù túng được tái hiện, và ta hiểu vì sao có một sự trống rỗng “đậm đặc” và thù địch bao trùm. Đó là nơi những tòa nhà cho người thu nhập thấp xây ẩu và đời thực từng xảy ra cả một gia đình chết vì thang máy rơi. Đó là nơi những thanh niên da màu buôn bán ma túy để trả tiền điện nước giúp mẹ, vì chỗ lao động kiếm tiền chân chính đã tan hoang cả rồi. Đó là nơi bọn trẻ ngồi cả ngày không làm gì vì không có gì để làm và không biết làm gì với đời mình, chỉ thấy mình như con kiến trong vũ trụ, cái vũ trụ đầy những poster quảng cáo nói dối rằng Thế giới này là của bạn (Le Monde est à Vous). Đó là nơi người ta không biết trút giận đi đâu nên đốt phá xe hàng xóm, và lúc nào cũng trong tâm thế muốn bắn một ai đấy, cớm thì tốt, mà không thì bất cứ ai. Bên cạnh cấu trúc dàn trải tịnh tiến theo thời gian với các trường đoạn phân định bằng giờ, tiết tấu cũng chính là một trong những yếu tố làm nên thành công của La Haine. Trước những đoạn xung đột bao giờ nhịp độ cũng chậm, và thường là tĩnh, ví dụ như cảnh bộ ba ngồi với một cậu bé, không ai mở miệng, chỉ có cậu bé thao thao một mình. Sự đối lập đó với tình cảnh của bộ ba và dòng chữ phía sau lưng: Tương lai là của chúng mình (L’avenir est à nous) dẫn đến đối lập thảm hại giữa cảnh này và cảnh xuất hiện khẩu súng của Vinz ngay sau đó như một điềm báo. Từ đây, cao trào được đẩy dần, những diễn biến gay cấn cùng với tiết tấu nhanh hơn về phía cuối càng tạo ấn tượng hụt hẫng cho đoạn kết. Về mặt diễn xuất, bộ ba Vincent Cassel, Hubert Koundé, và Saïd Taghmaoui là những lựa chọn không thể thay thế. Cả ba đều giữ tên thật vì trong quá trình tiền khởi quay, họ đã sống gần như trong phim để nhập tâm vào nhân vật. Giữ nguyên tên giúp bộ ba đóng được thật nhất có thể. Một da Trắng “blanc” Do Thái Vinz – không bị phân biệt chủng tộc bởi màu da nhưng cũng nóng nảy căm tức những thằng cớm đánh đập phân biệt đối xử với bạn bè mình. Đây là vai mà chính đạo diễn Kassovitz (anh nổi tiếng là diễn viên trước khi thành đạo diễn, đặc biệt với vai Nino trong Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain) cũng rất thích nhưng đã dành cho Vincent – người duy nhất anh tin giao cho vai này. Một Mọi đen “black” Hubert – người duy nhất trầm hơn, biết kiềm chế và hiểu bạn. Ngoài đời Hubert có bằng đại học môn Triết, nói tiếng Pháp như một giảng viên văn học và không biết hút thuốc, nhưng trong phim anh là một người khác, là Hubert boxer, bán ma túy, hút joint và trái tính với Vinz. Một A-rập “beur” (từ người Pháp gọi dân nhập cư Bắc Phi) Saïd – cậu bé liến thoắng, thân thiện và dễ bảo, hoàn toàn hợp với vai trung hòa giữa Vinz và Hubert. Ba người làm việc ăn ý đã cùng với đạo diễn xây dựng lời thoại trong nhiều tháng để dựng nên đúng hình ảnh Beur - Blanc - Black, một ẩn dụ đối lập với ba màu cờ Xanh – Trắng – Đỏ của Pháp tượng trưng cho Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Trong quá trình quay, có những cảnh liền mấy phút không biên tập rất khó để không vấp thoại. Chính những lúc ấy các diễn viên lại ứng tác ngay tại chỗ những câu bông đùa thực sự tái hiện được thứ ngôn ngữ sống động đặc trưng của thanh niên ngoại ô Paris. Về mặt hình ảnh, La Haine đặc biệt nhờ hậu kỳ chuyển toàn bộ phim quay màu sang đen trắng. Với nhiều người, nhất là người xem truyền hình, đây là một nhược điểm, vì không ai đủ kiên nhẫn để xem một tiếng rưỡi một phim chỉ cho cảm giác đang ở nửa đầu thế kỷ 20. Nhưng với những người mê điện ảnh, cái mẹo của dân làm phim ít tiền này lại càng nâng giá trị của bộ phim lên nhiều lần: không còn những phiền muộn bỏ rơi nội dung vì bị hút mắt vào một cô áo đỏ nào đi nhầm vào hình (trường đoạn ở trong Paris), không phát hiện ra những lỗi ánh sáng do thiếu thiết bị kỹ thuật (cảnh bộ ba ngồi không cùng cậu bé nói nhiều), và đặc biệt là giá trị vượt thời gian của sự kiện được nhấn mạnh: hơn mười năm sau, những câu chuyện được kể trong La Haine vẫn tiếp diễn trong cuộc sống thường nhật những vùng banlieue của Paris như thế và cũng thế ở nhiều nơi khác trên thế giới. Có rất nhiều cảnh quay ấn tượng mặc dù chi phí làm phim không nhiều. Đạo diễn Kassovitz rất muốn có một hình ảnh toàn cảnh khu ngoại ô từ trên cao, nhưng chỉ có thể dùng máy bay điều khiển từ xa cho flying-cam và chỉ có thể vượt nóc các khu nhà 10 tầng một chút. Cũng với lý do tài chính, những cú traveling đều bị giảm thiểu, hay gần như không có. Thay vào đó, các loại lens: long lens, short lens được dùng triệt để, khai thác đết hết mức những tính năng máy quay: bộ ba phía trước và hậu cảnh là Paris náo nhiệt đối lập với banlieue vừa bước ra, hoặc cảnh Vinz lần đầu chứng kiến bắn nhau ngay trước quán bar chỉ vì một cơn giận. Góc máy thường cố định, khuôn hình luôn tạo cảm giác bị động. Gương đặc biệt được sử dụng nhiều lần cho phép nhà làm phim chơi với khuôn hình, ép chặt không gian lại gây cảm giác gò bó. Camera là chính chúng ta, đứng một chỗ nhìn mọi chuyện diễn ra mà không làm được gì: cảm giác vô vọng, dồn nén tăng lên từ đó. Bối cảnh gần như để mộc: nhóm làm phim may mắn tìm được những địa điểm quay gần như không phải động chạm gì. Cửa kính vỡ không cần đập cho vỡ, những khu nhà bỏ hoang tan tành cũng sẵn tan tành… Dường như bộ phim đã sát với thực tế nhất có thể, và đậm chất tài liệu thời sự cho dù Kassovitz vẫn luôn thiết tha làm một La Haine nuột nà và coi nó hoàn toàn là hư cấu (fiction). Cũng với mục đích làm phim truyện nhưng phản ảnh đúng nhất thực tại, âm nhạc trong phim lại một lần nữa không giống với bất cứ phim nào: Không có một bài hát hay đoạn nhạc nào được đặt viết riêng cho phim cả, và phim hầu như không dùng nhạc. Kassovitz luôn cho rằng một phim hay và nội dung đủ mạnh thì không bao giờ cần đến âm nhạc để hỗ trợ cảm xúc người xem. Với La Haine, anh đã chứng minh được điều đó. Nhạc chỉ được nghe thấy (không bao giờ đến nửa bài) thực sự qua radio (cảnh ở nhà Hubert) hoặc qua cassette lúc bộ ba tới chỗ tập break dance của các bạn, đúng như cách chúng ta nghe nhạc đây một chút, kia một chút trong cuộc sống thường ngày. Một bài duy nhất được “đầu tư” là do đạo diễn chơi thân với bạn nhạc Assasin, mời DJ Cut Killer nổi tiếng (cũng là bạn Kassovitz và đóng vai chính mình) mix một bài của Assasin với bài hát Non, je ne regrette rien của Edith Piaf để giữ được chất thật là Pháp. Về biên tập âm thanh, cùng với việc chuyển từ màu sang đen trắng, phim cũng chuyển toàn bộ âm thanh stereo sang mono cho… đồng bộ. Ngoài những yếu tố kỹ thuật phong cách “hiện thực” đó, La Haine còn có nhiều chi tiết mang tính biểu tượng thú vị, bên cạnh những gợi nhắc các phim kinh điển đỉnh cao của Martin Scorsese mà Kassovitz vẫn ngưỡng mộ. Câu chuyện rất black comedy bộ ba được nghe kể khi vào Paris là một ví dụ. Ông cụ nhỏ thó ở toilet công cộng bắt đầu bằng một câu: Không gì sướng bằng đại tiện tử tế! và kết chuyện bằng một người chết cóng chỉ vì muốn được hưởng cái quyền cơ bản nhất của con người, một cách tử tế, là đại tiện. Một ví dụ khác là hình ảnh con bò đi trong phố – rất siêu thực – mục đích tác giả là ám chỉ thành ngữ “Mort aux vaches” nghĩa là “Cớm chết đi”, nhưng cũng khiến ta nghĩ tới ảo giác của Vinz khi bị ám ảnh bởi ý tưởng trả thù, hoặc một cách thoát ra khỏi thực tại. Sau này Still live (2006) của Jia Zhangke, cũng là một phim fiction-documentary, cũng có một hình ảnh siêu thực người đi trên trời trong bối cảnh rất thực với bức tường đổ đè chết người. Quay lại với La Haine, chi tiết mà ai đã xem Taxi Driver (1976) đều nhận ra ngay là cảnh Vinz giơ ngón tay trước gương và nhắc đi nhắc lại y như Travis đã làm “Huh! Huh! You talkin’ to me? You talkin’ to me?” đồng thời cũng hiểu ra ý so sánh sự trống rỗng và không mục đích của Vinz và Travis. Kassovitz còn nhắc đến Mean streets (1973) qua cách giới thiệu ba nhân vật chính rất đồ họa – tên của bộ ba lần lượt xuất hiện tự nhiên không gượng ép: Saïd ký tên kiểu graffitti trên thùng xe cảnh sát, Vinz đeo chữ tên mình ở ngón tay và tên Hubert được phóng trên poster quảng cáo phòng tập boxing của cậu. Scorsese từng đặt tiêu đề các chương sách theo tên các nhân vật của mình trong Mean streets - phim Kassovitz thích nhất. Vẫn còn có quá nhiều điều để nói về La Haine. Sau gần mười lăm năm, có hơn 400 cuốn sách trích dẫn bộ phim trong những nghiên cứu về điện ảnh, nghệ thuật và đặc biệt là các vấn đề chính trị xã hội. Hiphop America (Nelson George) nhắc đến La Haine như một đại diện cho văn hóa Hiphop Pháp những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ 20; Affaires de Famille: The family in contemporary French culture and Theory (Gia đình trong văn hóa Pháp đương đại và lý thuyết - Marie-Claire Barnet, Edward Welch); Badlands of the republic (Miền đất xấu của nền cộng hòa - Mustafa Dikeç) nói về mối quan hệ giữa không gian và chính trị và chính sách đô thị hóa của Pháp lấy La Haine làm minh họa cho sự chống đối và nổi dậy của tuổi trẻ. Cuốn sách đầy đủ nhất viết riêng về bộ phim là La Haine (Mathieu Kassovitz, 1995) của Ginette Vincendeau. Cuốn sách giới thiệu rất chi tiết về dự án của đạo diễn, về đoàn làm phim, những khó khăn họ gặp phải khi làm một phim độc lập kinh phí thấp, và bị từ chối tài trợ thế nào khi không chịu sửa kịch bản cho thêm tính thị trường. Quyển sách viết về cơn gió chủ nghĩa hiện thực mới mà La Haine là đại diện, và phân tích câu chuyện, phong cách cũng như tư tưởng của bộ phim. Như vậy có thể hình dung mức độ lan tỏa của La Haine tác động tới mức nào, giúp cho Kassovitz nhận được giải Cành cọ vàng cho Đạo diễn xuất sắc nhất và giải César cho Phim hay nhất cùng với rất nhiều giải khác, điều mà chính anh cũng không ngờ đến. Khi ấy, Kassovitz mới 28 tuổi. Sau này khi đã đạt nhiều thành công ở Hollywood, Kassovitz vẫn tự hào khi gặp những người trẻ trong ngành cảnh sát và được chia sẻ rằng họ thi vào ngành vì La Haine. Những anh cớm trẻ ấy muốn chứng minh trên đời có nhiều cớm tốt hơn cớm xấu, cũng như muốn cố gắng thay đổi sự thực đau lòng mà La Haine hơn một thập kỷ trước đã lên tiếng, và tiếc là đến nay vẫn còn tính thời sự.
    • 0 downloads
    Ngay sau khi được phóng thích trước thời hạn, tên trộm siêu hạng Danny Ocean đã bắt tay vào triển khai một kế hoạch đầy tham vọng. Mục tiêu là kho bạc chứa tiền của ba sòng bài lớn nhất tại Las Vegas của tay cự phú Terry Benedict (Andy Garcia). Ocean lên danh sách chiêu mộ và lần lượt có trong tay mình 11 quái kiệt trong đó có thần bài Rusty Ryan, anh em Virgil và Turk, một chuyên gia chất nổ và một chuyên gia nhào lộn. Phần thưởng cho tất cả là 150 triệu USD tiền mặt nhưng thách thức họ là hệ thống bảo vệ nghiêm ngặt hiện đại của sòng bài. Liệu Ocean có chiếm được số tài sản kếch sù và quan trọng nhất là đoạt lại trái tim của Tess (vợ cũ của Ocean) đang nằm trong vòng tay của Terry?
    • 0 downloads
    "Harriet" (2019) là một bộ phim tiểu sử do Kasi Lemmons đạo diễn, kể về cuộc đời của Harriet Tubman, một trong những nhân vật quan trọng trong phong trào chống nô lệ ở Mỹ thế kỷ 19. Bộ phim tập trung vào hành trình phi thường của Harriet từ việc là một nô lệ đến việc trở thành một nhà hoạt động nổi bật và người dẫn đường trong mạng lưới "Underground Railroad". Nội dung phim bắt đầu với Harriet (do Cynthia Erivo thủ vai) khi cô trốn khỏi trang trại nô lệ ở Maryland để tìm kiếm tự do. Sau khi thành công trong việc trốn thoát, cô quyết định quay lại để giải cứu những người nô lệ khác, sử dụng những kỹ năng mà cô đã học được, cũng như sự kết nối với các thành viên trong mạng lưới hỗ trợ. Bộ phim không chỉ khám phá những mạo hiểm mà Harriet phải đối mặt, mà còn làm nổi bật sức mạnh của ý chí, lòng dũng cảm và niềm tin vào tự do. "Harriet" cũng thể hiện những khía cạnh về sự phân biệt chủng tộc và bất công xã hội trong thời kỳ đó, đồng thời tôn vinh di sản của Harriet Tubman như một biểu tượng của đấu tranh cho quyền con người. Bộ phim mang đến một cái nhìn sâu sắc và cảm động về cuộc đời của một người phụ nữ đã làm thay đổi lịch sử.
    • 0 downloads
    Paprika là một bộ phim khoa học viễn tưởng được đạo diễn Satoshi Kon thực hiện và ra mắt vào năm 2006. Dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Yasutaka Tsutsui, bộ phim kể về một thế giới có sự tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ, các nhà nghiên cứu đã phát minh ra thiết bị có thể “đọc” được giấc mơ của những ai sử dụng nó. Từ đây, hàng loạt các sự kiện khác nhau diễn ra, đòi hỏi những người nghiên cứu có mặt trong dự án phải giải quyết triệt để. Với nhiều tuyến nhân vật và sự kiện, Paprika mở ra tầng tầng lớp lớp ý nghĩa cho người xem, đồng thời việc lí giải bộ phim cũng chưa bao giờ thôi kích thích người thưởng thức. Trong Paprika, thứ mà người xem có thể nhận ra được là sự song song cùng tồn tại của hai thế giới mà ranh giới phân chia hai thế giới này là giấc ngủ. Tức là khi người ta thức, người ta sống trong một thực tại tạm gọi là thế giới thực, còn trong khi ngủ, người ta đi vào một thực tại khác, tạm gọi là thế giới mơ. Hai thế giới này ban đầu được tách biệt rất rõ ràng, tuy nhiên, vì một sự cố (thực chất là âm mưu của một người nghiên cứu), mà cuối cùng giữa hai thực tại lại có sự xâm lấn, hòa trộn vào nhau. Trước khi nhìn nhận một thực tại thứ ba là kết quả của sự xâm lấn, ta cần xem xét hai thực tại riêng biệt ban đầu: Thực tại trong thế giới thực là nơi khoa học và công nghệ lên ngôi. Người ta có thể dùng nó để làm rõ và xử lí hầu hết các vấn đề. Đặc biệt, khoa học – công nghệ phát triển đến mức có thể dùng nó để làm công cụ trị liệu tâm lí cho con người (bằng cách dùng DC Mini thâm nhập vào giấc mơ của khách hàng). Những con người tồn tại trong thế giới này đều thuộc nhóm người dùng lí trí, logic, khoa học để giải quyết các vấn đề. Đó là nhà khoa học At, Tokita, Osanai, ông chủ tịch, ông cảnh sát… Vì thuộc nhóm lí trí, logic, nên ở họ còn có điểm chung không thể chối cãi về mặt tâm lí: Phần cảm xúc luôn bị dồn nén xuống dưới, hành động bị can thiệp bởi lí trí hoặc tham vọng quyền lực khá nhiều, cuộc sống chỉ xoay quanh công việc hoặc nghiên cứu máy móc. Họ trị liệu giấc mơ của người khác mà lại không tập trung xử lí vấn đề của chính mình. Từ đây, một câu hỏi được đặt ra là: Khi không giải quyết vấn đề của mình, liệu họ có thể đủ sức để xử lí được vấn đề của người khác? Không hoàn toàn giống với thế giới thực, thực tại trong thế giới mơ được khai thác trên phổ rộng hơn. Mới đầu, nhờ thiết bị DC Mini, con người mới có thể kết nối giấc mơ của 2 người dùng lại để đọc, nghiên cứu giấc mơ, từ đó phục vụ cho quá trình trị liệu tâm lí. Nhưng về sau, sự xâm lấn diễn ra khiến mọi giấc mơ có thể tương tác với nhau và tương tác với thế giới thực. Dần dần, ranh giới thực – mơ bị xóa nhòa. Giấc ngủ không còn là cánh cổng duy nhất để đến với thực tại trong mơ nữa. Thực tại trong thế giới mơ là sự phản chiếu đầy đủ nhất của thế giới thực. Ở nơi đó, vừa có những thái quá của khoa học công nghệ, vừa có sự quá đà của những vấn đề khúc mắc trong cuộc sống và trong tâm trí mỗi người (máy móc, chuyện ăn uống, quyền lực,…), nhưng cũng tồn tại cả điện ảnh tượng trưng cho nghệ thuật, tồn tại đủ mọi cung bậc cảm xúc của cá nhân, đồng thời cũng xuất hiện những cuộc phiêu lưu, cuộc đối đầu, có cả tình yêu, sự ghen ghét, đố kị, có cả cái chết. Có thể nói, thế giới mơ là một “liên thế giới” hoặc “siêu thế giới”. Thực tại ở nơi đây rộng lớn, đầy đủ hơn thực tại mà trước khi ngủ con người trải qua. Hay chính xác thì đạo diễn đã tái hiện lại được một thế giới hoàn chỉnh mà ở đó, không tồn tại sự phân chia thực – mơ. Bằng việc xóa nhòa lằn ranh thực – mơ, nhà làm phim đã khẳng định tầm quan trọng của những giấc mơ, từ đó xem xét giấc mơ như một thế giới riêng tư đang vận hành bên trong mỗi cá nhân. Và để nhìn nhận thế giới một cách đầy đủ nhất, ta cần thiết phải soi rõ cả thực và mơ. Như đã đề cập đến ở phần đầu, các nhân vật xuất hiện trong phim đều là những người có lí trí, sống duy lí, sử dụng cái đầu nhiều hơn người khác. Cũng chính vì thế mà cảm xúc cá nhân của họ bị phần lí tính dồn nén xuống dưới, không cho thể hiện ra bên ngoài. At luôn muốn làm chủ, thích Tokita nhưng lại thể hiện ra bên ngoài một nhân cách lạnh lùng, tôn thờ trách nhiệm; Tokita dùng đồ ăn để lấp đi những phần suy nghĩ anh muốn giấu; Osanai che giấu cảm giác thua kém người khác bằng lòng khiêm tốn và tính cẩn trọng; ông chủ tịch bao che tham vọng bằng những lời lẽ đầy trách nhiệm; anh cảnh sát từ chối xem phim vì bộ phim gắn liền với kí ức không vui trong quá khứ. Những ẩn ức bị giấu kín trong thế giới thực tìm cơ hội bộc lộ thông qua giấc mơ. Ở thế giới mơ, người ta thể hiện ra những khía cạnh bị ẩn giấu trong thế giới thực. Paprika hành động dựa trên những cảm xúc chân thực, dựa trên phần trực giác của bản thân cô. Paprika có cảm xúc đa dạng và sống động nhất phim. Không chỉ vậy, cô còn có khả năng thưởng thực nghệ thuật, xem phim mà biết cái hay của phim, trải nghiệm sự kiện diễn ra trong đó. Cuộc sống của Paprika vì thế mà sinh động hơn nhiều cuộc sống của những nhân vật khác, dù rằng cô chỉ là một nhân vật ảo tồn tại trong thực tại giấc mơ. Paprika là một phần của At, At cũng là một phần của Paprika. Hai tính cách đó tượng trưng cho phần ý thức, lí trí và phần bản năng, trực giác của trong một người. Nếu At là cô gái nhẹ nhàng, thiên về lí tính, là một nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực tâm lí trị liệu nhưng lại có xu hướng lãnh đạm với cảm xúc cá nhân và cảm xúc của những người xung quanh, thì Paprika lại thiên về bộc lộ cảm xúc, và là nhân vật đầu tiên và duy nhất có trải nghiệm nghệ thuật, có thể xuyên qua các thực tại một cách dễ dàng, cũng là người có thể gọi tên hoặc khơi gợi được những ẩn ức tồn tại trong Osanai, At, ông cảnh sát,… Chỉ cần để ý một chút, chúng ta sẽ thấy chính hai nhân cách song trùng này chịu trách nhiệm trị liệu cho các bệnh nhân, nhưng Paprika lại đóng vai trò then chốt trong việc khám phá ra những bí mật bị che giấu, bởi ở góc độ nào đó, chính cô cũng là một ẩn ức không được At bộc lộ ra ngoài, là cảm xúc cá nhân, là sự sợ hãi khi phải đối mặt với những thứ nguy hiểm,… Một nhân vật đáng chú ý khác là ông chủ tịch. Trong phim, ông ta đại diện cho tham vọng bá chủ. Ông thao thao bất tuyệt về quyền riêng tư của con người, quyền của những giấc mơ nhưng lại muốn thống trị chúng. Ông chủ tịch trở thành hình mẫu bá chủ thống trị kẻ khác bằng giấc mơ (những mong muốn, ẩn ức, ký ức, tình cảm, cảm xúc,… của toàn nhân loại). Xem phim, chúng ta có quyền nghĩ về những kẻ luôn miệng rao giảng điều tốt đẹp nhưng chỉ toàn ham muốn và thực hiện những gì trái ngược. Chi tiết ông ta phải ghép cơ thể với Osanai – anh nhân viên luôn cảm thấy tự ti và ghen ghét với Tokita – cũng cho thấy một thực tế: Có thể coi ông ta đại diện cho một ý tưởng, và ý tưởng ấy chỉ có khả năng thành hiện thực khi có người thực hiện chúng. Ông chủ tịch với tham vọng xấu giống như một loài sống ký sinh, phải hút dinh dưỡng từ vật chủ để nuôi dưỡng sự sống của chính mình. Về phía vật chủ, những cảm xúc tiêu cực, sự nhiễu loạn thông tin chính là “thức ăn” cho giống loài kí sinh kia, đồng thời cũng là lỗ hổng để giống loài đó có thể “hack” vào hệ thống và điều khiển ngược lại vật chủ. Chỉ khi nào những vấn đề tiêu cực cũng như sự nhiễu loạn thông tin trong vật chủ được giải quyết thì giống ký sinh kia mới bị loại bỏ. Trong phim, một mình Paprika sống thật vẫn không đủ để “cứu thế giới”. Con người chỉ có thể thoát khỏi quyền lực của ông chủ tịch khi và chỉ khi họ nhận thức được rằng bản thân đang bị nhốt trong những hoạt động lí tính, máy móc, không cảm xúc. Nếu thành thật với cảm xúc và suy nghĩ của chính mình, họ có thể thoát khỏi cảnh bị cầm tù. Nhân vật cảnh sát cũng cần được đưa ra phân tích. Lúc đầu, ông xuất hiện với tư cách một người cần trị liệu để có thể giải quyết cho xong vụ án đang dang dở. Thế nhưng, khi đối mặt với những sự kiện diễn ra trong mơ, ông dần dần nhận ra những ẩn ức đang tồn tại phía sâu thẳm trong tâm hồn mình. Quá trình phát triển tâm lí của nhân vật này cũng được xây dựng công phu. Ban đầu, khi sống trong thực tại mơ, vì còn chưa hiểu rõ những gì đang xảy ra, ông ta liên tục sợ hãi, bị rơi vào tình trạng bị động. Tuy nhiên, khi mọi khúc mắc tâm trí đã sáng tỏ, thấu suốt được những gì diễn ra trong đầu mình, nhận ra giấc mơ không phải chuỗi hình ảnh vô nghĩa lặp đi lặp lại, ông đạt đến trạng thái minh mẫn, không còn sợ hãi, không còn ngây ngô như lúc đầu. Loại bỏ tình trạng bị động, đến nửa sau phim, ông cảnh sát trở thành nhân vật hỗ trợ đắc lực nhất cho Paprika. Mối quan hệ giữa Paprika và ông cảnh sát cũng là một điểm thú vị. Một người sống trong thế giới mơ và có khả năng đi qua nhiều thực tại để giúp người khác thấy hiểu chính mình; một người là thành viên trong thế giới thực nhưng lại đi vào thực tại khác để khám phá tâm trí (cũng như tình cảm) của mình. Ở giữa họ không phải chỉ là sợi dây liên kết giữa bác sĩ và bệnh nhân. Hơn thế, họ phải lòng nhau. Tình cảm ấy vướng phải cách trở là sự phân tách giữa hai thực tại. Đến đây, ta không đặt câu hỏi “Paprika có thật không?”. Dường như khi thực tại xâm lấn thực tại, khi ẩn ức dâng lên và tràn ra ngoài để đối mặt cùng lí tính (thậm chí là có người định dùng nó để thâu tóm lí tính), thì cái gì cũng có thể được coi là “thật”. Mối quan hệ của hai người họ như một lời khẳng định chắc chắn có một sự liên kết giữa thực và mơ. Và mặc dù đó chỉ là mối liên kết mỏng manh, mơ hồ, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng nó không tồn tại. Vẽ ra viễn cảnh một ngày giấc mơ tràn ra đời thực, tạo ra một mối liên hệ giữa con người với thực tại trong mơ, thực chất chính là khẳng định sự tồn tại cũng như tầm quan trọng của những gì đang bị con người cố sức dồn nén. Paprika vì thế không chỉ là bộ phim nói về hai phần thế giới, mà còn là diễn ngôn giải phóng cảm xúc cá nhân: Dồn nén cảm xúc vốn không thể làm thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Thế giới chỉ tốt đẹp hơn khi người ta nhận ra và hiểu rõ những cảm xúc, suy nghĩ xuất hiện bên trong tâm trí mình.
    • 0 downloads
    "Starman" (1984) là một bộ phim khoa học viễn tưởng lãng mạn do John Carpenter đạo diễn, với Jeff Bridges trong vai chính. Câu chuyện bắt đầu khi một sinh vật ngoài hành tinh hình dạng giống con người (do Bridges thủ vai) hạ cánh trên Trái Đất sau khi nhận được một tín hiệu từ một bức ảnh của một phụ nữ tên là Jenny Hayden (do Karen Allen đóng). Khi đến nơi, sinh vật này nhập vào cơ thể của chồng Jenny, người đã qua đời. Tuy nhiên, mục đích của sinh vật này là tìm kiếm một chiếc đĩa bay để trở về nhà, và trong quá trình này, nó tạo ra một mối liên kết tình cảm với Jenny. Phim khám phá các chủ đề về tình yêu, sự mất mát và tìm kiếm sự kết nối giữa các cá nhân. Mặc dù ban đầu Jenny hoài nghi về "Starman", nhưng theo thời gian, cô nhận ra rằng sinh vật này không chỉ là một người ngoài hành tinh mà còn mang lại cho cô hy vọng và tình yêu mới. Cốt truyện đi kèm với những yếu tố hành động và cảm xúc, khi Jenny và Starman phải đối mặt với sự truy đuổi từ chính phủ. "Starman" không chỉ là một bộ phim khoa học viễn tưởng đơn thuần mà còn là một câu chuyện đẹp về tình người và sự hiểu biết giữa các nền văn hóa.
    • 0 downloads
    "Aparajito" (1956) là bộ phim thứ hai trong bộ ba phim nổi tiếng của đạo diễn Satyajit Ray, dựa trên tiểu thuyết "Aparajito" của Bibhutibhushan Bandyopadhyay. Phim tiếp tục câu chuyện của Apu, một cậu bé từ vùng quê Bengal, và khám phá cuộc sống của cậu khi trưởng thành. Nội dung phim tập trung vào hành trình của Apu từ khi cậu rời bỏ quê hương để theo học ở thành phố Kolkata, nơi cậu phải đối mặt với những thử thách trong việc học tập và tìm kiếm bản sắc cá nhân. Phim cũng khám phá mối quan hệ giữa Apu và mẹ cậu, Sarbajaya, người đã hy sinh rất nhiều để cho cậu có cơ hội học hành. Satyajit Ray khéo léo thể hiện sự chuyển mình của Apu trong bối cảnh xã hội Ấn Độ, đồng thời truyền tải những cảm xúc sâu sắc về tình yêu, nỗi mất mát và khát vọng. "Aparajito" không chỉ là một câu chuyện về sự trưởng thành mà còn là một tác phẩm nghệ thuật sâu sắc, thể hiện tinh thần của thời đại và con người.
    • 0 downloads
    Câu chuyện xoay quanh Martin Vail (Richard Gere), một luật sư danh tiếng và tự phụ, nổi tiếng với việc bào chữa cho những tội phạm khó khăn. Khi một linh mục nổi tiếng bị giết hại, Martin quyết định nhận bào chữa cho Aaron Stampler (Edward Norton), một thanh niên trẻ tuổi bị tình nghi giết linh mục. Aaron bị bắt với nhiều bằng chứng chống lại, nhưng anh ta tuyên bố rằng mình bị mắc chứng rối loạn nhân cách, dẫn đến những hành động mà anh không kiểm soát được. Khi Martin đào sâu vào vụ án, anh phát hiện ra rằng có nhiều bí mật ẩn giấu và những khía cạnh phức tạp trong tâm lý của Aaron. Trong quá trình điều tra, Martin bắt đầu nhận ra rằng sự thật không đơn giản như vẻ bề ngoài. Phim liên tục xoay chuyển giữa những tình tiết hồi hộp và những mối quan hệ giữa các nhân vật.
    • 0 downloads
    The Ring (2002) là một bộ phim kinh dị tâm lý do Gore Verbinski đạo diễn, dựa trên bộ phim Nhật Bản "Ringu". Phim có sự tham gia của Naomi Watts, Martin Henderson và David Dorfman. Câu chuyện xoay quanh Rachel Keller (Naomi Watts), một nhà báo điều tra, người được giao nhiệm vụ khám phá cái chết bí ẩn của một cô gái trẻ. Trước khi chết, cô gái này đã xem một băng video ma quái, và chỉ sau đó một tuần, những người xem băng video cũng sẽ chết. Khi Rachel quyết định xem băng video đó, cô cũng bị cuốn vào vòng xoáy của những hiện tượng siêu nhiên và cái chết. Sau khi xem băng, Rachel bắt đầu trải nghiệm những hình ảnh kỳ lạ và ám ảnh. Cô cùng bạn trai Noah (Martin Henderson) và con trai của mình, Aidan (David Dorfman), cố gắng tìm hiểu nguồn gốc của băng video và cách để ngăn chặn thảm họa đang đến gần. Khi thời gian trôi qua, Rachel phát hiện ra rằng băng video không chỉ đơn thuần là một sản phẩm kinh dị mà còn liên quan đến một câu chuyện bi thảm về một cô gái tên Samara, người có sức mạnh siêu nhiên đáng sợ. The Ring đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và khán giả, nổi bật với không khí căng thẳng và những tình tiết hồi hộp. Diễn xuất của Naomi Watts được đánh giá cao, mang đến một nhân vật mạnh mẽ và đầy cảm xúc. Âm thanh và hình ảnh trong phim cũng tạo ra một cảm giác rùng rợn, góp phần làm tăng thêm độ đáng sợ. Phim không chỉ đơn thuần là một bộ phim kinh dị mà còn khám phá các chủ đề về nỗi đau, mất mát và sự trừng phạt. The Ring trở thành một biểu tượng của thể loại kinh dị Mỹ đầu những năm 2000, với nhiều cảnh quay đáng nhớ và một cái kết bất ngờ.
    • 0 downloads
    The Color Purple (2023) là phiên bản chuyển thể từ vở nhạc kịch Broadway, dựa trên tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của Alice Walker. Bộ phim do Blitz Bazawule đạo diễn và có sự tham gia của các ngôi sao như Fantasia Barrino, Danielle Brooks, Halle Bailey và Colman Domingo. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của Celie (Fantasia Barrino), một người phụ nữ da đen sống ở miền Nam nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Celie trải qua nhiều khó khăn, bao gồm sự lạm dụng, phân biệt chủng tộc và tình yêu thương không được đáp lại. Dù bị dồn ép và chịu đựng đau khổ, cô tìm cách vượt qua và tìm kiếm sự tự do cũng như giá trị bản thân. Phim khám phá mối quan hệ giữa Celie và các nhân vật xung quanh cô, bao gồm tình bạn, tình yêu và sự đoàn kết giữa phụ nữ. Những bài hát và màn trình diễn ấn tượng làm nổi bật những cảm xúc mạnh mẽ, từ nỗi đau đến niềm hy vọng. The Color Purple 2023 được đánh giá cao nhờ vào kịch bản mạnh mẽ, diễn xuất xuất sắc và những khoảnh khắc cảm động. Fantasia Barrino mang đến một màn trình diễn đầy cảm xúc trong vai Celie, cho thấy sức mạnh và sự kiên cường của nhân vật. Âm nhạc trong phim cũng tạo nên bầu không khí lôi cuốn, gợi nhớ đến tinh thần của vở nhạc kịch gốc. Bên cạnh việc thể hiện những nỗi đau và đấu tranh, phim cũng truyền tải thông điệp về tình yêu, sự tha thứ và sức mạnh của cộng đồng. Phiên bản này mang lại một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về câu chuyện, đồng thời nhấn mạnh những chủ đề vẫn còn rất hiện thực trong xã hội ngày nay. Tổng thể, The Color Purple là một tác phẩm đầy cảm hứng, khuyến khích khán giả suy ngẫm về những vấn đề xã hội và giá trị của tình người.
    • 0 downloads
    Năm 1994, tàu ngầm lớp USS Montana của Hoa Kỳ Ohio đã chạm trán với một vật thể không xác định chìm dưới nước gần máng Cayman. Khi các tàu Liên Xô di chuyển để cố gắng trục vớt tàu ngầm và một cơn bão di chuyển qua khu vực, chính phủ Hoa Kỳ đã gửi một đội SEAL đến Deep Core, một giàn khoan thử nghiệm dưới nước thuộc sở hữu tư nhân gần Cayman Trough để sử dụng làm căn cứ hoạt động. Nhà thiết kế của nền tảng, Tiến sĩ Lindsey Brigman, khăng khăng muốn đi cùng với đội SEAL, mặc dù người chồng bị ghẻ lạnh của cô là Virgil "Bud" Brigman là quản đốc hiện tại. Trong quá trình điều tra ban đầu về Montana, việc cắt điện trong tàu chìm của đội dẫn đến Lindsey nhìn thấy một ánh sáng kỳ lạ bao quanh phụ, mà sau này cô gọi là "trí thông minh phi hành tinh" hay "NTI". Trung úy Hiram Coffey, trưởng nhóm SEAL, được lệnh tăng tốc nhiệm vụ và lấy một trong những tàu ngầm nhỏ mà không có sự cho phép của Deep Core để lấy lại đầu đạn tên lửa Trident từ Montana khi cơn bão ập đến, khiến phi hành đoàn không thể ngắt kết nối từ tàu hỗ trợ bề mặt của họ trong thời gian. Cần cẩu cáp bị xé khỏi tàu và rơi xuống rãnh, kéo Deep Core xuống cạnh trước khi nó dừng lại. Giàn khoan bị ngập một phần, làm chết một số thành viên phi hành đoàn và làm hỏng hệ thống điện của nó. Phi hành đoàn chờ đợi cơn bão để họ có thể khôi phục liên lạc và được giải cứu. Khi họ đấu tranh chống lại cái lạnh, họ thấy các NTI đã hình thành một cột nước hoạt hình đang khám phá giàn khoan. Mặc dù họ tò mò đối xử với nó, Coffey vẫn kích động và cắt nó làm đôi bằng cách đóng một vách ngăn áp lực lên nó, khiến nó rút lui. Nhận ra rằng Coffey đang mắc chứng hoang tưởng do hội chứng thần kinh cao áp, phi hành đoàn đã theo dõi anh ta thông qua một phương tiện hoạt động từ xa, tìm thấy anh ta và một thành viên của đội SEAL khác tham gia chế tạo đầu đạn để tấn công NTI. Để cố gắng ngăn chặn anh ta, Bud đã bơi đến khu vực phóng đầu đạn để chiến đấu với Coffey nhưng Coffey đã trốn thoát trong một con tàu ngầm nhỏ với đầu đạn đã được chuẩn bị sẵn; Bud và Lindsey đuổi theo con tàu khác và làm hỏng cả hai. Coffey có thể phóng đầu đạn vào rãnh, nhưng phần tàu của anh ta trôi qua rìa, nghiền nát anh ta khi nó nổ tung. Con tàu của Bud không thể hoạt động và chỉ với một bộ đồ lặn chức năng, Lindsey quyết định đi vào hạ thân nhiệt sâu khi nước lạnh của đại dương. Bud bơi trở lại nền tảng với cơ thể của mình; Ở đó, anh và phi hành đoàn điều hành CPR. Một thành viên khác của đội SEAL, Oblign Monk, giúp Bud sử dụng bộ đồ lặn thử nghiệm được trang bị thiết bị thở chất lỏng để sống sót đến độ sâu đó, mặc dù anh ta sẽ chỉ có thể giao tiếp qua bàn phím trên bộ đồ. Bud bắt đầu chuyến lặn của mình, được hỗ trợ bởi giọng nói của Lindsey để giữ cho anh ta mạch lạc chống lại trọng lượng của áp lực gắn kết, và chạm tới đầu đạn. Với lượng oxy còn lại trong hệ thống, Bud giải thích rằng anh biết đó là chuyến đi một chiều và nói với Lindsey rằng anh yêu cô. Khi anh ta chờ đợi cái chết, một NTI tiếp cận Bud, nắm lấy tay anh ta và hướng dẫn anh ta đến một con tàu ngoài hành tinh nằm sâu trong rãnh. Bên trong con tàu, các NTI tạo ra một túi khí quyển cho Bud, cho phép anh ta thở bình thường. Các NTI sau đó phát lại tin nhắn của Bud cho vợ và họ nhìn nhau với sự hiểu biết. Trên Deep Core, phi hành đoàn đang chờ giải cứu khi họ thấy một thông báo từ Bud rằng anh đã gặp một số người bạn và cảnh báo họ hãy giữ lấy. Căn cứ rung chuyển và ánh sáng từ rãnh mang đến sự xuất hiện của con tàu ngoài hành tinh. Nó nổi lên mặt nước đại dương, với Deep Core và một số tàu mặt nước mắc cạn trên thân tàu. Phi hành đoàn của Deep Core thoát khỏi nền tảng, ngạc nhiên khi họ không phải chịu đựng chứng bệnh giải nén. Họ thấy Bud bước ra khỏi con tàu ngoài hành tinh và Lindsey vui không kể xiết ôm chầm lấy anh.
    • 0 downloads
    âu chuyện xoay quanh Suzanne Stone (Nicole Kidman), một phụ nữ trẻ đầy tham vọng và quyết tâm trở thành một ngôi sao truyền hình. Dù đã kết hôn với một người chồng yêu thương (Matt Dillon), Suzanne luôn khao khát danh tiếng và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để đạt được mục tiêu của mình. Khi cô không thể có được cơ hội mà mình mong muốn, Suzanne quyết định thực hiện những hành động cực đoan hơn để có được sự chú ý. Cô tìm cách lôi kéo một nhóm thanh niên, trong đó có một cậu bé ngây thơ (Joaquin Phoenix), vào âm mưu giết chồng mình để có thể thoát khỏi cuộc sống hiện tại và theo đuổi ước mơ của mình. Phim khai thác chủ đề về tham vọng, sự thao túng và cái giá của danh tiếng, đồng thời thể hiện cách mà truyền thông có thể làm sai lệch nhận thức về con người và sự thật. Với phong cách kể chuyện độc đáo và diễn xuất ấn tượng của Nicole Kidman, To Die For nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và khán giả, trở thành một tác phẩm đáng chú ý trong sự nghiệp của đạo diễn Gus Van Sant.
    • 0 downloads
    Quigley Down Under (1990) là một bộ phim hành động phiêu lưu kết hợp yếu tố hài, do Simon Wincer đạo diễn và có sự tham gia của Tom Selleck, Laura San Giacomo và Alan Rickman. Câu chuyện xoay quanh Matthew Quigley (Tom Selleck), một xạ thủ bắn tỉa người Mỹ, được mời đến Australia để làm việc cho một người chăn cừu giàu có tên là Elliot Marston (Alan Rickman). Marston muốn Quigley sử dụng khả năng bắn súng tuyệt vời của mình để tiêu diệt những con chó hoang làm hại đàn cừu của ông. Tuy nhiên, khi Quigley phát hiện ra rằng Marston có kế hoạch săn lùng những người thổ dân Aborigines, anh từ chối tham gia và trở thành mục tiêu của Marston. Quigley phải chiến đấu để bảo vệ những người vô tội và tìm cách sống sót trong một thế giới đầy nguy hiểm và xung đột. Phim không chỉ tập trung vào hành động và những pha đấu súng, mà còn phản ánh những vấn đề về đạo đức và nhân quyền, đặc biệt là mối quan hệ giữa người thổ dân và người châu Âu tại Australia. Với bối cảnh đẹp và câu chuyện hấp dẫn, Quigley Down Under mang đến một trải nghiệm thú vị cho khán giả.
  1. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    Phim Pi (1998) cực kỳ khó hiểu và được xem là một trong những phim hack não nhất từ trước đến giờ. Nếu không tin thì bạn xem thử để biết, với tôi thì phim này rất hay, nhưng vì nó quá khó hiểu và nội dung trừu tượng nên ít người xem và không phổ biến. Khi xem một bộ phim, nếu nó được kết cấu bởi tính logic thì người xem vẫn còn theo kịp, nếu nó mang tính trừu tượng hoặc thêm vào yếu tố tôn giáo, thì suy nghĩ của con người dễ bị bế tắt. Tuy nhiên với một số người đã quen với sự trừu tượng, thì phim tương đối dễ hiểu. Tên phim tiếng Việt là Hằng Số Pi, IMDb 7.4 Nhớ xem phim trước khi đọc bài, chỉ như thế bạn mới cảm nhận được mức độ khó hiểu của phim. Đó cũng là cách rèn luyện đối với trí não của chúng ta, và là sự thú vị khi xem những phim hack não, đọc lời giải trước sẽ khiến ta có ảo giác rằng mọi thứ đều đơn giản và dễ hiểu. Cohen là một chuyên gia phân tích toán học nổi tiếng, anh ấy có khả năng tính toán siêu đẳng, có một trí thông minh vượt trội. Vì vậy Cohen được rất nhiều tập đoàn tài chính quan tâm, họ muốn có được kết quả mà Cohen đang nghiêng cứu. Vậy Cohen đang nghiêng cứu điều gì? Anh ấy muốn khám phá bí mật lớn nhất của thế giới này, muốn tìm ra công thức toán học hoàn mỹ nhất, nó có thể giải mọi phương trình. Nhưng bạn chờ đã, trước tiên tôi phải giải thích một chút về cách mà thế giới của chúng ta đang vận hành. Chân lý là gì? Rất khó để có một định nghĩa chính xác về “chân lý”, nhưng chúng ta có thể thấy nó nhờ vào phép tính của toán học, ví dụ 2+2=4, đó là chân lý. Mọi sự vận động trong thế giới vật chất của chúng ta đều theo những quy luật nhất định, chúng ta biết các quy luật đó nhờ môn vật lý học, nhưng môn vật lý sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có các công thức toán học. Như vậy, toán học là công cụ hoàn hảo nhất cho sự lý giải về thế giới, các môn học hoặc các ngành nghề thuộc về tự nhiên thì đều liên quan đến toán học. Về phương diện nghệ thuật cũng liên quan đến toán học, ví dụ như “tỉ lệ vàng” mà chúng ta thấy trong nghệ thuật kiến trúc hoặc hội họa. Hoặc những con số chúng ta thường thấy trong tôn giáo như 12 chi tộc của người Do Thái, 12 tông đồ của Đức Jesus, hoặc con số 7, tôi ví dụ thế. Phim đặt ra một giả thuyết rằng những chữ trong kinh thánh của người Do Thái thì thật ra là sự mã hóa cho những con số. Vì vậy, ai giải mã được bí ẩn về con số này thì sẽ tìm ra được Thượng Đế, hoặc có được quyền năng của Thượng Đế. Đó là điều mà Cohen muốn tìm ra, và đó là điều mà các tập đoàn và nhiều lãnh tụ tôn giáo của người Do Thái muốn có được. Bởi vì Cohen là nhà toán học quá thông minh, nên những gì anh ấy nhìn đều trở thành biểu thị của toán học, ví dụ như thị trường chứng khoán, các hành vi mua sắm, tỉ lệ người đi trên phố, sự chọn lựa sản phẩm của con người, mọi thứ đều có thể biểu thị thành đồ thị toán học, kể cả sự đong đưa của những chiếc lá trên cành. Như vậy, không khó để chúng ta hiểu những hành vi đôi khi “vô cảm” của Cohen khi anh ấy đối xữ với người khác, có rất nhiều người quý mến Cohen nhưng anh ấy luôn vô tình với họ. Đơn giản là vì anh ấy nhìn họ như những con số chứ không phải là con người. Giải thích và ý nghĩa thông điệp của phim: Khi còn nhỏ, mẹ của Cohen nói rằng không nên nhìn thẳng vào mặt trời vì nó sẽ khiến người nhìn bị mù, nhưng Cohen vẫn làm, điều đó khiến Cohen bị mù trong một thời gian ngắn, sau đó nhờ may mắn mà anh ấy không bị mù. Sự việc Cohen truy tìm con số hoàn hảo cũng giống vậy, nó rất nguy hiểm. Chứng đau đầu của Cohen là do bộ não đã hoạt động quá tải khi nghiêng cứu, bản thân bộ não đã tự vệ bằng cách khiến cho Cohen có những ảo giác về sự hủy hoại, vì nó đã quá mệt mỏi khi phải tính toán các con số. Robeson là thầy của Cohen, ông ấy đã từng nghiêng cứu điều mà Cohen đang làm, nhưng ông ấy đã dừng lại việc đó, sự thật là ông ấy đã tìm ra con số đó (hoặc bí mật đó), tuy nhiên ông không thể nói điều đó với Cohen, vì bí mật đó chỉ có người tìm ra mới cảm nhận và hiểu được. Điều mà Robeson có thể làm, là gợi ý cho Cohen, là khuyên Cohen hãy bước ra bên ngoài và cảm nhận về cuộc sống, sẽ có lúc nào đó “bí mật” tự bộc lộ ra cho chúng ta thấy. Nhưng Cohen vẫn cứ ngoan cố thực hiện, và … cuối cùng anh ấy đã tìm ra nó. Vậy “bí mật” đó là gì? Đó là một dãy số có 216 ký tự số (chúng ta không cần quan tâm nó), nhưng để hiểu được nó thì phải kết hợp với một công thức giống như “tỉ lệ vàng”, đó là sự chia nhỏ liên tục, giống như một hình trôn ốc, càng đi vào tâm thì đường cong càng nhỏ hơn, việc chia nhỏ sẽ không bao giờ chấm dứt. Khi bộ não của Cohen hoạt động hết công suất, điều đó có thể khiến anh ấy bị chết, nhưng cuối cùng anh đã gặp được “Thượng Đế”, hoặc “sự kỳ diệu”, đó là một đôi bàn tay đã kéo anh ấy trở lại với sự sống. Đó là tình yêu, nói cách khác, đó là sự sống. Bạn nhớ cảnh khi bộ máy của Cohen quá tải và bị hỏng, những con kiến đã chui vào chiếc hộp CPU. Tại sao? Robeson đã trả lời, khi CPU tìm ra được bí mật của dãy số, nó đã có ý thức, nó được ban sự sống, sau đó vì quá tải nên nó chết đi. Nghĩa là thứ vật chất ban đầu tạo nên CPU là chất vô cơ, trong khoảnh khắc tìm ra, nó hóa thành chất hữu cơ (được ban sự sống) và có ý thức. Do đó những con kiến đã đến để ăn chất hữu cơ. Thứ vật chất ấy nếu là chất vô cơ, nó sẽ cực kỳ độc hại, nhưng khi hóa thành chất hữu cơ thì nó không còn độc, và Cohen đã không chết khi liếm thử. Vậy hình trôn ốc – “tỉ lệ vàng” có nghĩa gì? Nó nói về sự vô cùng, một điểm vô cực, điểm đó chính là sự sống. Sự chia nhỏ có ẩn ý rằng để tìm đến với Thượng Đế, chúng ta hãy thu nhỏ bản ngã của chúng ta lại, khi bản ngã chạm đến điểm vô cùng là sự sống, nó sẽ quay ngược trở ra và nó sẽ lớn mãi, lớn đến vô cùng. Đường trôn ốc không phải là một đường tròn khép kín, nó là một đường cong mở rộng. Bạn nhớ thuyết về vụ nổ Big Bang chứ? Cả vũ trụ của chúng ta được bắt đầu từ một điểm, sau vụ nổ, cả vũ trụ nở bung ra, mọi thứ chuyển động theo hình trôn ốc. Hãy nhớ lại cuộc sống của Cohen trước đó, mặc dù rất thông minh, nhưng cuộc sống của anh ấy chỉ khép kín trong căn phòng. Cánh cửa mở ra bên ngoài của căn phòng luôn bị khóa chặt, Cohen chỉ có thể nhìn ra từ một vòng tròn nhỏ, cuộc sống của anh ấy nhỏ như cái vòng tròn ấy. Anh ấy không có niềm vui, không tình yêu, không sự sống. Anh ấy giống chiếc máy vi tính trong căn phòng. Nhưng sau khi tìm ra bí mật, anh ấy đã bước ra bên ngoài để cảm nhận sự sống, và anh ấy đang sống, anh ấy sẽ có tình yêu, anh ấy mang lại niềm vui cho đứa bé gái. Vậy số Pi trong phim có nghĩa gì? Nó biểu thị cho những hành động vô nghĩa, dãy số Pi sẽ kéo dài đến vô cực, nhưng nó vẫn chỉ là một hằng số trong công thức để tính đường tròn, dù tìm ra hàng tỉ con số, nó vẫn chỉ là một hằng số. Dành cả đời để tìm số Pi thì không khác gì nhìn cuộc sống qua lỗ khóa giống như Cohen. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi nhìn mọi thứ qua đường cong trôn ốc, nghĩa là càng đi thì tầm nhìn càng mở rộng, nhưng điểm khởi đầu của nó phải là tình yêu và sự sống. Ý nghĩa của dãy số 216 ký tự số: đó là con số bí mật, nhưng nếu không hiểu hàm ý được ẩn giấu trong nó, thì nó chỉ là một con số, nó vô nghĩa. Nó chỉ có ý nghĩa với người tìm ra nó, mà người có quyết tâm tìm ra nó thì phải có một linh hồn tinh khiết, nếu không, kẻ đó sẽ không có đủ sự kiên trì và không chịu được sự đau đớn, họ sẽ không tìm ra được bí mật. Nói đơn giản thì nó giống như sự giác ngộ, tự bản thân chúng ta phải tìm sự giác ngộ. Đó là điều không thể truyền đạt. Cảnh Cohen dùng máy khoan để khoan vào đầu anh ấy thì có ý nghĩa gì? Vị trí khoan là nơi mà bộ não dùng để tính toán, sau khi chúng ta tìm ra được bí mật thì chúng ta không cần đến nó nữa, điều chúng ta cần làm là sống và cảm nhận sự sống. Nó cũng giống như khoa học, mục đích của khoa học là tìm ra sự thật, hoặc giúp cho con người đạt được hạnh phúc, hoặc mang đến sự sống (y học), bạn phải nhớ rằng nó chỉ là phương tiện, nó không phải là mục đích. Bạn kiếm nhiều tiền để bạn và gia đình sống hạnh phúc, chứ mục đích sống của bạn không phải để kiếm nhiều tiền.
    • 0 downloads
    Dark Water (2002) là một bộ phim kinh dị tâm lý do Walter Salles đạo diễn, dựa trên một bộ phim Nhật Bản cùng tên. Phim có sự tham gia của Jennifer Connelly, Ariel Gade và Dougray Scott. Câu chuyện xoay quanh Dahlia Williams (Jennifer Connelly), một người mẹ đơn thân đang vật lộn với cuộc sống sau khi ly hôn. Cô và con gái nhỏ, Ceci, chuyển đến một căn hộ cũ kỹ ở New York với hy vọng bắt đầu lại cuộc sống mới. Tuy nhiên, từ khi chuyển vào, Dahlia bắt đầu trải qua những hiện tượng kỳ lạ và đáng sợ trong căn hộ, bao gồm những âm thanh lạ và những hiện tượng siêu nhiên. Khi điều tra, cô phát hiện ra rằng căn hộ từng xảy ra một vụ việc bi thảm liên quan đến một đứa trẻ. Nước bẩn từ hệ thống ống nước dường như mang lại những điều không may mắn và ám ảnh cho gia đình cô. Cùng lúc, Dahlia cũng phải đối mặt với những lo lắng về khả năng nuôi dưỡng con gái và sự giám sát của người chồng cũ. Phim kết hợp yếu tố kinh dị với những vấn đề tâm lý và xã hội, tạo nên một bầu không khí căng thẳng và ám ảnh. Dark Water không chỉ là một câu chuyện kinh dị mà còn là một tác phẩm về sự mất mát, nỗi cô đơn và tình yêu thương giữa mẹ và con.
    • 0 downloads
    Pather Panchali (1955) là bộ phim đầu tay của đạo diễn Satyajit Ray, được coi là một trong những kiệt tác của điện ảnh Ấn Độ và là phần đầu tiên trong bộ ba phim Apu. Phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Bibhutibhushan Bandopadhyay. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của một gia đình nghèo ở làng quê Bengal trong những năm đầu thế kỷ 20. Nhân vật chính, Apu, là một cậu bé sống cùng mẹ, Sarbajaya, và chị gái, Durga, trong một ngôi nhà đơn sơ. Gia đình họ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, từ sự nghèo khó đến mất mát và nỗi buồn. Durga là một cô bé nhạy cảm và mơ mộng, trong khi Apu là một cậu bé tò mò và ham học hỏi. Phim khắc họa những khoảnh khắc giản dị nhưng sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày của họ, từ những niềm vui nhỏ bé đến những nỗi buồn lớn lao. Satyajit Ray sử dụng những hình ảnh đẹp và nhạc nền tinh tế để tạo nên bức tranh sống động về cuộc sống nông thôn. Pather Panchali không chỉ là một câu chuyện về gia đình mà còn là một tác phẩm nghệ thuật sâu sắc, phản ánh sự đấu tranh của con người và tình yêu thương trong bối cảnh xã hội Ấn Độ. Phim nhận được nhiều giải thưởng và được xem là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong lịch sử điện ảnh.
    • 0 downloads
    Paint Your Wagon là một bộ phim nhạc kịch phát hành năm 1969, do Joshua Logan đạo diễn. Phim được chuyển thể từ vở nhạc kịch Broadway cùng tên và có sự tham gia của Lee Marvin, Clint Eastwood và Jean Seberg. Câu chuyện diễn ra vào những năm 1850 trong bối cảnh cuộc đổ xô tìm vàng ở California. Lee Marvin thủ vai Ben Rumson, một người tìm vàng lạc lõng, trong khi Clint Eastwood vào vai Jake, một người đàn ông trẻ tuổi cũng tham gia vào cuộc tìm kiếm vận may. Khi họ đến một khu định cư nhỏ, Ben và Jake cùng nhau xây dựng một cuộc sống, bao gồm việc thành lập một cộng đồng và kết bạn với những người khác trong vùng. Tuy nhiên, mọi chuyện trở nên phức tạp khi Ben rơi vào tình yêu với một người phụ nữ tên là Elizabeth (Jean Seberg), mà Jake cũng có tình cảm. Phim kết hợp các yếu tố hài hước, lãng mạn và âm nhạc, với nhiều bài hát nổi bật, tạo nên không khí vui tươi nhưng cũng phản ánh những thách thức của cuộc sống trong thời kỳ khai thác vàng. Paint Your Wagon mang đến một cái nhìn hài hước và nhẹ nhàng về giấc mơ Mỹ trong bối cảnh lịch sử.
    • 0 downloads
    North Dallas Forty là một bộ phim thể thao hài kịch phát hành năm 1979, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Peter Gent. Phim xoay quanh cuộc sống của một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, với sự tham gia của Nick Nolte trong vai chính— cầu thủ đầu ra của đội North Dallas Bulls. Câu chuyện theo chân cầu thủ phiêu lưu và trải nghiệm trong thế giới bóng đá Mỹ, nơi anh phải đối mặt với áp lực từ huấn luyện viên, những chấn thương và cuộc sống cá nhân hỗn loạn. Phim khám phá các khía cạnh khắc nghiệt của bóng đá chuyên nghiệp, từ sự thao túng của các đội bóng, sự tàn nhẫn của chấn thương đến những mối quan hệ rối ren giữa các cầu thủ. Thông qua các tình huống hài hước và châm biếm, North Dallas Forty không chỉ mang lại những pha hài hước mà còn làm nổi bật những khía cạnh nghiêm túc của thể thao, như áp lực và sự hy sinh mà các cầu thủ phải trải qua. Phim được coi là một tác phẩm kinh điển về đề tài thể thao, thể hiện rõ nét đời sống và những cạm bẫy trong thế giới bóng đá chuyên nghiệp.
    • 0 downloads
    K-19: The Widowmaker là một bộ phim chính kịch chiến tranh dựa trên sự kiện có thật, do Kathryn Bigelow đạo diễn và phát hành năm 2002. Phim xoay quanh chiếc tàu ngầm hạt nhân K-19 của Liên Xô, được gọi là "The Widowmaker" vì những tai nạn trước đó liên quan đến nó. Câu chuyện diễn ra vào năm 1961, khi K-19 được lệnh thực hiện một nhiệm vụ bí mật giữa Chiến tranh Lạnh. Trong quá trình tuần tra, tàu gặp phải sự cố nghiêm trọng: hệ thống làm mát của lò phản ứng hạt nhân bị hỏng, dẫn đến nguy cơ tan chảy. Đội ngũ thủy thủ, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Mikhail Polenin (Harrison Ford) và Thuyền phó Viktor Aleshin (Liam Neeson), phải đối mặt với tình huống khẩn cấp và quyết định liều mạng để cứu tàu và ngăn chặn thảm họa hạt nhân. Phim không chỉ tập trung vào những cuộc đấu tranh về mặt kỹ thuật và hành động, mà còn khai thác mối quan hệ giữa các nhân vật, những xung đột nội bộ và tinh thần đoàn kết trong khốn khó. "K-19: The Widowmaker" mang đến một cái nhìn sâu sắc về những thử thách mà thủy thủ phải đối mặt, cũng như sự hy sinh mà họ thực hiện vì nghĩa vụ và đất nước.