Jump to content

Joker

Quản Trị
  • Joined

Everything posted by Joker

    • 0 downloads
    Nhung xanh (Blue Velvet) là tác phẩm điện ảnh của đạo diễn David Lynch, ra đời vào năm 1986, tại Mỹ. Bộ phim này đã mang về cho David Lynch đề cử thứ hai giành cho đạo diễn xuất sắc nhất. Được dựng trên nền nhạc chủ đạo của bài hát nổi tiếng cùng tên, Nhung xanh xoay quanh câu chuyện kể về cuộc điều tra của anh sinh viên Jeffrey Beaumont khi nhìn thấy cái tai người thối rữa bị cắt lìa và nằm trên thảm cỏ. Lần theo những dấu vết thu thập được nhờ sự hỗ trợ của Sandy, con gái viên thám tử Williams, Jeffrey phát hiện ra cô ca sĩ Dorothy đang bị Frank, một tên trùm ma túy nguy hiểm khống chế tình dục sau khi bắt cóc chồng cùng với con trai của cô. Dorothy và bái hát Nhung xanh có sức quyến rũ, mê hoặc kỳ lạ với Frank và Jeffrey. Cuối cùng, Jeffrey bắn chết Frank, tiêu diệt thế giới ngầm đầy bạo lực và hung ác của hắn. Anh kết hôn cùng với Sandy, Dorothy tìm được con trai mình và từ đấy, họ sống cuộc đời hạnh phúc. Ngay từ nhan đề, tác phẩm Nhung xanh đã mang đến một ấn tượng về màu sắc. Ấn tượng này trở thành một ám tượng nghệ thuật xuyên suốt bộ phim. Màu sắc không chỉ hiện lên đơn thuần như những chi tiết có mặt một cách ngẫu nhiên mà trở thành các ẩn dụ. Mỗi gam màu chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng riêng biệt. Đồng thời, giữa các màu sắc có sợi dây nối kết và dẫn truyền sự tương tác, bện xoắn với nhau thành những tấm giấy quỳ nhạy cảm đo độ xung động của tâm trạng nhân vật và ý nghĩa biểu hiện của tác phẩm. Trước hết, màu sắc tạo nên một hiệu ứng đặc biệt cho không khí tác phẩm Nhung xanh trên màn ảnh. Phần lớn các cảnh phim được quay vào thời gian ban đêm và đặt nhân vật vào khung nền tối, nhiều góc khuất. Trên nên tối ấy, ba màu chủ đạo là đỏ, xanh thẫm và đen thường xuất hiện lặp đi lặp lại, phối kết với nhau. Sắc độ đậm của các gam màu khiến cho không gian trở nên đặc quánh, chật hẹp, tù túng, tạo ra một không khí thấm đẫm sự sợ hãi, hồi hộp trước những điều bí ẩn và nguy cơ hiểm họa luôn rình rập, đe dọa. Các gam màu phủ đầy thị giác của khán giả, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ và đặt họ vào tâm thế của một niềm dự cảm thường trực về một thế giới không yên bình, luôn tràn đầy bất trắc. Màu sắc tham dự vào hành trình dẫn dụ của tình tiết phim, dẫn dắt người xem bước vào không gian đậm chất noir, tràn ngập yếu tố bạo lực, sự méo mó của dục vọng và vây bọc con người trong nỗi sợ hãi không lối thoát. Ngay cả khi gần như xuất hiện một cách tình cờ, như là những yếu tố ngẫu nhiên thoáng qua trong khuôn hình, màu sắc vẫn là một chất liệu thể hiện dụng ý nghệ thuật dưới bàn tay sắp đặt của người đạo diễn. Màu đỏ tươi từ chiếc xe của Jeffrey; từ một dải vải vắt ngang trong phòng vũ hội, nằm im ở hậu cảnh; từ bức tường, chiếc ghế trong quán cà phê mà Jeffrey và Sandy ngồi, từ hình nộm bộ xương người trên chiếc giường trong căn hộ của Ben – thằng hề màu kẹo đang bắt giữ con trai của Dorothy – cho đến những cái áo đỏ, rìu đỏ chỗ những người bán hàng, bức tường gạch đỏ nơi thường diễn ra hành vi buôn bán ma túy của băng nhóm tội phạm, những bộ trang phục đỏ nổi bật lên giữa các đám đông tụ tập phía trước phòng vũ hội… Ánh sáng xanh và đỏ nối tiếp nhau trong bóng đêm cũng là luồng ánh sáng chủ đạo của tác phẩm: ánh đèn choáng ngợp trong hộp đêm Slow Club, ánh sáng đỏ đứt nối liên tục quét qua mặt Jeffrey và Sandy khi hai nhân vật đang di chuyển trên đường, đèn đỏ của xe cứu thương và đèn xanh trên nóc xe cảnh sát… Những dạng thức của màu sắc đậm đặc ngồn ngộn khắp không gian khuôn hình, gây nên ám ảnh về bạo lực, về những cuộc đổ máu, tạo nên những xúc cảm thị giác dữ dội, mãnh liệt. Nhìn từ một góc độ khác, màu sắc là chiếc phong vũ biểu của tâm trạng con người, những tâm trạng bị bức nén, rơi vào cơn khủng hoảng và nỗi bế tắc trầm trọng. Dorothy luôn xuất hiện trong chiếc váy màu nhung xanh hoặc đỏ thẫm. Căn phòng của người nữ ca sĩ có đời sống bí ẩn này cô đặc lại với tấm thảm nhung đỏ thường được đặt vào trung tâm khuôn hình, nơi diễn ra những cơn bạo dâm kinh hoàng dưới sức nặng khống chế bạo lực tàn ác của Frank. Màu sắc dường như phân chia thành hai tuyến thế giới đối lập, tồn tại song hành. Một bên là cái ác ngự trị, bủa vây và kéo tuột con người vế phía nó, lọt thỏm vào trong nó. Frank nắm vai kẻ thủ ác, vị lãnh chúa của bạo lực và tính dục với những ẩn ức méo mó, cuồng dại. Dorothy là nạn nhân của tội lỗi, đồng thời, lại hóa thành kẻ nô lệ tinh thần và dục vọng của thế giới tội lỗi ấy. Jeffrey đi truy tìm dấu vết và lột trần tội ác, nhưng trên hành trình của mình, chính anh cũng từng dịch chuyển dần và rơi vào cái bẫy quyến dụ tình dục đặt trên thân thể Dorothy. Ba nhân vật này là những kẻ dự phần hoặc bán dự phần vào thế giới bóng tối của tội ác. Chính vì vậy, trang phục mà Frank, Dorothy và Jeffrey khoác lên người luôn mang sắc độ đậm. Gắn liền với Dorothy là sắc màu nhung xanh và nhung đỏ. Frank và Jeffrey lẫn vào bóng tối bằng trang phục đỏ, xanh đậm hoặc đen. Trong khi đó, ở phía đối lập, Sandy lại hoàn toàn giữ nguyên trạng thái, đứng ở phía bên kia ranh giới của tội lỗi và là hiện thân cho sự thánh thiện, trong sáng tuyệt đối. Do đó, ở cô gái này, màu sắc luôn hiện lên bằng tất cả vẻ tươi tắn, dịu ngọt, trong lành, tương phản và tách biệt hẳn với thế giới đậm đặc bóng tối. Những chiếc váy luân chuyển từ hồng, vàng sang trắng và chiếc áo đầm hoa đã khắc tạc nên một Sandy thanh thoát, nữ tính. Những đối tuyến này được dự tính và biểu hiện ngay cả trên màu sắc hiện diện ở bề mặt khuôn hình, phân chia sự cảm nhận khác biệt của con người về hai đối cực: thế giới trong trắng, tinh khôi hướng thiện và thế giới tội lỗi, xấu xa, tàn tệ thấm đẫm cái ác. Đồng thời, ngay trong bản thân màu sắc cũng có sự phân đôi giá trị biểu trưng. Như ở trên đã phân tích, màu đỏ hiện hữu trong nhiều sắc độ, chuyển đổi từ đỏ tươi đến đỏ thẫm như một ám dụ về máu, về bạo lực, nỗi sợ hãi của con người. Tuy nhiên, màu sắc này cũng được lặp lại qua hai hình tượng: những bông hồng được quay dần từ dưới lên trong cảnh đầu và cảnh cuối, loài chim cổ đỏ trong giấc mơ của Sandy và xuất hiện ở hiện thực, đưa tác phẩm vào cái kết đầy chất “happy ending”. Sắc đỏ của hoa hồng và loài chim lại là ẩn dụ về tình yêu, hạnh phúc, về cuộc sống bình yên, trong trẻo, đối lập với sắc đỏ dự cảm tội lỗi và vây phủ cảm giác bất an. Nhung xanh – hình tượng trung tâm của bộ phim – gắn chặt với Dorothy, vừa là hiện thân cho cái đẹp, sự quyến rũ đầy ma lực, vừa tượng trưng cho nỗi đam mê, dục vọng. Dải nhung xanh mà Frank cắt ra từ chiếc váy đầm của cô ca sĩ đã hóa thành một vật thể thiết yếu thâm nhập vào những cuộc bạo dâm kinh hoàng giữa Dorothy và Frank. Đau đớn và hoan lạc cùng bộc lộ ở mức độ tột đỉnh, méo mó, quái đản. Màu mắt xanh thẫm và đôi môi đỏ thắm nổi bật khiến cho gương mặt của Dorothy đậm chất nhục cảm ấn tượng, cộng hưởng với sắc màu ngoại cảnh, tạo thành cấp số nhân cho không khí kỳ bí, huyền hoặc ma quái, vừa lôi cuốn, vừa tràn đầy kinh hãi. Ra đời vào năm 1986, Nhung xanh là một đứa con kỳ lạ của điện ảnh Mỹ khi mang trong mình hai dòng chảy: thể loại phim noir kết hợp với chất siêu thực, để rồi cuối cùng trở thành một trong những tác phẩm nghệ thuật kinh điển của thể loại phim noir mới (neo – noir genre). Sự kết hợp này cũng đã để lại dấu ấn lên yếu tố màu sắc xuyên suốt tác phẩm. Những gam màu đậm, có sức tạo ấn tượng lớn lao, mạnh mẽ, một mặt mang tính ám dụ đầy ám ảnh, một mặt mang tính ẩn dụ chứa đựng giá trị tượng trưng đã tô trám nền phim, tách những cảnh quay ra khỏi bối cảnh tự nhiên để đặt vào các không gian tạo hiệu quả nghệ thuật noir đặc thù. Những tấm giấy quỳ màu sắc ấy tham gia phản ứng tinh nhạy với hệ thống nhân vật, tình tiết, cấu trúc tác phẩm để cùng toát bật lên ý nghĩa của bộ phim. Và cuối cùng, với Nhung xanh, có thể thấy rằng người đạo diễn cũng cần là một họa sĩ của màu sắc để biến những thước phim của mình thành các bức tranh sống động, có sức gợi và giá trị biểu hiện cao.
    • 0 downloads
    "South Park: Bigger, Longer & Uncut" (1999) là bộ phim hoạt hình dựa trên series truyền hình nổi tiếng "South Park." Được đạo diễn bởi Trey Parker, phim mang đậm phong cách châm biếm và hài hước đặc trưng của series. Nội dung phim xoay quanh bốn nhân vật chính: Stan, Kyle, Cartman và Kenny, những cậu bé ở South Park, Colorado. Khi họ xem một bộ phim hài hước của một nhóm diễn viên nổi tiếng, họ bị ảnh hưởng và quyết định làm một phiên bản riêng với nội dung tục tĩu. Sự việc này dẫn đến những rắc rối, bao gồm việc cha mẹ của họ tức giận và kêu gọi cấm phim. Khi bộ phim trở thành một vấn đề quốc gia, cậu bé Stan và bạn bè phải đối mặt với những áp lực từ xã hội và các thế lực chính trị, dẫn đến một cuộc chiến giữa sự tự do ngôn luận và sự kiểm duyệt. Phim không chỉ mang lại những tiếng cười mà còn châm biếm sâu sắc các vấn đề xã hội như chính trị, tự do ngôn luận, và cách mà văn hóa đại chúng ảnh hưởng đến trẻ em. Với phong cách hoạt hình độc đáo và âm nhạc hấp dẫn, "South Park: Bigger, Longer & Uncut" đã trở thành một tác phẩm cult classic.
  1. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    Bộ phim kể về cuộc phiêu lưu của anh chàng tắc kè hoa Rango (Johnny Depp) tới miền Tây hoang dã. Điểm dừng chân của Rango chính là Dirt, một thị trấn khô cằn, khắc nghiệt như cái tên của nó vậy. Tài ba hoa, bốc phét cùng trò bắt chước vớ vẩn của anh bỗng nhiên trở nên hữu dụng. Rango được người dân tôn sùng, đưa lên làm cảnh sát trưởng. Nhưng cuộc sống tại Dirt bí ẩn, khó khăn hơn anh tưởng rất nhiều. Nguồn nước cung cấp cho cả thị trấn bị cắt đột ngột khiến người dân rơi vào cảnh hoảng loạn. Nhiệm vụ của chàng cảnh sát trưởng mới toanh đó là đi tìm lại nguồn nước và bắt giam kẻ chủ mưu đứng sau sự việc.
    • 0 downloads
    Ngôi sao của Triệu phú ổ chuột Dev Patel đã có một hành trình ngoạn mục tỏa sáng trong dự án đầy cá nhân Monkey Man (Monkey Man báo thù). Ngập tràn năng lượng điên rồ, các cảnh chiến đấu mãn nhãn, Monkey Man kết hợp hành động đỉnh cao trong một câu chuyện thấm đẫm sắc màu huyền hoặc của văn hóa Ấn Độ. Cơn giận của thần khỉ Nhân vật chính của Monkey Man là một thanh niên vô danh (Dev Patel đóng) kiếm sống bằng nghề võ phủi trong các sàn đấu ngầm ở Ấn Độ. Dần dần từng bước, anh leo lên các nấc thang xã hội tội phạm ngầm để đi tìm kẻ đã giết mẹ mình. Trên hành trình đó, anh đối diện với nỗi đau quá khứ và nhận ra kế hoạch trả thù của mình có thể giúp đỡ cả những số phận vô danh khác. Xuyên suốt trong câu chuyện là hình tượng thần khỉ Hanuman - một vị thần quan trọng trong văn hóa Hindu, đại diện cho sức mạnh, chính trực và lòng dũng cảm. Giống như nhân vật chính, Hanuman phải trải qua kiếp nạn trừng phạt, đau đớn khôn cùng để trở lại mạnh mẽ với sứ mệnh mới. Điều có lẽ khiến một nhà sản xuất nổi tiếng như Jordan Peele và công ty Monkeypaw Productions lựa chọn Dev Patel và Monkey Man có lẽ ở một thông điệp sâu xa hơn là câu chuyện hành động. Lồng ghép tính bình luận chính trị xã hội và thần thoại Hindu vào câu chuyện, tác phẩm khắc họa một xã hội bóc lột có hệ thống và sự tuyệt vọng của những tầng lớp dưới. Dev Patel cùng lúc làm xuất sắc ở cả hai việc: thực hiện các phân cảnh hành động quyết liệt và khắc họa chiều sâu cảm xúc cho nhân vật. Điểm nghỉ giữa các cảnh hành động, máy quay quét nhanh qua gương mặt tổn thương của nhân vật chính: ở đó ta thấy được cam kết báo thù lẫn sang chấn của quá khứ, hằn lên trong đôi mắt to lấp lánh. Cảnh phim nhân vật chính cầm khẩu súng run rẩy chĩa vào kẻ đã giết mẹ mình có thể thấy cái tầm của diễn xuất phi ngôn ngữ ở Dev Patel. Lần đầu ngồi ghế đạo diễn, làm ra luôn siêu phẩm hành động Kể từ Triệu phú ổ chuột (2008) cho đến Hành trình tìm mẹ (2016) và Hiệp sĩ xanh (2021), Dev Patel đã trải qua cả một chặng đường dài khẳng định bản thân. Trong nỗ lực thoát ra khỏi khuôn mẫu mà các diễn viên gốc Ấn thường đóng, nam diễn viên nhận ra nếu không tự mình tạo ra, cơ hội sẽ không bao giờ đến. Anh ấp ủ một dự án riêng, lấy cảm hứng từ tình yêu với thể loại hành động kết hợp với cội nguồn văn hóa Ấn Độ. Kid trong phim bầm dập bao nhiêu thì Dev Patel cũng phải trầy trật bấy nhiêu trong quá trình thực hiện Monkey Man. Nam diễn viên mất 8 năm để phát triển kịch bản từ ý tưởng về chiếc vòng cổ Hanuman của ông mình. Cho đến khi anh quyết định đạo diễn và quay phim thì đại dịch Covid-19 ập đến. Quá trình quay phim tại Ấn Độ bị gián đoạn, đoàn làm phim bị thiếu người trầm trọng, bản thân Patel bị chấn thương nặng: gãy cả chân tay khi mới bấm máy, tất cả khiến dự án phim suýt nữa thì trở thành thảm họa. Nhờ sự quyết tâm cùng tài năng phi thường, Dev Patel đã hoàn thiện được bộ phim với kinh phí vô cùng tiết kiệm. Thành quả là một Monkey Man mãn nhãn với các pha hành động dồn dập. Phần mở đầu nhẹ nhàng của phim nhanh chóng chuyển sang các phân cảnh chiến đấu, đã xác lập phong cách chung cho tác phẩm: đan xen giữa nhịp hành động tàn bạo là những hồi tưởng dịu dàng về quá khứ, cho thấy hiện thực nghiệt ngã mà Kid phải đối mặt. Anh ta có một tuổi thơ đẹp biết bao, nhưng tất cả đã bị cướp mất bởi những kẻ quyền lực ác ôn. Monkey Man có phong cách chiến đấu thống nhất với tính cách của nhân vật: hoang dã, bùng nổ, điên rồ và liều lĩnh. Điều phối viên chiến đấu Brahim Chab, cùng với Dev Patel, hướng tới cách tiếp cận thực tế đối với các cảnh chiến đấu. Nhân vật của Patel chiến đấu với tất cả những gì mình có, như một con thú anh ta bước ra khỏi mỗi trận chiến bầm dập và đầy thương tích. Có thể thấy sự tuyệt vọng trong mắt của Kid: sau tất cả đó chỉ là một con người, không phải tuýp anh hùng bất khả chiến bại thường thấy trên màn ảnh. Các kế hoạch của anh ta thông minh, nhưng không hoàn hảo, anh ta cố gắng giết một người nhưng quên rằng điều đó có nghĩa là đối đầu với cả hệ thống. Một khía cạnh quan trọng tạo nên sự độc đáo của Monkey Man đến từ triết lý "chơi dơ nhất có thể". Các trận chiến của Kid được đặc trưng bởi việc sử dụng vũ khí ngẫu hứng - miếng gỗ, chiếc giày, mảnh thủy tinh, chai tương ớt hoặc bất kỳ đồ vật nào có sẵn - để giành lợi thế, nhấn mạnh tính chất tàn bạo và hỗn tạp của các trận đánh nhau. Điều này hoàn toàn khác biệt với phong cách "Gun Fu" hay "khiêu vũ với súng" gọn gàng và giàu tính biểu diễn trong John Wick. Cảnh loạn đả trong nhà tắm của câu lạc bộ Kings Club đã cho thấy rõ phong cách "chơi dơ" của Monkey Man, gợi nhớ cảnh đấu tay đôi giữa nhân vật của Tom Cruise và Henry Cavill trong Nhiệm vụ bất khả thi: Sụp đổ (2018). Sở hữu khiếu thẩm mỹ tinh tế và mảng hành động hiệu quả, Monkey Man là minh chứng cho tầm nhìn nghệ thuật của Dev Patel và báo trước tiềm năng của anh trong vai trò đạo diễn. Tác phẩm xứng đáng là cột mốc đáng tự hào trong sự nghiệp của nam đạo diễn/diễn viên, cho thấy sức mạnh của lòng quyết tâm và sự đam mê, mở ra những cơ hội mới cho anh và trao tiếng nói cho người yếu thế.
    • 0 downloads
    “Love Lies Bleeding” là một phim neo-noir lấy bối cảnh những năm 1990 ở New Mexico, nước Mỹ, xoay quanh Lou (Kristen Stewart thủ vai) – một cô gái trẻ tuổi, quản lý phòng gym cho người cha không hợp tính và là tội phạm của mình. Trong một cuộc gặp, cô bị cuốn hút bởi “Jack” (Katy O'Brian đóng chính) – một nữ vận động viên mong muốn tham gia cuộc thi thể hình để đổi đời, và đã có với nhau một mối tình đẹp. Tuy vậy bởi những sắp đặt của số phận, Jack đã đổi tình lấy tiền với JJ – anh rể của Lou – một người đàn ông bạo lực, hay đánh đập vợ. Để trả thù cho chị gái mình, cả Jack và Lou đã bị cuốn vào một vòng xoáy lốc của bạo lực, trốn chạy và tội ác không ngừng mở ra và có quan hệ nhân quả. Liệu họ sẽ giải quyết chúng như thế nào, và có thể trốn thoát ra sao? Với một nội dung có phần “kinh điển” như đã kể trên, “Love Lies Bleeding” dễ dàng trở thành tác phẩm xuất hiện nhan nhản giữa những rạp chiếu. Thế nhưng nó đã vượt thoát khỏi số phận dễ dàng nhờ vào tay nghề của nữ đạo diễn Rose Glass. Là nhà làm phim kinh dị - giật gân ấn tượng, Rose hướng tác phẩm thứ 2 của bản thân mình cũng theo hướng đó, để thổi vào bộ phim “noir” tính “neo” khác biệt. Xuyên suốt tác phẩm, bộ phim mang đến cảm giác tương đối hoài cổ của motif kể chuyện cùng ánh sáng, màu sắc có phần gợi nhớ đến những tuyệt tác cùng dòng của David Lynch hay Quentin Tarantino. Ở đó có tội ác nối tiếp nhau thành hình, có những nhân vật gây ra ám ảnh ngay từ ngoại hình mà không cần đến diễn xuất của họ. Đạo diễn Rose Glass cùng nhà quay phim Ben Fordesman cũng thường trực mang đến cảm giác nôn nao, bức bối bằng những khung hình quay cận khuôn mặt diễn viên cùng một bối cảnh được thiết kế có phần chật chội. Rất ít những cảnh quay toàn, thay vào đó, bối cảnh trong phòng tập, trong nhà riêng, trong xe van... đều được giới hạn bởi 4 mặt dựng, ít nhiều thành công truyền tải được bầu không khí bên trong bộ phim thông qua hình ảnh tương đối thành công. Điều này cũng góp phần lớn cho sự tương phản trong nội dung câu chuyện, khi thể hiện được sự tương phản giữa cái chật chội và mênh mông, giữa những con người nhỏ bé và sự khổng lồ... Ngoài ra cũng phải kể thêm là những góc quay trên cao, máy quay được đặt song song với mặt đường... tạo ra những hiệu ứng khác lạ, không nhàm chán mà luôn có những điểm neo giữ mắt khán giả trên màn ảnh rộng. Đặt vào bối cảnh những năm 1990, Rose Glass cũng mang âm nhạc synthpop, synthwave vào khắp khung hình. Điều này cũng được thể hiện một cách khác biệt, trong những đoạn montage nhị sắc độc đáo mà chủ yếu là đỏ neon và đen khi các nhân vật mặt đối mặt với khán giả. Chính cái nhìn tách biệt, mang tính trực diện nói trên đã khiến người xem có nhiều góc nhìn mà không bị phân tán, một vẫn bám riết theo mạch truyện chung, nhưng cũng đồng thời được đi sâu vào tâm lý nhân vật, nơi những bẹo hình bẹo dạng hay trạng thái thức thần đã được tái hiện một cách đặc biệt. Hiệu ứng nói trên đặc biệt gợi nhớ đến “After Sun” cũng do A24 phân phối có Paul Mescal đóng chính, khi nữ đạo diễn trẻ tuổi Charlotte Wells cũng thể hiện những gì trong tâm trí của người cha ấy là một sàn nhảy với những chớp tắt liên tục diễn ra. Thêm vào điều đó, Rose Glass cũng mở tâm trí ra đến tận cùng, bằng những phân đoạn bất ngờ mang tính cường điệu hóa nhưng lại hợp lý một cách độc đáo. Phân đoạn Jack mê man bởi thứ thuốc kích thích tăng cơ, những đoạn cô bỗng hóa thành Gulliver và những người lùn Lilliput ở phía sau cuối hay cảnh quay cận vào sự nở nang cơ bắp... là những huyễn tưởng gần như không thật, cuốn hút độc giả. Trong không khí thức thần của psychedelic với khung cảnh bức bối, quay cận, ánh sáng ma mị của đỏ neon và tối mù mù cũng như những khung cảnh bạo lực không hề che đậy... Rose Glass và đạo diễn hình ảnh Ben Fordesman đã mang đến được những thước phim độc đáo. Nó vừa là vở bi hài của những diễn biến nối tiếp liền nhau, nhưng cũng đồng thời làm cho người xem cảm nhận tất cả bằng nhiều giác quan, dẫu bởi hiệu ứng thị giác hay tưởng tượng không tưởng. Có thể nói “Love Lies Bleeding” đã rất thành công khi thực thể hóa cảm giác bằng hình ảnh, đem đến một trải nghiệm xem ám ảnh và đầy khác biệt. Những vai diễn khác biệt Được công chiết lần đầu tại LHP Sundance 2024 và nhận được những lời khen có cánh, những điều nói trên không hẳn không có lý do khi theo dõi suốt thời lượng của toàn bộ phim. Không chỉ có tài năng của đạo diễn và nhà quay phim, mà về khía cạnh diễn xuất, cặp đôi Kristen Stewart và Katy O'Brian cũng đã mang đến những thước phim ấn tượng. Nhân vật Lou của Stewart tuy chịu nhiều ám ảnh tâm lý, nhưng hóa ra vai trò lớn nhất của cô là đứng phía sau hỗ trợ cho Jack. Xuyên suốt bộ phim, nữ diễn viên đã làm rất tốt vai trò của mình, khi trở thành người dọn dẹp cho những bi kịch nối tiếp nhau. Ở vai này, người ta không thấy tính bi, mà thay vào đó là sự hài hước đã được truyền tải một cách ý nhị. Chính sự không rõ ràng hay hắc bạch vô thường giữa những cảm xúc đó đã làm nên thành công cho Kristen Stewart, đưa cô lên hàng ngũ những ngôi sao triển vọng của Hollywood so với thời vẫn còn bị chê là đơ cứng và thiếu cảm xúc trong những bộ phim ở quãng đầu sự nghiệp. Cùng với Stewart, Katy O'Brian cũng có vai diễn để đời của riêng mình. Nữ diễn viên theo đó đã truyền tải được một cách rõ ràng những sự ngờ nghệch cũng như ngây thơ của một cô gái mới lớn. Tuy vậy điểm quan trọng hơn là với một khuôn cơ thể có phần “hoành tráng” của một vận động viên thể hình mà O’Brian vẫn rất xuất sắc trong việc hóa thân thành người phụ nữ điên cuồng khi yêu. Cả hai cùng nhau có được chemistry rất ổn, khiến cho tác phẩm trở nên chân thật với hai nhân vật đa sắc và đầy thú vị. Hai nhân vật khác cũng có vai diễn để lại ấn tượng là Ed Harris – người cha ghẻ lạnh của Lou, và Anna Baryshnikov – trong vai Daisy, người nắm bắt mọi bí ẩn và biến nó thành lợi thế của bản thân mình. Cả hai không có ngoại hình đúng chuẩn, thế nhưng với việc đặt để vào các nhân vật có cá tính độc lập và khác biệt, thì không thể phủ nhận cả hai đã làm rất tốt vai trò của mình, để mang đến một tác phẩm như tàu siêu tốc của nhiều cảm xúc hỗn loạn. Tuy vậy không thể phủ nhận “Love Lies Bleeding” vẫn còn tương đối yếu điểm, một trong số đó là những đột phá bên trong mạch truyện. Cũng thuộc motif là các tình tiết bất ngờ đến không tưởng, nhưng nếu “Everything Everywhere All At Once” có tính thuyết phục bởi kết cấu chặt chẽ, thì ở tác phẩm này, mọi thứ dường như vẫn còn quá nhanh và bị cường điệu. Cái kết cuối cùng khi Jack biến thành Gulliver và cư xử với tội ác như Lilliput dễ khiến ta hiểu là những diễn biến trong tâm trí do chất tăng cơ, nó cũng đồng điệu với cảm xúc của khán giả (những người tin rằng cái thiện chiến thắng cái ác), thế nhưng liệu nó có là hoàn toàn hợp lý, mang tính thuyết phục? Dẫu biết xét về đường dây theo công thức “khẩu súng của Chekhov” nó rất phù hợp khi Rose Glass đã lồng ghép chi tiết này từ trước cũng như vai trò là vận động viên thể hình, nhưng có gì đó giữa hai bến bờ hư – thực vẫn còn tách bạch, chưa hòa làm một. Xét về ý tưởng đây là một hướng đi thông minh, gây được bất ngờ, nhưng xét về sự thống nhất, nó lại đôi khi khiến cho tác phẩm trở nên bị cường điệu hóa, còn khán giả cảm thấy như đang bị lừa với một cái kết không thể nào chóng vánh hơn nữa. Thế nhưng xét ra rộng hơn, “Love Lies Bleeding” vẫn là một tác phẩm neo-noir đáng giá, đáng xem và đáng cảm nhận. Tuy nội dung không mới, nhưng chính các sáng tạo trong mặt hình ảnh, quay phim và âm thanh cũng như diễn xuất đã mang đến một bộ phim bất ngờ, không ngừng đánh lừa người xem cho đến sau cùng. Qua đó A24 ngày càng khẳng định vị thế của một studio khác biệt, lạ lẫm, còn Rose Glass cũng có tác phẩm thứ 2 đưa cô lên hàng ngũ những đạo diễn “mới nổi” có nhãn quan khác biệt, và trong tương lai, việc đứng ngang hàng với những Ari Aster hay Yorgos Lanthimos là không xa vời.
    • 0 downloads
    Bộ phim “Fear and Loathing in Las Vegas” được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên được chắp bút bởi Hunter S. Thompson, với sự tham gia diễn xuất của Johnny Depp trong vai Raoul Duke, Benicio del Toro trong vai Bác Sĩ Gonzo hay nhiều gương mặt dễ nhận biết như Cameron Diaz, Tobey Maguire có lẽ là một trong những tác phẩm biểu tượng về văn hóa thức thần sống động. Không ngoa khi nói chính tác phẩm đã phác họa bầu trời thức thần mang nhiều trải nghiệm, tiếp cận người xem theo chiều hướng hài hước dí dỏm dễ lay động sự tò mò của người xem. Và mặc dù vẫn có nhiều ý kiến trái chiều về sự phức tạp mơ hồ khó định hình hay cường điệu điên cuồng của nhịp phim, nhưng bỏ ra gần 2 tiếng để xem lời thì thầm hỗn độn của Duke và tiến sĩ Gonzo trong cơn phê hỗn tạp cũng không hẳn là lãng phí thời gian đâu. Khá thú vị ở đây là bộ phim lời thuật lại câu chuyện của nhân vật chính Raoul Duke nhưng không hẳn là một câu chuyện. Nội dung phim có thể xem là sự xoay quanh hành trình giấc mơ Mỹ nhưng tẩm “đủ mùi vị chất kích thích” từng tồn tại trong lịch sử loài người của Raoul Duke và Dr. Gonzo. Không có sự phát triển nhân vật cụ thể hay tình huống trong phim không đặt nút thắt và gỡ bỏ, bộ phim không hẳn đặt câu chuyện vào trong phim mà thay vào đó là một chuỗi hình ảnh minh họa trải nghiệm từng loại chất của bộ đôi. Chính vì yếu tố kể chuyện rời rạc cũng như phim được công chiếu vào năm 1998, năm mà có quá nhiều tác phẩm mang nặng yếu tố phát triển nội dung như The Truman Show, Pi, Les Miserable khiến Fear and Loathing không được giới phê bình đón nhận, thậm chí là phản ứng gay gắt. Tuy nhiên, với một bộ phận khán giả cũng như mình, một người đã giành ra gần 2 tiếng để cảm nhận bộ phim này, lại đặt bộ phim ở một vị trí khác. Những từ đầu tiên khi xem bộ phim này là nó “bệnh hoạn”. Bệnh hoạn ở đây không phải là quá suy đồi hay đồi bại, mà nó mô phỏng quá sát với thực tế theo một cách trần trụi. Đây là một bộ phim được chuyển thể từ một cuốn tiểu thuyết, trung thành bám sát vào nguyên tác. Điều khác biệt ở đây là cách các nhà làm phim biểu đạt cuốn tiểu thuyết đó qua những hiệu ứng hình ảnh cùng giọng kể châm biếm của nhân vật Raoul Duke, một phóng viên tới Las Vegas tác nghiệp về sự kiện đua xe địa hình, khiến cho bất kỳ người xem nào cũng có cảm giác như đã từng trải qua những loại chất đó. Cả 2 nhân vật Raoul Duke và Dr.Gonzo vô tư thả hồn biểu cảm như thể họ thật sự dùng những chất kích thích đó. Cả phim lẫn nguyên tác đều miêu tả về hàng tá chất kích thích. Ngay từ những phân cảnh đầu tiên cả 2 vi vu trên hoang mạc để đến Las Vegas tác nghiệp đã đánh phủ đầu cuộc hành trình mà ta sẽ trải qua cùng họ. Hành trang giúp ta đi đến mọi cung bậc cảm xúc, mọi vũ trụ sặc sỡ lên, xuống, hét, cười bao gồm 2 bịch can sa, 75 viên nén mescaline, 5 sheets LSD, ½ hủ cocaine, 24 chai chiết xuất thuốc phiện, 1 thùng bia, 1 chai tequila, 1 chai rượu rum, 1 thùng bia và 1 hủ ether nguyên chất. Duke cũng cảnh báo về việc lo ngại nhất là sử dụng ether vì “Trên thế giới này, chẳng có gì vô vọng, vô trách nhiệm và suy đồi hơn 1 gã đang trong cơn say ether đâu. Và tôi biết chúng tôi sẽ sa đọa tới mức đó sớm thôi”. Cũng phân cảnh đó, cả 2 nhân vật cũng đang trong tình trạng “không được tỉnh táo” khi lái xe, Duke bận xua đuổi bầy dơi giữa chốn hoang mạc nắng nóng còn Dr.Gonzo “điềm tĩnh” cầm súng trên vô lăng. Ta không biết ngay từ đầu phim họ đã dùng chất gì, nhưng chất đầu tiên ta thấy họ dùng là cocaine và trước khi đến Las Vegas là LSD. Duke khi bước vào quán bar tại khách sạn nơi họ tạm trú thì hiệu ứng của LSD bắt đầu lan tỏa, anh thấy những gương mặt xung quanh trở thành những con bọ sát dơ dáy và đang ngập ngụa trong một bãi cứt, ánh sáng nhấp nháy màu sắc hoảng loạn, âm thanh nhiễu loạn tách biệt với giọng kể của Duke tạo nên khung cảnh đầy hỗn tạp – cách để tạo cho khán giả cảm nhận cơn hoang tưởng khi dùng LSD của nhà làm phim Terry Gilliam. Khi nhận phòng, Duke nhìn thấy ánh sáng tím từ đèn neon bên ngoài trở thành một con rắn len lỏi khắp bầu trời, còn TV trong phòng đang chiếu phóng sự về chiến tranh Việt Nam khiến cơn ảo giác của Duke ngập tràn bạo lực, máy bay và bom rơi xuống đầu khiến Duke âu lo đến mức chui rúc trong góc phòng. Trải nghiệm tiếp theo mà chúng ta dừng bến đó là ether, hay trong phim còn gọi là chất kích thích của quỷ dữ. Khung cảnh mà đạo diễn lựa chọn để diễn tả hiệu ứng của chúng là ở 1 rạp xiếc. Theo lời tác giả, ether khiến bạn như lạc vào một dân làng say khước, mất kết nối giữa não bộ và cơ thể bạn, hành động một đằng, nhận thức một nẻo. Góc quay rung lắc tạo cảm giác nhân vật không còn tự chủ khả năng vận hành cơ thể khiến cả 2 đi đứng loạng choạng. “Tầm nhìn bị mờ mịt, không còn thăng bằng, lưỡi thì tê dại chẳng còn cảm giác, tâm trí giật mình trong sợ hãi.” Không chỉ rung lắc, góc quay còn chiếu từ dưới lên cho ta thấy nhân vật to lớn hơn những chú hề trong rạp xiếc khiến nhân vật cũng cảm thấy mình to lớn hơn so với những thứ khác xung quanh. Rung lắc và phóng to thu nhỏ, hình ảnh chợp giật khiến hiệu ứng ether như đúng nghĩa là con quỷ dữ của sa đọa, và những phân cảnh xiếc là cực hình mà ta phải trả giá. Lược qua đến phân cảnh cao trào khi Duke đạt tới giới hạn của sự ám ảnh – góc quay xoay điên đảo, màu sắc rực rỡ bảo hòa nhau, hình ảnh méo mó, biến dạng, họa tiết chuyển động liền hồi. Hiệu ứng thức thần bắt đầu hiệu nghiệm bao trùm tâm lý nhân vật – quỷ dữ và ác mộng nước Mỹ. Sự sợ hãi lộ hẳn ra bên ngoài trong điên cuồng, mất kiểm soát cho đến tan nát, tuyệt vọng, vô phương hướng. Sau khi tỉnh dậy, khung cảnh xung quanh Duke trong phòng là sự hoang sơ, tan nát, máu me đến mức độ tục tĩu. Tới đây, Duke định hình lại mọi thứ bằng sự thực tế từ những quyết định của mình, trở nên suy sụp tinh thần và cuối cùng là nhận thức . Phần cuối của bộ phim mang ta về lại cảnh chiếc xe chạy vi vu trên hoang mạc nhưng sau khi nhận thức được hậu quả cùng với đó là chiếc quốc kỳ Mỹ phấp phơi trên đường về như thể đã tìm thấy giấc mơ Mỹ, đạt được đích đến của cuộc hành trình. “Mớ hỗn độn” có lẽ là từ ngữ phù hợp nhất miêu tả cho bộ phim này thay vì “bệnh hoạn”. Bộ phim có thể khiến ai xem tưởng chừng như cổ xúy chất kích thích. Nhưng trái lại, đây là hình ảnh phản chiếu sự bê bối đến tận cùng của sự vô trách nhiệm trong cuộc sống của chính mình thông qua một người từng trải trực tiếp như Raoul Duke. Dẫu cho có nhiều sự gièm pha tiêu cực từ giới phê bình, dẫu cho nó quá kỳ lạ với văn hóa nghệ thuật, nhưng “Run sợ tại Las Vegas” vẫn là đại diện tiêu biểu “ngông cuồng” cho văn hóa thức thần và của quý dành cho văn hóa đại chúng mà bạn nhất định nên xem.
    • 0 downloads
    Không phải tự nhiên mà Chinatown được đề cử đến 10 giải Oscars và nằm trong list 10 phim thriller hay nhất mọi thời đại của AFI. Một trong những kịch bản xuất sắc nhất lịch sử điện ảnh với những gợi ý về sự thật được cài cắm xuyên suốt bộ phim mà chỉ có những khán giả thông minh và tinh ý nhất mới nhìn ra được. Cùng với đó là diễn xuất tuyệt vời của dàn diễn viên và đương nhiên, không thể thiếu một cái kết khiến người xem á khẩu. Không thể không nhắc đến màu phim mang hơi hướm hoài cổ, vừa gợi sự bí ẩn cho bộ phim, vừa mang cái tông màu chập choạng đúng chất một Chinatown về đêm. Một tác phẩm trinh thám chuẩn mực. Bộ phim kể về J.J.Gittes, một thám tử chuyên đi điều tra các vụ ngoại tình. Một ngày nọ, anh ta được thuê bởi Evelyn Mulwray để điều tra ông Hollis, chồng bà ta hiện đang là kĩ sư. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, anh ta mới phát hiện ra người thuê mình là Evelyn “rởm” vì anh ta bị Evelyn “thật” đâm đơn kiện. Sau đó, Hollis bất ngờ chết đuối trong bể nước. Từ đây, Gittes quyết định đi tìm hiểu sự bất thường trong vụ này và đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng. Thứ ám ảnh mình và có lẽ là phần lớn khán giả nhất trong bộ phim chính là cái kết. Một cái kết u ám và đen tối. Những tưởng khi chiếc xe màu trắng rồ ga phóng đi thì Evelyn và Katherine cuối cùng cũng thoát khỏi móng vuốt của Noah Cross. Nhưng khi nó thậm chí còn chưa khuất hẳn trong bóng đêm phố Tàu thì đã phải dừng lại. Và khi mình nghe tiếng còi vang lên thì mình gần như biết chắc điều gì đã diễn ra. Chỉ có điều nó thảm hơn mình tưởng nhiều. Cảnh ghê tởm nhất trong phim không phải là lúc plot twist cuối cùng cũng hé lộ khi Evelyn hét lên với Jake “She’s my sister and my daughter” mà là khi đám người kia đến chỗ chiếc xe ô tô. Cảm tưởng như cả thế giới sụp đổ lúc Escobar mở cửa chiếc xe khiến xác của Evelyn rơi ra, để lộ một con mắt bị đạn bắn xuyên đến nỗi văng ra xa. Nếu đó không phải là con mắt mà là trán hay ngực thì có lẽ đã không gây hiệu ứng lớn đến thế. Và cũng cùng lúc khán giả nhìn thấy lỗ thủng ở con mắt của Evelyn, Katherine được Noah Cross đưa ra khỏi xe, nói vài câu an ủi và bịt mắt lại sau khi chứng kiến mẹ mình chết ngay trước mắt. Một hành động tưởng chừng như rất đỗi bình thường nhưng cũng chính là bắt đầu cho chuỗi ngày địa ngục của Katherine. Cô gái trẻ hét lên vì hoảng sợ mà đâu biết có những việc còn kinh khủng hơn đang chờ mình phía trước. Ánh mắt của Noah lúc đó khiến khán giả phải rùng mình. Ông ta buông vài lời giả tạo, xen lẫn cả ánh mắt thỏa mãn vì bây giờ đứa con gái/cháu gái đã về tay ông. Gittes thì đứng đó với một khuôn mặt trống rỗng, không cảm xúc, chỉ biết nói một câu tự trách bản thân “Do as little as possible”. Vì anh ta biết tất cả những nỗ lực đấu tranh vì công lí của mình đã tan thành mây khói. Cảnh sát mau chóng thả anh ta, người cộng sự thì lôi anh ta đi và nói một câu tựa như không: “Forget it, Jake. It’s Chinatown”. Đám đông hiếu kì đứng lại dòm ngó một lúc rồi ai cũng về nhà nấy. Tất cả đã kết thúc. Kết phim có lẽ không dành cho những người yếu đuối vì họ sẽ phải đối mắt với một hiện thực tàn nhẫn: Cuộc sống vốn không công bằng. Mạnh sống, yếu chết. Có những quy luật dù có cố gắng cỡ nào cũng không thể phá vỡ được. Nàng Evelyn xinh đẹp nửa cuộc đời đấu tranh để bảo vệ chính mình và cô con gái khỏi con quái thú kia cuối cùng phải nhận một cái chết thảm thương. Gittes làm việc vì công lí cuối cùng phải đầu hàng trước những kẻ có tiền và quyền. Một vòng lặp luẩn quẩn nữa lại bắt đầu. Noah Cross sẽ tiếp tục làm cái việc ghê tởm mà ông đã làm với Evelyn, nhưng lần này là với Katherine. Gittes lại thêm một lần nữa thất bại ở Chinatown. Anh một lần nữa không thể bảo vệ người mà mình muốn bảo vệ. Câu thoại cuối cùng của phim: là một trong những câu thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử điện ảnh. Các bạn có thể tìm thấy rất nhiều bài phân tích mổ xẻ về ý nghĩa của câu nói này trên các diễn đàn, topic về phim ảnh. Nhưng tựu chung lại, nó tóm gọn sự thật phũ phàng về cuộc sống ngoài kia, cuộc sống mà con người ta đạp lên nhau để tồn tại. Roman Polanski đã đúng khi quyết định thay đổi cái kết thay vì một “happy ending” như ban đầu. Đó là một trong những nhân tố quan trọng nhất đóng góp vào sự xuất sắc của bộ phim. Nếu đổi lại là cái kết ban đầu, người ta đã không nói nhiều về nó nhiều thế. Nó đã không gây ám ảnh đến vậy. Tóm lại, Chinatown là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc nhưng quá đỗi tàn nhẫn. P/S: Nếu yêu thích Chinatown và là fan cứng cựa của dòng phim neo-noir, các bạn hãy thử nghía qua L.A Confidential, tác phẩm dành giải Oscars cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất năm 1998. Khá chắc bộ phim sẽ không làm các bạn thất vọng đâu.
    • 0 downloads
    "Bad Lieutenant" (1992) là một bộ phim tâm lý tội phạm do Abel Ferrara đạo diễn, với Harvey Keitel vào vai một viên cảnh sát tham nhũng. Phim khai thác sâu sắc những vấn đề về đạo đức, tội phạm và sự suy đồi của con người. Nội dung chính xoay quanh nhân vật viên cảnh sát (Keitel), người đang bị cuốn vào cuộc sống tội lỗi, sử dụng ma túy, cá độ và lạm dụng quyền lực. Anh ta đang điều tra một vụ hiếp dâm mà nạn nhân là một nữ tu, nhưng đồng thời lại phải đối mặt với những mâu thuẫn nội tâm và cuộc sống đổ vỡ của chính mình. Bộ phim không chỉ tập trung vào hành động tội phạm mà còn đi sâu vào tâm lý và cảm xúc của nhân vật chính, thể hiện sự xung đột giữa cái thiện và cái ác, cũng như những nỗ lực tìm kiếm sự cứu rỗi. "Bad Lieutenant" nhận được nhiều lời khen ngợi vì cách xây dựng nhân vật và sự thể hiện mạnh mẽ của Keitel.
    • 0 downloads
    "The Stepfather" (1987) là một bộ phim kinh dị tâm lý do Joseph Ruben đạo diễn, với Terry O'Quinn trong vai chính. Phim xoay quanh câu chuyện về một người đàn ông tự xưng là một người cha lý tưởng nhưng thực chất lại mang một quá khứ tội lỗi và bệnh hoạn. Nội dung phim bắt đầu khi Jerry Blake, một người đàn ông vừa ly hôn, bắt đầu xây dựng cuộc sống mới và trở thành cha dượng của gia đình cô gái trẻ, Stephanie. Ban đầu, Jerry được xem là một người chồng và cha dượng hoàn hảo, nhưng dần dần, những dấu hiệu bất thường và những hành vi đáng ngờ của ông bắt đầu lộ diện. Khi Stephanie và gia đình cô phát hiện ra những bí mật đen tối về quá khứ của Jerry, họ trở thành mục tiêu của sự cuồng loạn và bạo lực. Câu chuyện phát triển thành một cuộc chiến sinh tồn, khi Stephanie cố gắng bảo vệ bản thân và gia đình khỏi người cha dượng mà cô từng tin tưởng. Phim nổi bật với bầu không khí căng thẳng, diễn xuất ấn tượng của Terry O'Quinn, người đã nhận được nhiều lời khen ngợi về vai diễn của mình. "The Stepfather" không chỉ đơn thuần là một bộ phim kinh dị, mà còn khám phá các chủ đề như sự giả dối, sự tan vỡ của gia đình và sự tìm kiếm tình yêu và sự chấp nhận. Phim đã trở thành một tác phẩm cult và dẫn đến nhiều phần tiếp theo cũng như phiên bản làm lại sau này.
    • 0 downloads
    "Once Upon a Time in the West" (1968) là một bộ phim Tây phương kinh điển do Sergio Leone đạo diễn, nổi tiếng với phong cách kể chuyện và hình ảnh mạnh mẽ. Phim là một câu chuyện sử thi về sự chuyển mình của miền Tây nước Mỹ, mang đậm dấu ấn của thể loại spaghetti western. Nội dung phim xoay quanh ba nhân vật chính: Jill McBain (do Claudia Cardinale thủ vai) - một người phụ nữ vừa trở về từ thành phố để xây dựng một cuộc sống mới với chồng, chỉ để phát hiện ra rằng gia đình của cô đã bị giết bởi một băng nhóm tội phạm. Harmonica (do Charles Bronson thủ vai) - một kẻ bí ẩn với quá khứ đen tối, người mang theo một chiếc harmonica và có mục tiêu riêng trong cuộc sống. Frank (do Henry Fonda thủ vai) - một tên tội phạm lạnh lùng, người đứng đầu băng nhóm đã gây ra những cái chết và hỗn loạn. Câu chuyện diễn ra khi Jill cố gắng bảo vệ tài sản của gia đình mình khỏi những kẻ xấu, trong khi Harmonica có những kế hoạch riêng để đối đầu với Frank, một kẻ đã có những tội ác tồi tệ trong quá khứ. Phim khám phá các chủ đề như báo thù, sự mất mát, và sự thay đổi trong xã hội miền Tây. Với những cảnh quay ấn tượng, âm nhạc nổi bật của Ennio Morricone và các tình tiết kịch tính, "Once Upon a Time in the West" đã trở thành một tác phẩm kinh điển của điện ảnh, được đánh giá cao bởi cả khán giả và giới phê bình.
  2. Joker posted a file in Điện Ảnh
    • 0 downloads
    "Narc" (2002) là một bộ phim tội phạm tâm lý do Joe Carnahan đạo diễn, với sự tham gia của Jason Patric và Ray Liotta. Phim xoay quanh câu chuyện của Nick Tellis, một cựu cảnh sát bị sa thải vì các vấn đề cá nhân, được mời trở lại để điều tra cái chết của một đồng nghiệp trong đơn vị chống ma túy. Khi Nick hợp tác với cảnh sát viên hạng nặng Henry Oak, họ cùng nhau khám phá những bí ẩn xung quanh vụ án, trong đó bao gồm các mối liên hệ với ma túy và sự tham nhũng trong lực lượng cảnh sát. Qua quá trình điều tra, Nick không chỉ phải đối mặt với những thử thách nghề nghiệp mà còn với những ám ảnh và tội lỗi trong quá khứ của mình. Phim nổi bật với phong cách quay phim tối tăm, có cảm giác hồi hộp và căng thẳng, cùng với những tình tiết đầy bất ngờ. Phim khai thác sâu sắc các chủ đề về đạo đức, sự bất công và những cám dỗ trong cuộc chiến chống tội phạm. Với diễn xuất ấn tượng của Jason Patric và Ray Liotta, "Narc" đã nhận được nhiều đánh giá tích cực và được coi là một trong những bộ phim tội phạm nổi bật của đầu những năm 2000.
    • 0 downloads
    Năm 1994, nếu có ai đó điều tra về thành phần của những người đã mua vé vào xem The Crow chắc chắn sẽ chỉ có 3 loại : dân goth, những người hâm mộ bộ truyện The Crow (t/g Jame O’Barr) và những kẻ tò mò muốn xem bộ phim cuối cùng của Brandon Lee (người đã tử nạn khi bộ phim gần đóng máy). Hiển nhiên là 3 loại khán giả này cũng có sự chuyển hoá lẫn nhau và nói chung là họ đều không chờ đợi điều gì từ bộ phim này, miễn sao nó không quá xoàng là ổn rồi. Ấy vậy mà tất cả đều đã ra khỏi rạp với một sự bất ngờ (có thể nói là khủng khiếp) và kể từ đó đến nay, The Crow đã trở thành một trong những cult movie được tôn thờ bởi vài ba thế hệ khán giả, kể cả khi họ không phải là dân goth( những người hiển nhiên sùng bái hình tượng Eric Draven của Lee đến phát cuồng ). Quần áo da đen bó sát, goth rock, corpse paint , người chết sống lại , Halloween, những điều huyền bí, một thành phố tội ác trong những đêm mưa ướt át bất tận … tất cả xoay quanh một câu chuyện đơn giản : tay rocker Eric Draven (Lee) đã chết được Con Quạ đưa trở lại dương thế để trả thù bọn vô lại đã giết anh và vợ chưa cưới. Nghe có vẻ quá đơn giản nhưng đó là một câu chuyện có đầy đủ các sắc thái, có tội ác và tình yêu đối chọi nhau, có sự độc ác mạnh mẽ đối lập với lòng nhân yếu ớt, ai thích những bộ phim có “thông điệp” – The Crow có, mặc dù nó vẫn là một phim action/thriller đúng nghĩa. Tất nhiên, câu chuỵện cũng không hẳn là quá hoàn hảo, nhưng cũng không cần quá khắt khe để thấy rằng câu chuyện ngắn gọn của The Crow chính là một ưu điểm, tuyến truyện logic và liên kết chặt chẽ chẳng lẽ lại không phải là ưu điểm ? Sẽ không ai thấy một chi tiết què quặt nào trong The Crow. Hơn nữa, theo như Roger Ebert , người mà trong hầu hết các trường hợp có những nhận xét tinh tế, thì nếu như người ta cố bồi da đắp thịt thêm cho The Crow , phát triển câu truyện và các nhân vật cho thêm phức tạp thì chưa chắc bộ phim đã thành công đến thế, vì điều quan trọng ở The Crow không phải là cốt chuyện mà là cái không khí, cái thế giới goth kỳ lạ mà đoàn làm phim đã tạo ra. Thực vậy, thường thì những hình ảnh mà chúng ta thấy trong phim là để kể một câu chuyện, còn với The Crow , câu chuyện dường như chỉ để liên kết một loạt các hình tượng, hình ảnh mà cái đẹp của nó hình như đã đạt đến độ toàn bích. The Crow hầu như đã truyền tải lại toàn bộ phong cách tạo hình từ bộ truyện gốc ,tất nhiên là không tái hiện truyện tranh đến mức cho cả các chấm tram xuất hiện trên phim như Sin City sau này mà đó là những mảng tường sáng tối tương phản manh như film-noir của những toà nhà tồi tàn nhơ nhớp trong mưa, những cú máy lúc thì bay cao tít cùng đôi cánh của con quạ, lúc lại sát sạt vào con dao sáng loáng đang xoay vù vù , là gương mặt corpse paint của Lee lúc sầu bi đến ngạt thở lúc lại không khác gì một thiên thần của Ngày phát xét …. Tất cả đều sặc mùi trầm cảm, u uất mà vô cùng huyền ảo của dân goth, của nghệ thuật goth, tranh goth, ảnh goth, nhạc goth . Những nhân vật như Eric Draven – người hùng u ám với dáng cao gầy thất thểu, Top Dollar – trùm của các trùm,tàn ác, mưu mô mà phong độ bá vương và cực kỳ duy mỹ, hay Myca do một Bai Linh thời son trẻ thủ vai , quyến rũ, bí ẩn đến chết người , tất cả như bước ra từ bộ truyện tranh goth mà Jame O’Barr sáng tác sau khi vợ mất , như thực sự thoát thai từ bài thơ buồn và rùng rợn The Raven của Edgar Poe. Có lẽ hiếm có (hay là không hề có) một phim nào mà khâu thiết kế visual style lại thành công đến như thế, hoàn mỹ đến thế (ngay cả Dark City hay Sin City cũng khó mà so sánh được với nó), Một trong những hình ảnh đẹp nhất là cú toàn cảnh khi Brandon Lee đứng ở bên trái khuôn hình, và từ từ một con quạ lửa cháy rực lên, ấn tượng nghẹt thở … Một rockfan kỳ cựu nói rằng :”Cốt truyện của “The Crow” không có gì đặc biệt, nhưng nó có quá nhiều thứ đáng để mắt đến hơn. Xem xong chỉ muốn đi boot mặc áo choàng trèo lên mái nhà ngồi cạnh ống khói (một hình ảnh đẹp trong phim, Lee ngồi một mình trên mái nhà và chơi một đoạn guitar solo ai oán – NV) . Đi trả thù đánh đấm be bét nhưng không quên treo đàn lên mắc áo trước khi hành sự, quả đúng là tinh thần rock n’ roll! “. Lại cũng cần phải trích thêm cả ý kiến của Roger Ebert : “Có nhiều lúc bộ phim giống như một video ca nhạc bạo lực, tất cả chỉ là hình ảnh và hành động, không nội dung“. Trên nền nhạc của những nghệ sĩ alternative rock/ goth rock / metal kỳ cựu như The Cure, Stone Temple Pilot, Pantera , Nine Inch Nail, Rage Against the Machine .v.v.. , nhận xét có phần khắc bạc của Ebert cũng đúng trên vài khía cạnh, ở đây âm nhạc đóng góp một phần không nhỏ cùng với hình ảnh khiến cho người xem mê đắm vào cái thế giới u ám ướt át, khiến cho không ít người phải đại ngôn lên rằng đây là bộ phim stylish nhất trong lịch sử ( e rằng nếu có cho là thứ nhì thì e không có phim nào dám đứng thứ nhất). Alex Proyas, đạo diễn của bộ phim , người đã từng đạo diễn hơn 100 video clip ca nhạc cho nhiều nghệ sĩ tên tuổi , thể hiện rõ mình biết làm như thế nào để khán giả nhìn thấy nhân vật nào của mình cũng cool, cũng stylish dù cho là người xấu hay người tốt . Là người đã thể hiện được con mắt hình ảnh của mình từ khi còn trẻ, với sở trường độc đáo trong các phim thuộc dạng sci-fi hoặc fantasy( tất nhiên không thể thiếu sự trợ giúp của cả équipe mà trong The Crow là những cái tên như chỉ đạo nghệ thuật Simon Murton, quay phim Dariusz Wolski …v..vv..), ngoài The Crow, Proyas còn có một tuyệt tác khác là Dark City năm 1998 và quả bomb I,Robot mùa hè năm 2004. Một đạo diễn vừa có được thành công thương mại và vừa ăn giải loanh quanh trên thế giới. Brandon Lee, người mà số phận trớ trêu đã cướp đi mạng sống của anh trong một bộ phim mà anh sắm vai một người hùng trở về từ cõi chết, đã chứng tỏ được rằng mình hoàn toàn có thể trở thành một ngôi sao, thậm chí còn sáng hơn cả người cha vốn đã là huyền thoại – Bruce Lee , Lý Tiểu Long . Cái chết của anh cũng đưa anh trở thành huyền thoại, không chỉ là vì những lời đồn đại về một con rồng có thù với cha con họ Lý, mà vì bởi anh đã kịp có một vai diễn để đời trong một bộ phim huyền thoại. Eric Draven của Lee khác với những siêu anh hùng đã lên màn bạc như Clark Kent, Bruce Wayne, Peter Packer hay V , anh là một người hùng mang bi kịch thực sự và chỉ xuất hiện để trả thù cho cái chết của người yêu, không hề có ham muốn cứu thế giới mà chỉ vì bảo vệ những người anh ta yêu thương, Eric vô tình thực hiện sứ mệnh làm sạch xã hội ,không phải là một siêu nhân muốn sống như con người, anh ta luôn là con người , một con người bị dày vò bởi những bi kịch cá nhân , điều đó khiến hình tượng Eric Draven gần gũi, sống động , mang những tình cảm chân thực như nỗi cô độc và bất hạnh thiêng liêng mà dân goth tôn thờ. Nhưng hãy nhớ chính Eric Draven cũng đã nói với cô bé Sarrah : “It can’t rain all the time” ….
    • 0 downloads
    Phần bốn do Adil El Arbi và Bilall Fallah đạo diễn, tiếp nối câu chuyện của Bad Boys for Life (2020), khi thanh tra Mike Lowrey nhận ra phản diện Armando (Jacob Scipio) là người con thất lạc của mình. Lúc này, đội trưởng Conrad Howard (Joe Pantoliano) bị vu khống hợp tác với các băng đảng ma túy suốt nhiều năm qua. Cảnh sát Mike Lowrey và Marcus Burnett (Martin Lawrence) buộc phải giải oan cho Howard, đồng thời đối đầu với tên trùm bí ẩn, do Eric Dane thủ vai. Giống các phần phim trước, dự án duy trì nhiều tình huống gay cấn, các mảng miếng hài được lồng ghép sáng tạo. Phim mở đầu với cảnh Mike và Marcus len lỏi trên đường xá tấp nập để kịp đến lễ cưới của Mike. Tuy nhiên, Marcus đột ngột muốn dừng xe mua bia gừng nhằm giảm cơn đau bụng. Khi vào tiệm tạp hóa, chàng thanh tra bị một tên cướp dí súng vào đầu. Mike đến kịp lúc giải nguy cho bạn mình, đồng thời trừng trị kẻ ác. Nguy hiểm vẫn chưa dừng lại ở đó. Trong quá trình vạch trần sự thật cho Howard, Mike và Marcus bị băng nhóm của tên cảnh sát biến chất James McGrath (Eric Dane) gây sức ép. Khi áp giải Armando đến Miami (Mỹ) để giúp xác nhận danh tính hung thủ trong vụ án của đội trưởng, cả ba người bị dàn xếp vụ giết người, đưa vào danh sách truy lùng của FBI. Họ phải ra sức chạy trốn, vạch mặt chủ mưu, đồng thời giải oan cho bản thân. Tiết tấu nhanh và sự gay cấn được duy trì xuyên suốt phim, từ những cuộc rượt đuổi trên đường phố Miami đến pha đấu súng. Các cảnh hành động kết hợp khéo léo với cốt truyện, giúp đẩy cao kịch tính. Một trong những phân cảnh căng thẳng nhất là khi Mike và Marcus đối đầu phản diện tại triển lãm nghệ thuật của Fletcher (John Sally). Theo trang LADbible, trường đoạn không chỉ nổi bật với những pha hành động mà còn thể hiện sự thông minh và tinh thần đồng đội của nhân vật chính khi phải nghĩ kế hoạch để vượt qua tình huống khó khăn. Trong trận đánh cuối cùng, Mike và Marcus hợp sức chiến đấu chống lại James. The Wrap nhận định phân đoạn được dàn dựng đầu tư, với nhiều pha hành động và hiệu ứng đặc biệt, tạo nên cái kết thuyết phục khán giả. Đây cũng là lúc sự thật phơi bày, giúp khôi phục danh dự của hai cảnh sát. Bên cạnh pha mạo hiểm, phim không thiếu khoảnh khắc hài hước lẫn nhẹ nhàng. Marcus Burnett - nhân vật gây cười của thương hiệu - tiếp tục là nguồn năng lượng tích cực trong tác phẩm lần này. Sau khi hôn mê sâu vì lên cơn đau tim, anh tràn đầy nguồn sống, bình tĩnh vượt qua nhiều tình huống nguy hiểm mà không sợ sệt. Trong khi đó, Mike Lowrey giữ phong thái lạnh lùng, quyết đoán. Không còn là cảnh sát bốc đồng và hiếu thắng ở ba phần trước, anh được mô tả là người chững chạc, luôn hướng về gia đình. Khi Armando bị nhiều người xem là kẻ ác cần phải tiêu diệt, Mike ra sức bảo vệ con trai, chứng minh cậu là có thể giúp ích trong quá trình truy đuổi James. Hai nhân vật đóng vai trò hỗ trợ nhau, duy trì hình ảnh "cặp bài trùng" trên màn ảnh rộng nhiều năm qua. Có lúc Mike trở nên yếu đuối, còn Marcus lại mạnh mẽ, trở thành chỗ dựa cho người bạn. Một trong những đoạn đáng nhớ là nhân vật Mike lên cơn hoảng loạn gần cuối phim. Để giúp Mike bình tĩnh, Marcus tát Mike nhiều lần. Nhiều chuyên trang điện ảnh nói cảnh phim gợi nhớ đến vụ Will Smith lao lên sân khấu đánh Chris Rock tại lễ trao giải Oscar 2022. Theo People, nhiều khán giả bật cười suốt đoạn phim ở các buổi chiếu. Trang The Wrap đánh giá khoảnh khắc không chỉ mang lại tiếng cười mà còn thể hiện tình bạn bền chặt giữa hai nhân vật. Theo Variety, nhân vật Mike có nét tương đồng với Will Smith. Sau sự cố Oscar 2022, diễn viên đối mặt với nhiều tranh cãi và áp lực từ công chúng. Trong phim, Mike Lowrey trải qua những cơn hoảng loạn, phản ánh áp lực của nghệ sĩ trong đời thực. Màn thể hiện của hai diễn viên chính giúp giữ chân khán giả. Gắn bó với nhau qua bốn phần phim, cả hai duy trì sự ăn ý. Will Smith thể hiện sự phức tạp của Mike Lowrey qua biểu cảm gương mặt cùng giọng nói. Còn Martin Lawrence, với phong cách dí dỏm đặc trưng, mang lại sự cân bằng cho câu chuyện. Các diễn viên phụ như Vanessa Hudgens, Alexander Ludwig, Paola Núñez tròn vai, giúp cân bằng mạch phim. Eric Dane mang vẻ nguy hiểm, lạnh lùng khi hóa thân phản diện. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Eric mờ nhạt, người xem chủ yếu chỉ nghe động cơ tội ác qua lời kể của nhân vật chính, không đọng nhiều dấu ấn. The Direct đánh giá tác phẩm vui nhộn, cho rằng đạo diễn Adil El Arbi và Bilall Fallah duy trì được cảm xúc của thương hiệu. Tuy nhiên, theo Hollywood Reporter, dự án giữ được yếu tố hành động và hài hước nhưng không mới mẻ.
    • 0 downloads
    Mark Lewis, một kẻ sát nhân âm thầm. Là một người rất thích quay phim, lúc nào hắn cũng mang chiếc máy quay bên mình. Muốn ghi lại được những khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, hắn tìm cách vừa quay phim nạn nhân vừa từ từ sát hại họ. Một ngày nọ, hắn gặp cô Helen mà có cảm tình với cô. Nhân ngày sinh nhật cô, hắn cho cô xem những cuộn phim về thời thơ ấu của hắn, khi hắn bị cha mình sử dụng như vật để thí nghiệm những nghiên cứu tâm thần học của ông ta. Cha hắn tìm mọi cách ghi lại từng diễn biến tâm lý của hắn, và nhờ đó, ông ta có được danh tiếng như một nhà tâm thần học lớn. Mark trở nên xung đột trầm trọng với chính bản thân mình khi Helen muốn hắn quay phim cô. Trước đây, tất cả những cô gái được hắn quay phim đều trở thành nạn nhân của hắn. Để giải tỏa, Mark tìm cách sát hại nhiều nạn nhân khác, trước khi lại trở lại với xung đột khủng khiếp của mình.
    • 0 downloads
    Belladonna of Sadness là một bộ phim hoạt hình Nhật Bản sản xuất năm 1973, được biết đến với phong cách hình ảnh độc đáo và nội dung đầy ám ảnh. Bộ phim kể về câu chuyện của Jeanne, một cô gái trẻ bị cưỡng bức ngay trong đêm tân hôn và sau đó đã sử dụng ma thuật để trả thù những kẻ đã gây ra đau khổ cho mình. Với sự giúp đỡ của một con quỷ, Jeanne dần trở nên mạnh mẽ và quyền lực. Cô sử dụng ma thuật để trả thù những kẻ đã gây hại cho mình và những người dân bị áp bức. Sự nổi loạn và hệ quả: Jeanne trở thành biểu tượng của sự nổi loạn và chống lại quyền lực. Tuy nhiên, sức mạnh của ma thuật cũng mang đến cho cô những hậu quả khôn lường. Jeanne dần bị chính sức mạnh của mình nuốt chửng và rơi vào vòng xoáy của sự điên loạn.
    • 0 downloads
    "High Noon" (1952) là một bộ phim Tây phương (Western) nổi tiếng, do Fred Zinnemann đạo diễn và Gary Cooper đóng vai chính. Phim xoay quanh nhân vật Will Kane, một cảnh sát trưởng vừa kết hôn, đang chuẩn bị rời khỏi thị trấn nhỏ của mình. Câu chuyện diễn ra trong một khoảng thời gian thực, bắt đầu khi Kane nhận được tin tức về sự trở lại của một tên tội phạm nguy hiểm, Frank Miller, người mà Kane đã bắt và đưa ra công lý. Miller cùng với đồng bọn của hắn sẽ đến thị trấn vào đúng giờ trưa để trả thù. Mặc dù Kane quyết tâm đối mặt với mối nguy hiểm này, anh nhanh chóng nhận ra rằng người dân trong thị trấn đều từ chối hỗ trợ anh, họ sợ hãi trước sức mạnh của Miller và đồng bọn. Thời gian trôi qua, Kane phải đối mặt với sự cô đơn và áp lực, đồng thời đấu tranh với những giá trị đạo đức của mình. Phim không chỉ là một câu chuyện về cuộc chiến chống lại cái ác, mà còn phản ánh những chủ đề sâu sắc về lòng trung thành, trách nhiệm và sự cô đơn trong hành động chính nghĩa. Với những cảnh quay căng thẳng và hình ảnh biểu tượng, "High Noon" đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong lịch sử điện ảnh và được xem như một biểu tượng của tinh thần chiến đấu vì chính nghĩa.
    • 1 download
    "Werckmeister Harmonies" (2000) là bộ phim của đạo diễn Hungary Béla Tarr, dựa trên tiểu thuyết "The Melancholy of Resistance" của László Krasznahorkai. Phim được biết đến với phong cách nghệ thuật độc đáo và hình ảnh mạnh mẽ. Nội dung phim diễn ra trong một thị trấn nhỏ ở Hungary, nơi một đoàn xiếc đến biểu diễn cùng với một con cá voi khổng lồ. Sự xuất hiện của đoàn xiếc và con cá này gây ra sự hoang mang và hỗn loạn trong cộng đồng. Nhân vật chính, János (được thể hiện bởi Lars Rudolph), là một thanh niên nhạy cảm, chứng kiến sự sụp đổ của xã hội xung quanh khi mà người dân dần bị cuốn vào bạo lực và hỗn loạn. Phim khai thác những chủ đề về sự hỗn loạn, bản chất của con người và sự xung đột giữa lý tưởng và thực tại. Với những cảnh quay dài và chậm rãi, "Werckmeister Harmonies" tạo ra một không khí tĩnh lặng nhưng đầy căng thẳng, khắc họa một thế giới đầy bi kịch và sự mất mát. Phim được đánh giá cao về kỹ thuật làm phim và tính triết lý sâu sắc, khiến nó trở thành một trong những tác phẩm đáng chú ý của điện ảnh đương đại.
    • 0 downloads
    "Nostalghia" (1983) là một bộ phim của đạo diễn Andrei Tarkovsky, nổi bật với phong cách nghệ thuật sâu sắc và triết lý. Phim kể về hành trình của một nhà thơ người Nga, Andrei Gorchakov, đang ở Ý để nghiên cứu về một nhạc trưởng đã sống trong quá khứ. Trong quá trình tìm kiếm, Andrei không chỉ khám phá văn hóa và lịch sử của nước Ý mà còn phải đối mặt với những ký ức và nỗi nhớ quê hương của mình. Nội dung phim chủ yếu xoay quanh chủ đề về nỗi nhớ, sự cô đơn và khát vọng tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống. Andrei gặp gỡ một người hướng dẫn địa phương, Domenico, người đã trải qua những đau khổ trong cuộc sống và có cái nhìn sâu sắc về sự tồn tại. Câu chuyện dần hé lộ những mâu thuẫn giữa quá khứ và hiện tại, giữa tình yêu và nỗi đau, cùng với những hình ảnh thơ mộng và biểu tượng mạnh mẽ. "Nostalghia" không chỉ là một tác phẩm điện ảnh mà còn là một tác phẩm triết học, mời gọi khán giả suy ngẫm về bản chất của con người, quê hương và sự tồn tại. Phim nổi bật với các cảnh quay dài và chậm rãi, cùng với âm nhạc và hình ảnh đầy tính biểu tượng, khiến nó trở thành một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tarkovsky.
    • 0 downloads
    "I Am Cuba" (1964) là một bộ phim nghệ thuật của đạo diễn Mikhail Kalatozov, mang tính chất tuyên truyền cho cách mạng Cuba. Phim được sản xuất dưới sự hợp tác giữa Liên Xô và Cuba, với bối cảnh diễn ra trước và trong thời kỳ cách mạng Cuba vào những năm 1950. Nội dung phim được chia thành bốn phần, mỗi phần kể về cuộc sống và nỗi đau khổ của người dân Cuba dưới chế độ độc tài Batista. Những câu chuyện phản ánh sự bất công xã hội, nỗi thống khổ của người nghèo, và khát vọng tự do của người dân. Qua đó, phim cũng thể hiện tinh thần đấu tranh và niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Phong cách làm phim độc đáo với những cảnh quay ấn tượng và kỹ thuật quay phim sáng tạo, "I Am Cuba" đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lịch sử điện ảnh. Mặc dù lúc đầu không được đón nhận nồng nhiệt, nhưng sau này, phim đã được công nhận là một tác phẩm nghệ thuật quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến nhiều thế hệ làm phim.
    • 0 downloads
    Với 255 lần hạ thủ trong đó có 160 lượt được xác nhận bởi Bộ Quốc Phòng, Chris Kyle được coi là một trong những xạ thủ xuất sắc nhất trong lịch sử quân đội Mỹ. Chuỗi dài những chiến tích được ghi nhận như một huyền thoại đã được chính Kyle kể lại trong cuốn hồi kí của mình và sau đó được hãng Warner Bros. chuyển thể lên màn bạc qua bộ phim American Sniper (tạm dịch: Xạ thủ Mỹ). Được nhào nặn dưới bàn tay của đạo diễn gạo cội Clint Eastwood cùng với sự tham gia diễn xuất của tài tử Bradley Cooper, tác phẩm đã gặt hái những thành công lớn. American Sniper nhận được những khen ngợi không ngớt từ cả khán giả và giới phê bình. Nó phá kỉ lục doanh thu tuần đầu công chiếu, vượt xa số tiền bán vé của rất nhiều phim bom tấn hè, cùng với đó là sáu đề cử Oscar danh giá trong đó có cả đề cử Phim xuất sắc nhất. Điều đầu tiên cần nói đến là tông chủ đạo của bộ phim. American Sniper là một bộ phim tâm lý lấy chủ đề chiến tranh, vậy nên, nếu mong chờ đây là một tác phẩm với những màn chiến đấu dữ dội hay các cảnh cháy nổ hoành tráng như Saving Private Ryan hoặc Pearl Harbor thì bạn nên nghĩ lại. Các cảnh giao tranh trong phim đều chỉ dừng ở mức ngắn đến vừa nhưng điều tích cực là chúng được làm rất tốt, tạo được cảm giác căng thẳng của những khoảnh khắc thập tử nhất sinh. Tất cả những cảnh hành động nói trên cùng góp sức cho một mục đích duy nhất là làm rõ thêm bức tranh cuộc đời của Chris Kyle. Kyle quyết định gia nhập quân đội sau khi nhìn thấy trên TV hình ảnh đại sứ quán Mỹ bị đánh bom. Sau đó anh được chọn để gia nhập vào lực lượng đặc nhiệm SEAL với việc trở thành một lính bắn tỉa. Sau phần mở đầu khá đơn giản giới thiệu về những tư tưởng được truyền dạy từ thuở thiếu thời đã định hình tính cách của Chris Kyle, bộ phim nhanh chóng đi vào phần chính: tập trung khắc họa tâm lý của Kyle trong suốt bốn lần được gửi sang những cuộc chiến tranh của Mỹ tại Trung Đông. Từng được hai lần đề cử Oscar trước đó, Bradley Cooper đã cho thấy khả năng diễn xuất tuyệt vời của mình khi hóa thân vào nhân vật. Cùng lúc Kyle phải đối mặt với nhiều mối lo. Anh là một lính bắn tỉa được giao nhiệm vụ bảo vệ những người lính khác, loại trừ những mối nguy hiểm đe dọa họ ngay trước khi chúng có cơ hội xảy ra. Ngược lại, chính anh cũng phải chịu không ít nguy hiểm bởi lính bắn tỉa cũng là một trong những mục tiêu bị truy quét sát sao nhất trên chiến trường. Công việc cũng không đơn giản là ngắm và bắn bởi trên chiến trường việc nhận ra đâu là bạn hay thù không hề đơn giản. Không ít lần, Kyle phải đấu tranh nội tâm một cách căng thẳng trước khi hạ thủ. Và không chỉ là câu chuyện ở trên chiến trường, người lính hết mình vì đất nước và đồng đội còn có vợ con mòn mỏi đợi chờ ở quê hương. Không ít xung đột cũng nảy sinh từ đây khi Kyle đôi lúc đã mất cân bằng giữa việc nước – việc nhà. Phải nói rằng Bradley Cooper đã thể hiện rất thành công một nhân vật có nội tâm phức tạp bởi áp lực từ mọi hướng. Tuy nhiên, American Sniper cũng không phải là một bộ phim hoàn hảo. Trước khi Clinst Eastwood chính thức đảm nhiệm vai trò đạo diễn, Warner Bros. đã từng cân nhắc hai cái tên nổi tiếng khác. Đầu tiên là David O. Russell - người từng rất thành công với hai lần cộng tác cùng Bradley Cooper trong Silver Linings Playbook và American Hustle. Tiếp đó là đạo diễn huyền thoại Steven Spielberg. Tuy nhiên, thỏa thuận với cả hai đều không đi đến đâu. Spielberg từng có một hướng đi rất táo bạo khi định chuyển thể nguyên tác thành cuộc đối đầu giữa Kyle và một xạ thủ chết chóc từ phía đối nghịch. Eastwood cũng đã thêm vào chi tiết này trong bản phim của mình, tất nhiên là ông còn sắp đặt thêm không ít chi tiết khác nhằm tạo xung đột. Dù vậy, khán giả đòi hỏi một tác phẩm với góc nhìn đa chiều và chân thật hơn về cuộc chiến có thể sẽ thất vọng. Diễn xuất tuyệt vời của Bradley Cooper là điều không còn phải nghi ngờ và cùng với kịch bản dồn quá nhiều vào Kyle, nó dẫn tới một hệ quả là nhân vật của Cooper trở thành nhân tố tỏa sáng duy nhất, áp đảo toàn bộ các diễn viên còn lại trong phim. Sienna Miller cũng đã rất cố gắng trong vai Taya, người bạn đời của Kyle nhưng tới cuối cùng thì những xung đột của hai vợ chồng lại không thấm tháp so với xung đột giữa người chồng lính tráng và cuộc chiến mà anh tham gia. Tình trạng tương tự xảy ra với gã xạ thủ đối nghịch ở bên kia chiến tuyến. Cho dù cuộc đối đầu được khắc họa khá hấp dẫn nhưng không lâu sau đó, khán giả cũng sẽ nhanh chóng quên đi nhân vật này. Cộng với đó là việc xây dựng một hình tượng người lính quá hoàn hảo, hoàn toàn hết mình vì đất nước, thậm chí không có một phút nản lòng và không có ai thể hiện tư tưởng tiêu cực với cuộc chiến tranh tàn khốc. Bộ phim đã hạn chế đi rất nhiều tiềm năng có thể khai thác và làm mờ nhạt đi khá nhiều thông điệp phản chiến mà đạo diễn Clint Eastwood đã nhắc tới trong những cuộc phỏng vấn sau đó. Tuy nhiên, so với một cuốn sách mà tác giả của nó được cho là “kể lể chiến tích” và “coi bắn giết là thú vui” thì phiên bản điện ảnh này cũng là một thành công đáng kể. Không chỉ thế, American Sniper còn giành được một sự ưu ái nhất định trong cuộc đua chạy đến Oscar vì nội dung của mình.
    • 0 downloads
    Năm 1978, kẻ trộm Irving Rosenfeld gặp Sydney Prosser, hai người bắt đầu quan hệ và hợp tác trong các phi vụ lừa đảo. Trong vai một phụ nữ quý tộc Anh tên Edith Greensly, Sydney hỗ trợ Irving hoàn thành các vụ gian lận của mình. Trong khi say đắm với tình yêu dành cho Sydney, Irving vẫn chần chừ chưa muốn ly hôn với vợ mình, Rosalyn, do anh lo sợ phải chấm dứt liên hệ với con trai nuôi của anh, Danny. Đặc vụ FBI Richard "Richie" DiMaso đã bắt quả tang Irving và Sydney trong một vụ lừa đảo tiền vay nợ, nhưng anh hứa sẽ bỏ qua vụ này nếu Irving giúp anh hoàn thành bốn vụ án tiếp theo. Richie tin Sydney là người Anh nhưng không tin cô là một phụ nữ thượng lưu. Sau đó, Sydney đã nói với Irving rằng cô sẽ tìm cách tác động Richie, do đó sẽ phải giữ khoảng cách với Irving. Irving nhờ một người bạn đóng giả một thương gia Ả Rập giàu có (sheikh) đến Mỹ tìm kiếm cơ hội đầu tư tiềm năng, anh này được dự định sẽ hối lộ Thị trưởng Carmine Polito của Camden, New Jersey nhằm có được hợp đồng xây dựng thành phố Atlantic, một dự án phát triển kinh tế mà Carmine đang cố gắng gây quỹ đầu tư. Richie dự định biến Carmine thành mục tiêu đầu tiên trong kế hoạch lật tẩy một đường dây tham nhũng của các chính trị gia, mặc dù Irving và sếp của Richie, Stoddard Thorsen hết sức phản đối. Sydney giúp Richie lợi dụng một thư ký của FBI nhằm chuyển 2 triệu USD phí bôi trơn mà không phải thông qua giấy tờ. Khi cấp trên của Stoddard, Anthony Amado biết kế hoạch này, ông cổ vũ Richie và yêu cầu Stoddard hỗ trợ Richie. Do quá háo hức và nóng vội, Richie đã làm Carmine giận và rời khỏi cuộc gặp. Irving thuyết phục Carmine rằng sheikh mới là nhà đầu tư cũng như việc anh không thích Richie, và hai người đã trở thành bạn bè. Richie sắp xếp cho Carmine gặp sheikh tại một sân bay, nhưng không phải sheikh do bạn của Irving đóng giả mà là một đặc vụ FBI người Mexico tên Paco Hernandez đóng giả. Carmine đưa sheikh tới dự buổi tiệc tại một sòng bạc, giải thích rằng đây là một phần cần thiết trong công việc kinh doanh. Irving hết sức bất ngờ khi biết tên trùm mafia Victor Tellegio, cánh tay phải của Meyer Lansky, cũng đang ở đây và hắn muốn gặp sheikh. Tellegio muốn sheikh trở thành một công dân Mỹ mới có thể kinh doanh, và Carmine cần gấp rút hoàn thành thủ tục này. Tellegio cũng yêu cầu một khoản tiền 10 triệu USD để "hợp pháp hóa" sheikh. Richie đồng ý với tham vọng bắt giữ cả Tellegio, trong khi Irving nhận ra kế hoạch đang vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Richie thổ lộ tình cảm với Sydney nhưng anh vô cùng bối rối khi cô thú nhận mình là người Mỹ. Irving xuất hiện nhằm bảo vệ Sydney và cố gắng kết thúc mối quan hệ của họ với Richie, nhưng Richie nói nếu họ rút lui, Tellegio sẽ thấy mùi lừa đảo và cả bọn họ lẫn Rosalyn và Danny đều gặp nguy hiểm. Rosalyn bắt đầu hẹn hò với Pete Musane, một tay gangster cô gặp tại buổi tiệc nọ. Trong một cuộc nói chuyện, cô đề cập đến việc mình tin rằng Irving đang làm việc cho Sở Thuế vụ, do đó Pete đã đe dọa Irving. Irving sau đó đối chất với Rosalyn nhưng cô đã thừa nhận mình nói với Pete do cảm thấy không còn được yêu thương. Cô cũng đồng ý giữ im lặng nhưng muốn một cuộc ly hôn. Nhờ lợi dụng Carmine, Richie và Irving đã quay phim lại cảnh một số thành viên Quốc hội nhận tiền hối lộ. Richie đến gặp Amado và xin 10 triệu USD để đưa cho Tellegio, nhưng chỉ nhận được 2 triệu USD. Một cuộc gặp được sắp xếp tại văn phòng luật sư của Tellegio, Alfonse Simone, tuy nhiên Tellegio vắng mặt. Kế hoạch vẫn tiếp tục và Richie đã ghi âm những lời thừa nhận của Simone về các hành vi phạm pháp. Irving tới thăm nhà Carmine, thừa nhận anh đã lừa dối và hứa sẽ có kế hoạch để giúp Carmine. Carmine vô cùng tức giận, anh đã đuổi Irving ra ngoài, tình bạn của họ dường như kết thúc. 2 triệu USD biến mất, nhưng sau đó có một nguồn tin đồng ý trả lại số tiền này với điều kiện tội của Carmine phải được giảm nhẹ. Amado muốn thực hiện vụ trao đổi này nhưng Richie từ chối. Irving khuyên Richie nhận tiền, nếu không anh sẽ bị khiển trách vì làm mất nó. Trên thực tế, họ chưa bao giờ gặp luật sư của Tellego. Thay vào đó, Irving đã nhờ một người bạn đóng giả nhằm thoát khỏi sự đe dọa của bọn gangster. Amado đồng ý vụ trao đổi này và đưa Richie ra khỏi vụ án. Irving và Sydney mở một phòng tranh và chuyển đến sống cùng nhau, trong khi Rosalyn sống cùng Pete và chia sẻ quyền nuôi nấng Danny với Irving.
    • 0 downloads
    Dr. Terror's House of Horrors (1965) là một bộ phim kinh dị do Freddie Francis đạo diễn, với sự tham gia của dàn diễn viên như Peter Cushing, Christopher Lee, và Donald Sutherland. Phim thuộc thể loại anthology, tức là nó gồm nhiều câu chuyện ngắn liên kết với nhau. Nội dung phim bắt đầu khi một nhóm năm người đàn ông gặp nhau trên chuyến tàu và tình cờ gặp Dr. Schreck (Peter Cushing), một bác sĩ tâm lý bí ẩn. Ông đề nghị họ tham gia vào một trò chơi xem tarot, qua đó tiết lộ tương lai của mỗi người thông qua năm câu chuyện khác nhau. Cuối cùng, khi trò chơi kết thúc, các nhân vật nhận ra rằng những cảnh báo của Dr. Schreck không chỉ là hư cấu, mà có thể trở thành hiện thực. Phim khéo léo kết hợp giữa yếu tố kinh dị và các hình ảnh siêu nhiên, mang lại cảm giác căng thẳng và hấp dẫn cho khán giả.
    • 0 downloads
    Bộ phim kể về Ma Seok Do, người thay đổi công việc từ sở cảnh sát Geumcheon sang đội điều tra đô thị. Trong lần khám nghiệm tử thi, cảnh sát Ma phát hiện một phụ nữ chết vì dùng quá liều một loại ma túy có tên là Hiper. Ma Seok Do và đồng đội bắt đầu điều tra nguồn gốc của loại ma túy này. Họ tìm đến băng nhóm Yakuza đang hoạt động ở Seoul. Riki (do Munetaka Aoki thủ vai) là thành viên của băng nhóm đó. Anh được "ông trùm" cử tới để giành lại 20 kg ma túy. Cảnh sát tham nhũng Joo Seong Cheol (do Lee Joon Hyuk thủ vai), là đội trưởng đội phòng chống ma túy, người đứng sau đường dây buôn bán chất cấm, cũng mong muốn tìm ra 20 kg ma túy trị giá 30 triệu USD để thỏa thuận với một cặp khách hàng người Trung Quốc. Mạch phim nhanh, khai thác đề tài trinh thám - hành động. Trải qua hàng loạt tình tiết, Ma Seok Do nhận thấy vụ án không thể giao cho đội phòng chống ma túy phụ trách bởi nhiều nhân chứng đã phải bỏ mạng. Anh và các đồng đội âm thầm thay đổi nhiều hình thức điều tra khác. Phim ghi điểm ở những phân cảnh hành động diễn ra liên tục với những đòn đấm nhanh, gọn. Cứ mỗi 5 phút, khán giả lại được xem một màn so găng, ẩu đả: Ma Seok Do dùng chân đá bay một người khỏi xe buýt, hay anh bất ngờ tung nắm đấm để hạ knock-out đối thủ. Ở phần mở đầu, khán giả còn được chứng kiến cảnh sát Joo Sung Cheol dùng xà beng tấn công đối thủ khiến máu chảy khắp bộ đồ trắng của anh ta. Cốt truyện phim đơn giản với lối kể tuyến tính quen thuộc. Êkíp cài cắm nhiều đoạn mang tính giải trí để cân bằng những cảnh hành động xuyên suốt 105 phút. Ở phân cảnh Ma Seok Do cùng các cộng sự thẩm vấn tội phạm trong khách sạn tình yêu, ngôn từ hài hước của các cảnh sát trong đội điều tra đã khiến kẻ tình nghi thú nhận mọi tội lỗi. Diễn xuất của Ma Seok Do là điểm cộng lớn. Những pha ra đòn đậm chất "One punch man" (hạ đối thủ bằng một cú đấm) của anh xuất hiện liên tục. Ma Seok Do xử lý tội phạm bằng nắm đấm thay vì lý lẽ. Với anh, lập luận không phải là lựa chọn tốt dành cho những kẻ biến chất. Lee Joon Hyuk - nổi tiếng với series Stranger, A Poem A Day - từ bỏ hình ảnh "mỹ nam" quen thuộc để trở thành gã tội phạm sở hữu ánh mắt đầy sát khí. Ngôi sao Nhật Bản Munetaka Aoki vào vai một sát thủ máu lạnh, giết người không nương tay. So với các phần trước, âm thanh mô phỏng những cú đấm của Ma Seok Do đã được tiết chế, không còn bị lạm dụng. Điểm trừ của phim là đạo diễn Lee Sang Yong đã dành nhiều sự ưu ái cho Ma Seok Do dẫn đến nhiều tình tiết trở nên không hợp lý. Trong một phân cảnh, dù bị xe đâm, anh vẫn có thể đứng dậy tiếp tục truy bắt tội phạm. Ở các phân cảnh hành động, Ma Seok Do thường không có sự hỗ trợ của các đồng đội. Các nhân vật thuộc phe chính diện luôn đến trễ để tạo ra thế đối đầu giữa Ma Seok Do và bên phản diện. Điều đó bị lạm dụng, gây ra phản ứng ngược về cuối phim. Tờ Reel Rundown nhận xét: "Điều gây thất vọng nhất là không có nhân vật nào nổi bật ngoài Ma Seok Do. Các nhân vật không có bất kỳ sức hút hay điểm nhấn trong vai diễn của họ. Người xem không thể nhớ tên nào ngoài Ma Seok Do sau khi bộ phim kết thúc vì tất cả vai diễn khác hiện lên nhạt nhòa". Tại Hàn Quốc, theo dữ liệu từ Kobis - dịch vụ theo dõi do Hội đồng phim Hàn Quốc vận hành, doanh thu trong tuần đầu tiên công chiếu và hoạt động xem trước phim The Roundup: No Way Out là 34,1 triệu USD, bán được 4,51 triệu vé. Tính đến ngày 21/6, bộ phim thu về gần 90 triệu USD với hơn 9 triệu vé được bán ra. Từ đầu năm tới nay, bộ phim đứng thứ hai tại Hàn Quốc về doanh thu và số lượng khán giả, chỉ sau hoạt hình Nhật Bản - Suzume. Trang IMDb chấm phim 7,3/10 điểm.
    • 0 downloads
    Sẽ thế nào khi một gã giang hồ, sẵn sàng làm mọi chuyện đê hèn lại là một cảnh sát ngầm của chính nghĩa? Sẽ ra sao khi tên cảnh sát điều trần lại là tay trong của một băng đảng tội phạm thủ ác? Câu chuyện tưởng không thật mà lại thật không tưởng đó chính là những gì đã diễn ra trong Departed (tựa Việt là “Cảnh sát Boston”), bộ phim đã đem về cho vị đạo diễn tài ba Martin Scorsese bức tượng vàng Osscar danh giá sau 6 lần bị lảng tránh qua các phim Raging Bull, The Last of Temptation of Christ, GoodFellas, Gangs of New York, The Aviator, The Departed. Kịch bản phim do William Monahan viết dựa trên kịch bản Vô gian đạo, tác phẩm ăn khách của điện ảnh Hồng Kông năm 2002. Lấy bối cảnh là thành phố Boston, Massachusetts, bộ phim nói về cuộc đối đầu kịch tính giữa hai điệp viên của cảnh sát và băng đảng gốc Ireland được cài vào tổ chức đối phương để hoạt động, cùng một dàn diễn viên tên tuổi, gồm Leonardo DiCaprio, Matt Damon và Jack Nicholson, Điệp vụ Boston đã được báo giới và công chúng chú ý ngay từ giai đoạn sản xuất. Sau khi công chiếu, bộ phim đã gặt hái nhiều thành công trên cả hai phương diện thương mại và nghệ thuật. Trước đó, tác phẩm gốc của bộ phim “Vô gian đạo”, được sản xuất năm 2002 cũng từng tạo mưa gió và gây được tiếng vang lớn đối với thị trường phim ảnh Hồng Kông. Vốn đang trong giai đoạn khủng hoảng về ý tưởng, Vô gian đạo đã làm chấn động phòng vé của Hồng Kông khi đem đến cho khán giả một cốt truyện độc đáo, một cuộc đối đầu căng thẳng và một đoạn kết bất ngờ không đoán trước được. Tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét dù nội tâm mỗi nhân vật khá phức tạp cộng với mối quan hệ chồng chéo. Và đối với ông trùm dòng phim tội phạm, Scorsese đã ngay lập tức hứng thú với việc chuyển thể bộ phim trên và rồi một phiên bản khác, hay hơn, chặt chẽ hơn và quan trọng hơn là Hollywood hơn của Vô gian đạo đã ra đời. Tuy nhiên, The Departed lại trở nên “Hong Kong” hơn cả Vô gian đạo – vốn đã rất theo “chuẩn” của Hollywood rồi. Bộ phim theo chân của hai nhân vật Colin Sullivan và William “Billy” Costigan Jr từ khi là hai học viên cùa trường cảnh sát cho đến lúc trở thành thanh tra và mật vụ ngầm. Nếu chưa từng coi phim của Scorsese bao giờ, ta sẽ cảm thấy bộ phim thực sự là quá dài dòng so với cần thiết bởi phải mất đến gần một tiếng rưỡi đồng hồ chúng ta mới thực sự đi vào các cuộc giao dịch, đấu súng, giằng co giữa hai thế lực trong phim. Tuy vậy, sự mở đầu ấy là cần thiết khi liên tục đặt ra rất nhiều câu hỏi và nó chỉ trở nên tốt hơn từ đó với phần kết là một kiệt tác tuyệt đối. Đơn giản là không có thời gian để suy nghĩ về tuyến truyện và liệu câu chuyện có hợp lý hay không. Bộ phim không chỉ kế thừa được những gì tinh túy nhất từ tác phẩm gốc khi lần lượt cho những diễn viện gạo cội và tài năng nhất đảm nhiệm những vai diễn đầy chiều sâu ấy, chỉnh sửa lại tấc phẩm gốc cho phù hợp hơn với văn hóa đại chúng và lại một lần nữa cho thấy những gì gọi là chân thật và trần trụi nhất nhưng không kém phần kịch tính của cuộc đối đầu đầy hiểm nguy giữa thiện và tà, đậm chất bạo lực, máu me, văng tục của Martin Scorsese. Nếu như Vô gian đạo chỉ là một bộ phim giải trí mang tính đột phá thì chính Điệp vụ Boston mới là kiệt tác vì Martin Scorsese chỉ giữ lại cốt truyện chính của Vô gian đạo và biến đổi hoàn toàn bộ phim làm lại thành một tuyệt phẩm mang phong cách Scorsese với những nhân vật được khắc họa rõ nét nơn, truyện phim chặt chẽ hơn, khiến khán giả dù đã biết trước kết cục của phim gốc cũng vẫn ngồi lại xem Điệp vụ Boston tới tận phút cuối cùng Thiện – Ác có khác biệt? Colin Sullivan Trong phim, khán giả sẽ có cơ hội theo bước Colin Sullivan, từ khi còn nhỏ cậu đã được ông trùm tội phạm Francis “Frank” Costello chọn làm thuộc hạ thân tín trong tương lai. Dễ thấy ở Colin, một nét rất tương đồng với nhân vật Henry Hill trong bộ phim nổi tiếng “The Goodfellas”, cũng của Martn Scorsese, đó là cả hai đều thấy được quyền lực từ những kẻ núp sau bóng đêm. Đều ngưỡng mộ trước sự e dè và khiếp hãi của những gã Gangster từ khi chỉ còn là một đứa trẻ. Cậu được tên trùm ấy trợ cấp và cho ăn học, nuôi dạy cậu dưới một sự ảo tưởng rằng cậu còn trên cả một thuộc hạ thân tín, là con trai của gã. Chính đó là động lực để cậu ra sức học tập để từ đó tốt nghiệp học viện cảnh sát một cách xuất sắc. Tất cả đều cho một mục đích duy nhất: trở thành cách tay đắc lực cho tên trùm tội phạm kia, vừa được sự công nhận của người khác, vừa được tiền tài danh vọng. Sullivan cũng phải sống trong sự cảnh giác cao độ để che giấu tung tích thật sự cũng như cung cấp thông tin cho Costello. Lớn lên cùng những tên sừng sỏ, điều đó tạo nên ở Colin một bản lĩnh phi thường. Sẵn sàng gửi đi thông tin mật cho Costello ngay trước mũi cảnh sát, sử dụng quyền hành dưới vai trò một thanh tra viên tài giỏi để đánh lừa tất cả mọi người. Một tay chơi khó chịu và là một tên đầy thủ đoạn. Chứng kiến toàn bộ quá trình phát triển của nhân vật, người xem sẽ không ít lần thấy ức chế trước những thủ đoạn bỉ ổi và hèn hạ của hắn, song cũng không thể không khen thưởng cho sự đa mưu của gã, để rồi công nhận hắn là một trong những nhân vật phản diện hay nhất mọi thời đại. Colin Sullivan đã thực sự trở thành một trong những điểm nhấn đầy ấn tượng cho bộ phim. Khán giả coi phim chắc chắn sẽ cảm thấy khinh ghét gã để rồi sau đó tự nhận ra liệu nếu ta là gã ta có hành động như vậy? Một bộ phim mà khán giả sẽ không ít lần cảm thấy mông lung khi không ít lần tự hỏi: liệu người ác có tốt hay người tốt có ác tựa như một câu thoại của phim: “Cảnh sát hay tội phạm. Khi bạn đối mặt với một khẩu súng đã nạp đạn, sự khác biệt là gì?” Matt Damon đã có một màn thể hiện không thể nào xuất sắc hơn khi lần lượt thể hiện các cung bậc cảm xúc của nhân vật một cách hoàn hảo như vậy. Khi là một tên điều tra viên đầy ngạo mạn, khi lại là một tên tay trong đầy thận trọng, rồi có lúc là một tên phản bội đầy hèn hạ. Dối trá. Phản bội. Hy sinh. William “Billy” Costigan Jr Ngược lại với Sullivan, Billy sinh ra trong một môi trường mà cha anh từng là một viên cảnh sát lẫy lừng, là kình địch của những tên tội phạm. Vì lẽ đó, anh luôn mong muốn được trở thành một điều tra viên với hi vọng sẽ có cơ hội tiêu diệt cái ác. Trước khi tốt nghiệp xuất sắc tại trường cảnh sát, người thân cuối cùng của Costigan là mẹ của anh cũng qua đời vì bệnh ung thư. Với một lý lịch đặc biệt như vậy, anh nhanh chóng được đơn vị chuyên thu thập thông tin bằng điệp viên ngầm của hai sĩ quan Oliver Charles Queenan và Sean Dignam tuyển dụng với mục đích đưa anh vào băng đảng Costello hòng tìm ra bằng chứng tội ác của ông trùm. Mang thân phận là một viên cảnh sát ngầm, Billy bắt buộc phải làm những công việc bạo lực, đáng khinh bỉ nhằm gây được tiếng vang tới ông trùm. Anh đã phải chịu đựng màn tra tấn tinh thần ấy suốt hơn một năm dài dằng dặc để nắm lấy được cái đuôi của gã tội phạm kia. Trước lúc thực hiện những tội ác ấy, anh luôn cảm thấy tội lỗi vô cùng, nhưng để hoàn thành vai diễn anh đã phải ra tay một cách hiểm độc nhất để chứng tỏ bản thân mình. Billy Costigan từ đó đã trở thành một thanh niên nóng tính, luôn căng thẳng vì phải chứng kiến những hành động tội ác trong khi không thể ra tay ngăn chặn như một cảnh sát thực thụ. Tuy nhiên anh luôn là người sống sâu sắc, quan tâm tới những người xung quanh. Nếu ở Sullivan, ta thấy sự hèn mọn và ích kỉ thì Billy lại là sự can trường, gan dạ đối lập. Anh luôn khát khao trở thành một viên cảnh sát để trừ gian, diệt bạo. Ấy thế mà, trớ trêu thay, anh lại sinh ra trong một gia đình có họ hàng dính líu đến tội phạm. Vẫn muốn trở thành cảnh sát, anh chấp nhận lùi lại phía sau, chấp nhận lấy hết mọi tiếng xấu ở đời, nhận lấy sự khinh bỉ của xã hội, để cung cấp cho đồng nghiệp những thông tin hữu ích nhất hòng tóm được tên tội phạm xấu xa kia. Diễn biến tâm lí nhân vật khiến ta không khỏi xót xa, bồi hồi khi anh liên tục ăn năn trước những hành động của mình, cố gắng hết sức để rồi nhận lấy những kết cục bi đát, làm liên lụy đến những người mà anh quan tâm. Không ít người trong chúng ta sẽ đồng cảm với nhân vật khi hết lần này đến lần khác trải qua các cung bậc hỷ, nộ, ái, ố. Để rồi cuối cùng thương xót cho cái kết của anh. Leonardo DiCaprio một lần nữa có một vai diễn để đời khi anh đã xuất sắc hóa thân thành một viên cảnh sát chính trực và tham vọng. DiCaprio kể từ sau Gangs of New York (2002) và The Aviator (2004) đã bắt đầu được coi như một “De Niro mới” của đạo diễn Martin Scorsese (người từng thủ vai chính trong rất nhiều tác phẩm thành công của Scorsese như Taxi Driver, Raging Bull, Goodfellas). Chính Scorsese cũng đã nói rằng việc hợp tác với DiCaprio trong các bộ phim thường diễn ra dễ dàng và đạt hiệu quả cao. Hơn nữa bản thân DiCaprio cũng lại rất hứng thú với kịch bản chuyển thể của William Monahan, vì vậy anh đã nhanh chóng nhận lời vào vai Billy Costigan trong Điệp vụ Boston. Vốn không phải là người giỏi trong việc bắt chước âm điệu của các vùng khác nhau, DiCaprio đã chuẩn bị cho vai diễn bằng cách sống một thời gian ở South Boston (“Southie”) và tiếp xúc với những cựu tội phạm người gốc ở đây, kết quả là khi phim bắt đầu quay, DiCaprio đã có thể nói giống như một người “Southie” thực sự. Francis “Frank” Costello Ông trùm của băng tội phạm gốc Ireland. Bề ngoài Costello là người điên khùng, hành xử tàn bạo, tuy nhiên thực chất ông ta luôn biết cách động viên và sử dụng tối đa những tay chân thân tín của mình cũng như tính toán chu đáo trong mọi vụ làm ăn để không sa lưới cảnh sát. Hắn thực sự toát ra khí thế của một ông trùm khi không hết lần này đến lần khác dắt mũi viên cảnh sát, làm những công việc bỉ ổi mà không sợ bất kì một thế lực nào. Phải nói một điều rằng sự cáo già và quỷ quyệt của hắn là một thứ đáng để học hỏi. Từ cách bài binh bố trận, cho đến cài cắm quân binh đều khiến cho khán giả cảm thấy nể phục. Ở hắn toát ra một khí chất đủ mạnh để khiến tất cả phải quy hàng và kính phục. Trực quan của hắn cực kì nhanh nhạy và đó chính là vũ khí chết người khiến một tên tội pham như hắn trở nên nguy hiểm và đáng sợ. Costello của Jack Nicholson, một nhân vật không phải “bố già” kiểu Ý, không phải tay tội phạm huênh hoang đê tiện, mà là một gã chỉ huy thông minh chỉ vì thiếu thông tin mà phải bước chân vào con đường diệt vong. Một nỗ lực xứng đáng Với một đoạn kết hoàn hảo – tạm gọi là kết thúc có hậu – The Departed thành công về mặt doanh thu tại thị trường Hoa Kỳ. Bộ phim đạt doanh thu 91 triệu USD sau ba tuần công chiếu, hứa hẹn hơn hẳn các phim gần đây của Martin Scorsese (Gangs of New York thu về 77 triệu USD, The Aviator thu về 103 triệu USD) và được giới phê bình phim đánh giá cao .Được coi là một trong những phim hay nhất năm 2006, Điệp vụ Boston đã nhận được rất nhiều đề cử và giải thưởng từ các giải thưởng điện ảnh . Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 79, phim đã chiến thắng tại 4 trong số 5 hạng mục được đề cử, bao gồm Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất (cho Martin Scorsese), Kịch bản xuất sắc nhất và Biên tập viên xuất sắc nhất. Với Martin Scorsese, đây là lần đầu tiên ông giành giải Oscar sau 5 đề cử thất bại, khi lên nhận giải ông đã nói đùa rằng nên kiểm tra lại phong bì lần nữa cho chắc, một số phóng viên thậm chí nhận xét rằng tượng vàng lần này đến với Scorsese giống như “giải Oscar cống hiến cho sự nghiệp” hơn là giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc.
    • 0 downloads
    Steel Magnolias (1989) là một bộ phim tâm lý hài-drama do Herbert Ross đạo diễn, dựa trên vở kịch cùng tên của Robert Harling. Phim tập trung vào cuộc sống của một nhóm phụ nữ sống ở miền Nam nước Mỹ, cụ thể là trong một tiệm làm tóc ở Louisiana. Nội dung xoay quanh mối quan hệ thân thiết giữa các nhân vật chính, bao gồm: M'Lynn Eatenton (Sally Field): Một người mẹ tận tâm. Shelby Eatenton (Julia Roberts): Con gái của M'Lynn, một cô gái trẻ mắc bệnh tiểu đường nhưng vẫn muốn sống độc lập và lập gia đình. Truvy Jones (Dolly Parton): Chủ tiệm làm tóc, luôn là nguồn động viên cho các khách hàng của mình. Annelle Dupuy (Daryl Hannah): Một cô gái trẻ, mới chuyển đến và tìm kiếm vị trí trong cộng đồng. Clairee Belcher (Olympia Dukakis): Một người phụ nữ giàu có, thường mang đến những câu nói dí dỏm. Ouiser Boudreaux (Shirley MacLaine): Một người phụ nữ cá tính và thẳng thắn. Câu chuyện diễn ra quanh những niềm vui, nỗi buồn và thử thách trong cuộc sống của họ, đặc biệt là hành trình của Shelby khi cô quyết định mang thai mặc dù có nguy cơ sức khỏe cao. Tình bạn, tình yêu và sự hỗ trợ giữa các nhân vật được khắc họa rõ nét, cùng với những khoảnh khắc hài hước và cảm động. Phim nổi bật với thông điệp về sức mạnh của tình bạn và sự đoàn kết, cũng như khả năng vượt qua đau khổ trong cuộc sống. Steel Magnolias được coi là một tác phẩm kinh điển, đặc biệt với màn trình diễn ấn tượng của dàn diễn viên.