Có lẽ là quá “xưa” để nói về một bộ phim phát hành cách đây 21 năm cho dù nó đã đoạt một lúc 8 giải Oscar nhưng ấn tượng sau khi xem lại bộ phim này trên DVD là nó vẫn giữ được nguyên những giá trị nghệ thuật và tính đương đại của mình. Một thành công không nhỏ trong điện ảnh thế giới. Cái tên “Amadeus” hơi xa lạ với những ai không thật sự quan tâm tới nhạc cổ điển nhưng chỉ cần ta viết nguyên tên WOLFGANG AMADEUS MOZART thì tất cả đều có thể trầm trồ thích thú. Amadeus là một bộ phim nói về Mozart nhưng lại không phải là loại phim tiểu sử hay một dạng tương tự như thế, điều mà người xem cảm nhận được ngay lập tức trong phim là âm nhạc của Mozart, những nốt nhạc thiên thần của một thiên tài sớm vội tắt trên bầu trời âm nhạc. Nói một cách khác, Amadeus là phim âm nhạc về Mozart. Đạo diễn Milos Forman đưa chúng ta quay trở lại thành Vienna năm 1823 để gặp một nhân vật kỳ dị, một ông lão già nua và gàn dở, một kẻ tự sát, một tên sát nhân và những lời thú tội kinh hoàng sau 32 năm đau đớn. Kẻ ghê gớm ấy không phải là một người bình thường, ông ta chính là ANTONIO SALIERI – nhạc sĩ cung đình của vua Áo Joseph II, người đã một thời là bạn của Mozart. Ngày nay hầu như không còn ai nhắc tới những tác phẩm âm nhạc một thời lừng danh của Salieri nữa, chúng bị rơi vào quên lãng dưới những lớp bụi của thời gian và ngay chính bản thân nhạc sĩ cũng trở thành gần như vô danh.
Vô danh bên cạnh WOLFGANG AMADEUS MOZART.
Công bằng mà nói thì nhạc sĩ Salieri là một người có khả năng và ý chí. Tuy cuộc đời âm nhạc của ông đã có những bước khởi đầu không mấy thuận lợi nhưng bằng lòng đam mê và quyết tâm của mình, cuối cùng Salieri đã trở thành nhạc sĩ hoàng cung cho vua Áo.
Ta cũng nên biết rằng vào hồi thế kỷ XIX ở châu Âu thì Vienna là một trong những trung tâm lớn về âm nhạc của thế giới. Nó là miền đất hứa cho các tài năng, trong đó có Mozart. Sinh ra tại thành phố Salzburg và được học về âm nhạc bởi chính người cha mình, Leopold, một nhạc sĩ khá nổi danh thời ấy, Mozart đã sớm chứng tỏ thiên tài của mình từ nhỏ trong những chuyến công diễn vòng quanh châu Âu. Thế nhưng xã hội phong kiến châu Âu lúc bấy giờ nhìn nhận các nghệ sĩ chỉ như là một công cụ để mua vui. Mozart phục vụ cho nhà thờ nhưng vẫn chỉ là “một con khỉ biết làm trò” mà thôi. Các tài liệu lịch sử cho thấy sự phân biệt đẳng cấp này lớn đến mức mà nghệ sĩ được xếp cùng hạng với những người hầu. Và Mozart xuất hiện, ông chính là một cuộc cách mạng không chỉ riêng trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc mà cả trong việc thay đổi trật tự xã hội và đòi quyền công bằng cho các nghệ sĩ. Ta sẽ nói đến điều này trong quá trình diễn biến của bộ phim.
Amadeus bắt đầu bằng lời tự thú của Salieri – một sự thật lịch sử được ghi nhận. Ngay lập tức người xem được dẫn vào trung tâm câu chuyện, bị hấp dẫn bởi những điều bí ẩn. Trong cái nhà thương điên ấy ta có cảm giác như là một địa ngục có thật nơi dương thế với những bóng ma vật vờ, điên loạn. Tất cả chỉ là một câu chuyện giữa hai nhân vật, Salieri và vị cha cố, hay nói đúng hơn là tự truyện của Salieri – người đã phải mang nặng niềm hối hận đè nặng trong tim suốt 32 năm kể từ cái chết của Mozart. Người xem chắc chắn bị ấn tượng tức thì bởi tài năng diễn xuất của F. MURRAY ABRAHAM trong vai Salieri. Dưới những lớp da nhăn nheo vì tuổi tác và trong một bộ xương khô gầy gò là cả một sức sống mạnh liệt, là cả một niềm đam mê được thể hiện qua ánh mắt sáng rực mỗi khi ông nói về âm nhạc. Và âm nhạc, những nốt nhạc opéra sang trọng, một giọng ca tuyệt vời…Có một khoảnh khắc Salieri như sống lại với dĩ vãng đầy hào quang của chính mình.
Người xem có đôi chút ngỡ ngàng với sự xuất hiện của Mozart trong phim. Không hề giống với một nhạc sĩ lừng danh mà trong bộ trang phục rất sang ấy Mozart luôn là một chú bé con chơi trò đuổi bắt và chạy theo các cô gái trẻ. Với Salieri, ông từng nhìn nhận Mozart như thần tượng của chính mình nên khoảnh khắc hai kẻ “vụng trộm” bắt gặp nhau mới trớ trêu làm sao. Đạo diễn Milos Forman cũng đã rất khéo léo giới thiệu tính cách của Salieri cho người xem thông qua hành vi ông ta lẻn vào phòng tiệc để ăn vụng. Lẽ ra buổi biểu diễn của Mozart cho các khách mời của Giáo chủ đã là một bước tiến tốt trong sự nghiệp của ông thì sự bất cẩn của Mozart đã khiến ông bị thất sủng. Nhưng công chúng thì ngưỡng mộ Mozart. Từ những thước phim này đạo diễn Milos Forman đã làm bộc lộ tính khí của Mozart: tự tin và ngạo mạn. Cử chỉ Mozart mở toang cánh cửa, cúi chào công chúng hâm mộ mình và chổng…mông vào Giáo chủ đã nói lên tất cả. Không phải ai cũng hiểu giá trị tài năng âm nhạc của Mozart vào thời điểm ấy, riêng mình Salieri. Bằng cả sự ngưỡng mộ lẫn lòng ghen tỵ, Salieri đã len lén đến x
em bản nhạc của Mozart. Hãy lắng nghe đoạn ông kể lại cho vị cha cố về âm nhạc của Mozart, chỉ cần nhìn các cử chỉ của Salieri là người xem cũng đã đủ cảm nhận được vẻ đẹp thần thánh trong âm nhạc của Mozart. Định mệnh đã an bài, khi Mozart bị Giáo chủ xua đuổi thì chính Salieri lại là người xin vua Áo cho Mozart ở lại cung đình. Ta khó có thể đoán được lý do chính xác của quyết định này nhưng tôi nhìn nhận Salieri và Mozart như là Bá Nha và Tử Kỳ trong lịch sử Trung hoa, điểm khác biệt duy nhất là Salieri vừa ngưỡng mộ âm nhạc của Mozart và vừa căm ghét con người ông.
Chính sự mâu thuẫn và giằng co trong nội tâm của Salieri đã tạo nên sức cuốn hút của bộ phim. Ta có thể nhìn nhận Salieri như là “cái xấu” nhưng sự thực thì ông lại không hẳn như thế. Tôi nhìn thấy Salieri đơn giản là một “thử thách” đối với Mozart, một định mệnh được sắp đặt bởi Thiên Chúa. Thời ấy người ta tin tuyệt đối vào Đấng Tối cao và Nhà Thờ có một vai trò quan trọng với chính quyền. Dần dần trong diễn biến của bộ phim ta sẽ nhận thấy Salieri luôn xuất hiện như là một nhân chứng, như là một người kể chuyện. Bản thân ông lại không có gì quan trọng. Sự tương phản lạ kỳ giữa Salieri và Mozart, mặc dù cả hai đều xuất thân từ tỉnh lẻ, luôn làm người xem thích thú. Salieri không bao giờ hiểu nổi vì sao tài năng của Mozart lại ngông cuồng đến nhường ấy?
Không còn một từ nào thích hợp hơn để dành cho khả năng sáng tác đầy ngẫu hứng của Mozart ngoài hai chữ “Thiên tài”. Với ông những nốt nhạc dường như chỉ là một trò chơi xếp hình đơn giản, những khuông nhạc được định hình sẵn trong đầu chỉ đợi khoảnh khắc thích hợp để viết ra. Salieri là người đầu tiên nhận biết tài năng ấy và ông ta đã muốn thử thách Mozart trong lần ra mắt đầu tiên với vua Áo, một bản hành khúc được biên soạn rất cầu kỳ theo phong cách hoàng cung và tài năng của Salieri. “Chú bé” Mozart xuất hiện với tất cả dáng vẻ hợm hĩnh của một anh tỉnh lẻ mới về thành phố và thêm một lần nữa đã làm trò cười cho tất cả các bậc vương giả, công hầu trong triều. Thế nhưng hội đồng âm nhạc tối cao gồm các bậc thầy người Ý lừng danh của Vua Áo sẽ sớm phải nghiêng mình trước thần đồng trẻ tuổi Mozart. Trong khi các vị khả kính này còn đang băn khoăn tranh cãi là nên dùng thứ tiếng nào trong một vở Opéra ngoài tiếng Ý truyền thống ra thì Mozart đã thản nhiên trả lời vua Áo: “tiếng Đức”. Có lẽ đơn giản bởi vì Mozart nói tiếng Đức hay bởi vì ông sẽ viết một vở nhạc kịch cho những người nói tiếng Đức…Trả lời câu hỏi tại sao của vua Áo, Mozart đã rất giảndị nói rằng bản thân hình thức ngôn ngữ không quan trọng mà yếu tố quyết định chính là âm nhạc – nội dung căn bản của Opéra. Ngay chủ đề của vở Opéra của Mozart cũng làm cho hoàng cung ngạc nhiên khi ông lựa chọn tức thì bối cảnh hậu cung của vua Thổ. Và Mozart vẫn nói về tình yêu, bất chấp ý tứ xỏ xiên của các “bậc thầy” người Ý, nhưng bằng cách của riêng ông, vượt xa tất cả những khuôn khổ của âm nhạc thời bấy giờ.
Trong cảnh đám quần thần đổ xô vào lắng nghe tiếng nhạc vọng ra từ phòng khách của vua Áo có lẽ ít người hiểu được rằng một tài năng mới đang cất cánh bay lên. Với họ đơn giản chỉ là một điều gì đó lạ lẫm, khác biệt với âm nhạc cung đình “tiêu chuẩn”. Có một người cay đắng gượng cười, đó là Salieri. Ông đã không thể tự vượt qua chính mình trong âm nhạc và những khúc mắc những dở dang trong giai điệu của bản hành khúc đang được Mozart biến tấu một cách thần tình và hoàn mỹ. Salieri nhận ra những điều mà chính mình vẫn hằng khao khát đạt tới mà chưa bao giờ được lại quá đơn giản dưới những ngón đàn của chàng thanh niên trẻ Mozart. Năm ấy ông mới 26 tuổi.
Vở Opéra đầu tiên của Mozart viết theo “đơn đặt hàng” của cung đình đã thật sự là một tuyệt tác. Thành công của nó là tức thì và kéo theo rất nhiều điều thú vị và không thú vị khác. Chàng trai đa tình Mozart ngây ngất trong hào quang và giữa những người tình. Ông bố Leopold giận dữ vì lần đầu tiên Mozart đã không tuân theo những lời khuyên bảo của mình và tự tiện cưới vợ. Người xem hoàn toàn hiểu được đích nhắm cao hơn của Leopold vào các cô con gái của các bậc công hầu nhưng cặp Mozart – Constanze hài hoà với nhau một cách bất ngờ (hay ít ra cũng về yếu tố phòng the đơn thuần) và cũng bắt đầu từ đây cuộc đời của thiên tài chuyển sang một giai đoạn mới.
Đạo diễn Milos Forman đã rất khéo léo sắp xếp các chi tiết hài hước xen lẫn với các đại cảnh. Từng khuôn hình của ông đẹp một cách hoàn mỹ, chúng gợi cho người xem các bức tranh châu Âu thế kỷ XVIII & XIX. Việc quyết định lựa chọn Praha để quay phim đã là một quyết định rất sáng suốt vì đó là thành phố châu Âu duy nhất còn giữ lại được nguyên vẹn những kiến trúc gốc từ thời Mozart và trước đó nữa. Người xem hoàn toàn bị chinh phục bởi các trang trí, các nội thất. Nếu như bạn biết rằng chiếc ghế của vua Áo thật sự là một cổ vật có một không hai hay các diễn viên đang thật sự diễn trên tấm thảm làm từ nhiều thế kỷ trước…Trong điện ảnh không có chỗ cho sự hời hợt và cẩu thả nếu ta muốn thật sự làm một “tác phẩm”. Và xuyên suốt tất cả những hình ảnh ấy là âm nhạc của Mozart được lựa chọn kỹ càng và phối hợp hài hoà một cách tài tình. Người xem được chìm đắm và ngây ngất trong một thế giới của những âm thanh diệu kỳ. Ta không nhận ra ngay sự có mặt của âm nhạc, đơn giản vì nó là “môi trường” của Amadeus, là yếu tố không thể thiếu được, ta chỉ biết rằng mình đang bị chinh phục, bị lối cuốn. Nói về một nhạc sĩ thì không có gì hay hơn là dùng chính âm nhạc của ông để bộc bạch tâm hồn ông. Có lẽ ít khi người xem có dịp được tìm hiểu một tuyệt phẩm âm nhạc qua điện ảnh như thế. Trong Amadeus nội dung phim chỉ còn là minh hoạ, chính âm nhạc thần thánh của Mozart mới là “nhân vật” chính. Người xem cùng trăn trở với số phận long đong của nhạc sĩ rồi cùng bay bổng lên trong những nốt nhạc đầy tinh tế của ông.
Amadeus là một bộ phim của các xung đột trên tất cả mọi khía cạnh. Đó là mâu thuẫn giữa tuổi trẻ và khuôn thước được đại diện bởi Giáo Chủ. Đó là mâu thuẫn giữa định kiến và tự do. Một bên là các nhạc sĩ cung đình, một bên là chàng Mozart đầy tài năng. Mâu thuẫn giữa cha và con khi ông bố Leopold, người đã dành cả đời mình để nuôi dạy Mozart, muốn tiếp tục ép buộc chàng trai trẻ sống theo ý muốn của riêng mình. Điều ấy đã là không thể và sẽ còn luôn là một vấn đề lớn của nhân loại. Mâu thuẫn giữa đồng nghiệp mà Salieri là một minh hoạ tuyệt vời. Mâu thuẫn giữa nhu cầu tự do trong nghệ thuật và tiền bạc…ta có thể liệt kê ra đây thêm nhiều xung đột nữa nhưng theo NTL thì có hai vấn đề lớn nhất thuộc về bản chất và có tính bản lề cách mạng, đó là mâu thuẫn trong chính nội tâm của Salieri và sự đòi hỏi được tự do sáng tạo của Mozart.
Đam mê với âm nhạc và tìm tất cả mọi cách để đi tới nó, Salieri đã đặt một lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa để cầu mong cho những thành đạt của đời mình. Ông đã nguyện sẽ hiến dâng đời mình để sáng tác nhạc dâng lên Đấng tối cao nhưng bên cạnh đó Salieri lại muốn mình sẽ trở thành bất tử như Thiên Chúa. Hai điều này mâu thuẫn với nhau và không thể cùng tồn tại. Khi Salieri nhận ra khả năng hạn chế của mình trong nghệ thuật và nhất là khi ông phải đối mặt với một sự thật nghiệt ngã là Mozart lòng tin và niềm hy vọng vào phép mầu của Chúa trong ông đã sụp đổ. Cảnh Salieri ném cây Thánh giá vào lửa có một ý nghĩa rất lớn, trong một khía cạnh nào đó thì ông ta đã chọn Satan thay cho Chúa trời để phụng sự từ giây phút ấy. Thế nhưng Salieri là một người có hiểu biết và có khả năng cảm nhận âm nhạc rất cao, chứ không bị hạn chế như vua Áo. Ông khâm phục tài năng của Mozart, say mê âm nhạc của Mozart nhưng cũng biết cách sáng tác “phù hợp” với gu và khả năng thưởng thức của vua Áo. Yếu tố “chính khách” ở đây đóng một vai trò quan trọng. Ta có thể kết luận vấn đề này tuỳ theo quan điểm cá nhân nhưng Salieri đã thành công với một công chúng “giới hạn” và thất bại hoàn toàn trong nghệ thuật chân chính. Tự bản thân Salieri hiểu điều ấy.
Mozart thật sự là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa đen của nó khi ông nắm lấy quyền chủ động sáng tác mà vở Opéra “Figaro” là một minh chứng. Không những ông đã dám vượt qua những rào cản chết người, vua Áo cấm trình diễn Figaro vì nội dung mâu thuẫn giai cấp của nó và bản thân em gái của ông – hoàng hậu Pháp Marie-Antoinette đã bị rơi đầu vì cách mạng Pháp, mà còn có tài năng để thuyết phục vua Áo. Mozart đã mạnh dạn phá bỏ các luật lệ trong âm nhạc, làm tất cả sửng sốt bởi cách tạo hợp ca trong liền 20 phút. Vẫn không một ai hiểu giá trị nghệ thuật của Mozart ngoài Salieri. Thời bấy giờ nhạc sĩ chỉ là một người viết nhạc thuê cho nhà giàu. Ví dụ như khi có sinh nhật cô con gái rượu, ông quý tộc sẽ gọi nhạc sĩ đến và nói rằng tôi muốn có một bản nhạc như thế này, thế kia…nói một cách khác là chỉ dẫn chính xác cần phải làm gì. Mozart không chấp nhận điều ấy, ông đấu tranh đòi hỏi quyền được tự do sáng tác và giá trị cho chính cá nhân nhạc sĩ – một chỗ đứng xứng đáng trong xã hội phong kiến châu Âu. Và Mozart đã phải trả giá rất đắt cho việc làm dũng cảm của mình. Không kiếm được việc làm trong giới quý tộc, chỉ sống bằng tiền công những tác phẩm nghệ thuật và lòng yêu mến của người dân thành Vienna, cuộc sống của Mozart gặp phải không ít khó khăn.
Chính những mâu thuẫn rất gắt gao này đã tạo nên nhịp sống của Amadeus, làm thành các cao trào của phim, đưa người xem từ cảm xúc này đến cảm xúc khác một cách thật tự nhiên. Có thể đôi lúc ta chỉ cảm thấy cuộc đấu tay đôi giữa Salieri và Mozart nhưng nhìn chung bộ phim đã dựng lại thành công hiện thực xã hội cùng những “khuôn khổ” của nó thời Mozart. Khán giả không chỉ còn là một người xem đơn thuần mà thật sự đã là một nhân chứng trong phim, cùng sống những phút giây vinh quang và cực nhọc của đời một thiên tài.
Có lẽ dạo diễn Milos Forman đã hơi quá mạnh tay khi dùng nghệ thuật tương phản tính cách để làm nổi bật Mozart trong khi Salieri lại thật sự không “xấu xa” đến như vậy trong lịch sử. Giả sử chúng ta ở trong hoàn cảnh ấy thì chắc cũng sẽ có những phản ứng tương tự để “bảo vệ” các quyền lợi của mình mà thôi. Giới hạn mong manh duy nhất giữ cho người ta biết dừng lại đúng lúc chỉ phụ thuộc vào mức độ “văn minh” của mỗi cá nhân. Salieri thật sự nham hiểm, thủ đoạn của ông ta không có gì mới nhưng cách thực hiện nó lại rất tinh vi và gây hậu quả nghiêm trọng. Xem Amadeus chắc bạn sẽ không thể nào quên được những cảnh phim ấn tượng với cao trào của các sự kiện mà NTL thích nhất cảnh Constanze mang bản thảo đến nhà Salieri để nhờ ông ta giúp chồng mình có được việc làm dạy nhạc cho cháu gái vua Áo. Salieri đã rất ngạc nhiên, ông ta thoạt tiên không hiểu lý do thật sự rồi sau đó nắm lại quyền chủ động (trong đoạn phim cắt bỏ có cảnh Salieri ép vợ Mozart phải ngủ với mình), một phần nào đó Salieri đã cảm thấy thoả mãn khi Mozart phải cầu cạnh mình.
Thế nhưng ông ta lại không nghĩ tới một điều khác khi cầm trên tay những trang bản thảo gốc của Mozart: những nốt nhạc ngay ngắn, không một dấu tẩy xoá. Vẻ đẹp của âm nhạc sáng bừng lên trên những trang giấy, nó là hiện hữu của một tài năng không gì sánh nổi, vượt rất xa ngay chính Salieri. Cú đâm ấy là định mệnh. Salieri bàng hoàng, choáng váng, không tin ở mắt mình nữa. Những trang giấy vương vãi trên sàn nhà và nhạc sĩ cung đình chết điếng người đứng trơ trơ. Từ giây phút ấy Salieri coi Mozart là kẻ thù của mình trong âm nhạc. Ông tự nguyền sẽ tìm mọi cách để tiêu diệt Mozart. Khoảnh khắc ấy con quỷ trong Salieri đã lấn át phần người rất Thánh.
Nếu bạn đến với Amadeus để hy vọng nhìn thấy một “thánh nhân” Mozart thì có thể bạn sẽ hơi thất vọng khi bắt gặp những cảnh ăn chơi đàng điếm của Mozart. Đơn giản ông cũng là một nghệ sĩ như bao người khác và là một con người bình thường có nhu cầu sống như tất cả mọi người. Cách phản xử theo hình thức và định kiến là sai lầm. Rồi bạn thấy mình bị cuốn đi trong âm nhạc thần thánh của Mozart, nức nở với nó và quên đi tất cả. Mỗi vở Opéra của Mozart ít nhiều có cảm hứng từ những sự kiện đã ghi dấu ấn mạnh mẽ trong cuộc đời ông. Và lại chỉ riêng Salieri nhìn thấy trong “Don Giovanini” hình ảnh Leopold trách móc cậu con trai không tuân lời và những lời sám hối của chính Mozart. Nước Áo thời ấy đã may mắn có được một vị vua yêu mến âm nhạc nhưng cũng chính những khả năng hạn chế trong cảm nhận âm nhạc của Joseph II đã là một định kiến nghiệt ngã với sáng tạo. Ông ta không đủ khả năng hiểu và cảm nhận Mozart. Vở Opéra Figaro của Mozart đã không thành công đơn giản cũng vì lẽ ấy. Nhưng Mozart không dừng lại. Nếu như người ta vẫn gọi ông là người đến từ hành tính khác thì sứ mệnh duy nhất của ông là sáng tác âm nhạc. Không nản chí vì những khó khăn vật chất, Mozart tiếp tục sáng tác. Hình ảnh nhạc sĩ viết nhạc ngay trên bàn billard là một minh họa rất thú vị về cuộc đời của ông.
Mozart không có chỗ đứng xứng đáng trong cung đình đơn giản vì ông chưa bao giờ là một “chính khách” khéo léo nhưng trái lại cung đình cũng không phải là một môi trường thích hợp với Mozart bởi những hạn chế của nó. Trong phim ta không hề cảm thấy Mozart tiếc nuối việc làm tại hoàng cung sau những thành công rực rỡ ban đầu. Công chúng đã đón nhận tài năng của Mozart với tấm lòng rộng mở. Ở Vienna, Mozart được mọi người yêu mến và âm nhạc của ông đã thật sự đi vào lòng người. Với một nhạc sĩ thì còn có gì tuyệt vời hơn thế?
Trước khi đến với cung đình Áo thì tài năng của Mozart đã bay đi rất xa, ngay cả chính Salieri cũng đã rất ngưỡng mộ thiên tài trẻ tuổi ấy. Hoàng cung đơn giản chỉ là một bước đệm, một thử nghiệm của Mozart với dòng nhạc “quý tộc” chứ nó chưa bao giờ có ảnh hưởng quan trọng tới cuộc đời sáng tác của ông. Bên cạnh một Mozart tài năng, tự tin đến ngạo mạn thì trong Amadeus ta còn gặp một Mozart khác biết phục thiện và rất độ lượng. Không phải ông không biết Salieri luôn tìm cách hãm hại mình nhưng trong buổi vua Áo trao giải thưởng cho Salieri, một trong những phần thưởng tối cao của hoàng gia, thì vượt ra ngoài tư duy hẹp hòi của Salieri, Mozart đã đến chúc mừng với tất cả sự chân thành trong nghệ thuật. Cũng từ đây cuộc đời của Mozart bắt đầu đi vào những bước ngoặt mới không kém phần đau khổ. Đôi khi người xem tự hỏi làm sao một tâm hồn phong phú và nhạy cảm đến nhường ấy lại có thể chung sống với một người đàn bà “tầm thường” và hoàn toàn “thực dụng” như Constanze? Cô ta chưa bao giờ thật sự hiểu công việc của chồng, điều quan tâm duy nhất chỉ là tiền nhuận bút. Hình như Mozart cũng không có nhu cầu chia xẻ về nghệ thuật với Constanze, hai con người ấy tự nhiên hài hòa với nhau một cách lạ kỳ trong cuộc sống. Một phần nào sự bình yên trong gia đình ấy cũng là một chỗ dựa tốt cho nhạc sĩ những lúc thiếu thốn về vật chất. Giã từ hoàng cung, Mozart đến với thế giới bình dân – một môi trường âm nhạc đại chúng, rộng hơn rất nhiều và ít khắt khe hơn. Đây mới chính là thế giới của ông với tự do đích thực và một công chúng có khả năng đón nhận những sáng tạo mới mẻ.
Phần cuối của phim ta có thể nhận thấy hai sự kiện chính: cái chết của người cha, Leopold, và sức khoẻ của Mozart đang cạn kiệt dần. Về mặt tinh thần thì Leopold đã luôn là một chỗ dựa, nơi mà Mozart có thể tìm thấy những lời khuyên bảo hay nói một cách khác là ông luôn tìm thấy sự che chở nơi Leopold. Cùng với sự ra đi của người cha Mozart chơi vơi và đau khổ tột cùng. Những cảm xúc ấy đã góp phần tạo nên tác phẩm nổi tiếng “Don Giovanni”. Amadeus không tìm cách lý giải hay phân tích âm nhạc của Mozart nhưng nó thật sự là một tiền đề rất thú vị, tạo cảm hứng cho những ai từ trước đến nay ít quan tâm đến nhạc cổ điển. Sau khi xem Amadeus không ít người tìm nghe nhạc Mozart để cảm thấy những điều kỳ diệu của những thế kỷ trước.
Trong những cảnh phim về cuối, Mozart luôn xuất hiện với bộ dạng xanh xao và chai rượu giải sầu thường trực. Sự túng thiếu và cả thói ăn chơi hoang phí sức khoẻ đang giết dần, giết mòn tài năng ấy. Nhưng Mozart cần đến chúng như một cách tự giải thoát khỏi những bức bách trong sáng tạo, tuyệt vọng tìm cách thoát ra khỏi chính mình, đi tìm một điều mà chỉ có Mozart biết, hay thậm chí chính ông cũng chưa biết. Sáng tạo. Cảm ơn thành phố Praha đã cho phép camera quay tự do 360° và tái tạo lại chính xác nhất khung cảnh xã hội thời đó, cho người xem tới gần hơn và hiểu nhiều hơn số phận kỳ lạ của một thiên tài. Một trong những sự kiện gây ấn tượng ma quái trong phim là cảnh một người giấu mặt trong trang phục hoá trang của Leopold đến nhà đặt Mozart viết bản nhạc cầu hồn Requiem. Bây giờ người ta đã biết được chính xác tên của nhà quý tộc giấu mặt ấy nhưng trong phim thì đó chính là Salieri với mục đích tìm mọi cách huỷ hoại không những về thể chất mà cả tâm hồn Mozart. Riêng mình Salieri đã tìm được điểm yếu của Mozart sau khi xem vở Don Giovanni và ông ta liên tục xoáy vào đó. Những sự kiện tiếp nối dồn dập, sự túng quẫn đã ép Mozart làm việc quá sức cộng thêm với niềm đam mê sáng tạo ngày càng đưa nhạc sĩ gần tới cái chết được dự báo trước. Đạo diễn Milos Forman đã khéo léo thay đổi một vài chi tiết trong lịch sử để đẩy mâu thuẫn trong phim lên tới đỉnh điểm, làm tỏa sáng hơn bao giờ hết tài năng của Mozart. Bạn có thể nói chi tiết khi Mozart nằm trên giường bệnh và Salieri đã không theo kịp những ý sáng tạo trong âm nhạc của Mozart là thái quá nhưng NTL nhìn thấy ở đây một thủ pháp nghệ thuật đơn thuần. Một cuộc so gươm theo đúng truyền thống thời bấy giờ về tinh thần. Tất nhiên ta cũng nên biết rằng người chép những nốt nhạc cuối cùng này là một học trò của Mozart chứ không phải Salieri. Như thế cho đến tận phút cuối cùng Mozart đã hoàn toàn chinh phục Salieri bằng chính tài năng của mình. Salieri có thể hãm hại Mozart trên đường danh vọng hay có thể làm cho ông túng thiếu trong cuộc sống nhưng không bao giờ, không bao giờ Salieri có được tài năng âm nhạc như của Mozart. Thêm nữa nghệ thuật chân chính không cần danh vọng.
Ta cũng cần phải nói lời cảm ơn dành cho dàn nhạc giao hưởng danh tiếng “The Academy of St Martin in the Fields” đã thể hiện rất thành công các tác phẩm của Mozart cùng với các dàn đồng ca Ambrosian Opera Chorus, Academy of St Martin in the Fields Chorus, và The Choristers of Westminster Abbey. Nếu thiếu họ Amadeus đã không thể thành công. Cho đến từng khuôn hình cuối cùng người xem hoàn toàn mê đắm trong âm nhạc của Mozart và chính âm nhạc thần thánh ấy đã đưa tiễn nhạc sĩ ra đi hoàn toàn vô danh, trong một nghĩa trang công cộng, trong một ngôi mộ tập thể. Những lời kinh cầu vội vã, những chiếc xẻng vôi tạm bợ trong một ngày mưa tầm tã như muốn nhấn mạnh hơn cái “vô ngã” và làm nổi bật con người Mozart. Sự trở về muộn màng của Constanze và cậu con trai giống như kết thúc đẹp của một câu chuyện cổ tích, một sự an ủi tối hậu. Trong số những người đưa tiễn Mozart (chỉ tới cửa ô) ta có thể bắt gặp những khuôn mặt quen thuộc của hoàng gia, của bạn bè và của cô bé người hầu nức nở khóc một cách tuyệt vọng. Có lẽ cô mới là người thật sự hiểu giá trị con người của Mozart. Thiên Chúa đã chọn cách trả lời của riêng mình cho Salieri. Nếu như lúc đương thời vở “Axur” của ông ta đã được công diễn 100 lần, so với 5 lần của “Don Giovanni” và 9 lần cho “Marriage of Figaro”, thì ngày nay gần như không còn ai biết đến Salieri nữa. Bộ phim khép lại với cảnh Salieri hoàn toàn mất trí, được đẩy đi giữa đám người điên loạn cũng là một câu trả lời hay tuy rất kịch.
Trong mỗi con người chúng ta đều tồn tại một Salieri.
Riêng Mozart là duy nhất.
General
Unique ID : 26171925394012349726175714441745605873 (0x13B0878C1F87468FA994E32FA3DF24F1)
Complete name : C:\Users\Administrator\Downloads\Amadeus.1984.Theatrical.Cut.UHD.BluRay.2160p.DTS-HD.MA.5.1.DV.HEVC.HYBRID.REMUX-FraMeSToR.mkv
Format : Matroska
Format version : Version 4
File size : 74.3 GiB
Duration : 2 h 40 min
Overall bit rate mode : Variable
Overall bit rate : 66.4 Mb/s
Frame rate : 23.976 FPS
Movie name : Amadeus (1984) Theatrical Cut
Encoded date : 2025-03-02 13:28:05 UTC
Writing application : mkvmerge v90.0 ('Hanging On') 64-bit
Writing library : libebml v1.4.5 + libmatroska v1.7.1
IMDB : tt0086879
TMDB : movie/279
Video
ID : 1
Format : HEVC
Format/Info : High Efficiency Video Coding
Format profile : Main [email protected]@High
HDR format : Dolby Vision, Version 1.0, Profile 8.1, dvhe.08.06, BL+RPU, no metadata compression, HDR10 compatible / SMPTE ST 2086, Version HDR10, HDR10 compatible
Codec ID : V_MPEGH/ISO/HEVC
Duration : 2 h 40 min
Bit rate : 62.8 Mb/s
Width : 3 840 pixels
Height : 2 160 pixels
Display aspect ratio : 16:9
Frame rate mode : Constant
Frame rate : 23.976 (24000/1001) FPS
Color space : YUV
Chroma subsampling : 4:2:0 (Type 2)
Bit depth : 10 bits
Bits/(Pixel*Frame) : 0.316
Stream size : 70.2 GiB (95%)
Default : Yes
Forced : No
Color range : Limited
Color primaries : BT.2020
Transfer characteristics : PQ
Matrix coefficients : BT.2020 non-constant
Mastering display color primaries : Display P3
Mastering display luminance : min: 0.0001 cd/m2, max: 1000 cd/m2
Maximum Content Light Level : 690 cd/m2
Maximum Frame-Average Light Level : 74 cd/m2
Audio #1
ID : 2
Format : DTS XLL
Format/Info : Digital Theater Systems
Commercial name : DTS-HD Master Audio
Codec ID : A_DTS
Duration : 2 h 40 min
Bit rate mode : Variable
Bit rate : 3 112 kb/s
Channel(s) : 6 channels
Channel layout : C L R Ls Rs LFE
Sampling rate : 48.0 kHz
Frame rate : 93.750 FPS (512 SPF)
Bit depth : 24 bits
Compression mode : Lossless
Stream size : 3.48 GiB (5%)
Title : DTS-HD MA 5.1
Language : English
Default : Yes
Forced : No
Audio #2
ID : 3
Format : AC-3
Format/Info : Audio Coding 3
Commercial name : Dolby Digital
Codec ID : A_AC3
Duration : 2 h 40 min
Bit rate mode : Constant
Bit rate : 192 kb/s
Channel(s) : 2 channels
Channel layout : L R
Sampling rate : 48.0 kHz
Frame rate : 31.250 FPS (1536 SPF)
Compression mode : Lossy
Stream size : 220 MiB (0%)
Title : Isolated Score
Language : zxx
Service kind : Complete Main
Default : No
Forced : No
Dialog Normalization : -31 dB
dialnorm_Average : -31 dB
dialnorm_Minimum : -31 dB
dialnorm_Maximum : -31 dB
Text #1
ID : 4
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 46 b/s
Frame rate : 0.212 FPS
Count of elements : 1957
Stream size : 52.7 KiB (0%)
Title : English
Language : English
Default : No
Forced : No
Text #2
ID : 5
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 34 min
Bit rate : 30.3 kb/s
Frame rate : 0.404 FPS
Count of elements : 3732
Stream size : 33.4 MiB (0%)
Title : English (SDH)
Language : English
Default : No
Forced : No
Text #3
ID : 6
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 55 b/s
Frame rate : 0.153 FPS
Count of elements : 1414
Stream size : 62.3 KiB (0%)
Title : Arabic
Language : Arabic
Default : No
Forced : No
Text #4
ID : 7
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 62 b/s
Frame rate : 0.148 FPS
Count of elements : 1418
Stream size : 72.9 KiB (0%)
Title : Bulgarian
Language : Bulgarian
Default : No
Forced : No
Text #5
ID : 8
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 32 b/s
Frame rate : 0.153 FPS
Count of elements : 1411
Stream size : 36.6 KiB (0%)
Title : Chinese (Cantonese)
Language : Cantonese
Default : No
Forced : No
Text #6
ID : 9
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 31 b/s
Frame rate : 0.150 FPS
Count of elements : 1434
Stream size : 37.0 KiB (0%)
Title : Chinese (Simplified)
Language : Chinese (Simplified)
Default : No
Forced : No
Text #7
ID : 10
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 24.5 kb/s
Frame rate : 0.322 FPS
Count of elements : 2972
Stream size : 27.0 MiB (0%)
Title : Chinese (Traditional)
Language : Chinese (Traditional)
Default : No
Forced : No
Text #8
ID : 11
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 37 b/s
Frame rate : 0.152 FPS
Count of elements : 1406
Stream size : 42.7 KiB (0%)
Title : Czech
Language : Czech
Default : No
Forced : No
Text #9
ID : 12
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 21.1 kb/s
Frame rate : 0.255 FPS
Count of elements : 2356
Stream size : 23.2 MiB (0%)
Title : Danish
Language : Danish
Default : No
Forced : No
Text #10
ID : 13
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 21.0 kb/s
Frame rate : 0.320 FPS
Count of elements : 2956
Stream size : 23.2 MiB (0%)
Title : Dutch
Language : Dutch
Default : No
Forced : No
Text #11
ID : 14
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 37 b/s
Frame rate : 0.153 FPS
Count of elements : 1413
Stream size : 42.4 KiB (0%)
Title : Estonian
Language : Estonian
Default : No
Forced : No
Text #12
ID : 15
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 23.7 kb/s
Frame rate : 0.315 FPS
Count of elements : 2910
Stream size : 26.1 MiB (0%)
Title : Finnish
Language : Finnish
Default : No
Forced : No
Text #13
ID : 16
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 22.1 kb/s
Frame rate : 0.303 FPS
Count of elements : 2792
Stream size : 24.3 MiB (0%)
Title : French
Language : French
Default : No
Forced : No
Text #14
ID : 17
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 43 b/s
Frame rate : 0.164 FPS
Count of elements : 1511
Stream size : 49.1 KiB (0%)
Title : German
Language : German
Default : No
Forced : No
Text #15
ID : 18
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 34 min
Bit rate : 30.1 kb/s
Frame rate : 0.380 FPS
Count of elements : 3510
Stream size : 33.2 MiB (0%)
Title : German (SDH)
Language : German
Default : No
Forced : No
Text #16
ID : 19
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 65 b/s
Frame rate : 0.148 FPS
Count of elements : 1413
Stream size : 76.4 KiB (0%)
Title : Greek
Language : Greek
Default : No
Forced : No
Text #17
ID : 20
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 52 b/s
Frame rate : 0.148 FPS
Count of elements : 1416
Stream size : 61.0 KiB (0%)
Title : Hebrew
Language : Hebrew
Default : No
Forced : No
Text #18
ID : 21
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 34 b/s
Frame rate : 0.153 FPS
Count of elements : 1412
Stream size : 38.6 KiB (0%)
Title : Hungarian
Language : Hungarian
Default : No
Forced : No
Text #19
ID : 22
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 38 b/s
Frame rate : 0.159 FPS
Count of elements : 1463
Stream size : 43.1 KiB (0%)
Title : Indonesian
Language : Indonesian
Default : No
Forced : No
Text #20
ID : 23
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 39 b/s
Frame rate : 0.166 FPS
Count of elements : 1531
Stream size : 44.6 KiB (0%)
Title : Italian
Language : Italian
Default : No
Forced : No
Text #21
ID : 24
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 34 min
Bit rate : 28.6 kb/s
Frame rate : 0.402 FPS
Count of elements : 3718
Stream size : 31.5 MiB (0%)
Title : Italian (SDH)
Language : Italian
Default : No
Forced : No
Text #22
ID : 25
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 18.0 kb/s
Frame rate : 0.310 FPS
Count of elements : 2864
Stream size : 19.8 MiB (0%)
Title : Korean
Language : Korean
Default : No
Forced : No
Text #23
ID : 26
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 42 b/s
Frame rate : 0.154 FPS
Count of elements : 1420
Stream size : 47.6 KiB (0%)
Title : Latvian
Language : Latvian
Default : No
Forced : No
Text #24
ID : 27
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 37 b/s
Frame rate : 0.150 FPS
Count of elements : 1434
Stream size : 43.7 KiB (0%)
Title : Lithuanian
Language : Lithuanian
Default : No
Forced : No
Text #25
ID : 28
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 40 b/s
Frame rate : 0.155 FPS
Count of elements : 1429
Stream size : 46.1 KiB (0%)
Title : Malay
Language : Malay
Default : No
Forced : No
Text #26
ID : 29
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 22.4 kb/s
Frame rate : 0.348 FPS
Count of elements : 3210
Stream size : 24.6 MiB (0%)
Title : Norwegian
Language : Norwegian
Default : No
Forced : No
Text #27
ID : 30
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 33 b/s
Frame rate : 0.146 FPS
Count of elements : 1392
Stream size : 39.2 KiB (0%)
Title : Polish
Language : Polish
Default : No
Forced : No
Text #28
ID : 31
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 41 b/s
Frame rate : 0.171 FPS
Count of elements : 1575
Stream size : 47.3 KiB (0%)
Title : Portuguese (Brazilian)
Language : Portuguese (BR)
Default : No
Forced : No
Text #29
ID : 32
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 37 b/s
Frame rate : 0.175 FPS
Count of elements : 1617
Stream size : 42.2 KiB (0%)
Title : Portuguese (Iberian)
Language : Portuguese (PT)
Default : No
Forced : No
Text #30
ID : 33
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 64 b/s
Frame rate : 0.153 FPS
Count of elements : 1415
Stream size : 72.3 KiB (0%)
Title : Russian
Language : Russian
Default : No
Forced : No
Text #31
ID : 34
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 36 b/s
Frame rate : 0.142 FPS
Count of elements : 1356
Stream size : 42.6 KiB (0%)
Title : Slovenian
Language : Slovenian
Default : No
Forced : No
Text #32
ID : 35
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 24.1 kb/s
Frame rate : 0.306 FPS
Count of elements : 2824
Stream size : 26.5 MiB (0%)
Title : Spanish (Castilian)
Language : Spanish (ES)
Default : No
Forced : No
Text #33
ID : 36
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 23.5 kb/s
Frame rate : 0.309 FPS
Count of elements : 2850
Stream size : 25.9 MiB (0%)
Title : Spanish (Latin American)
Language : Spanish (Latin America)
Default : No
Forced : No
Text #34
ID : 37
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 33 min
Bit rate : 23.1 kb/s
Frame rate : 0.347 FPS
Count of elements : 3198
Stream size : 25.4 MiB (0%)
Title : Swedish
Language : Swedish
Default : No
Forced : No
Text #35
ID : 38
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 91 b/s
Frame rate : 0.151 FPS
Count of elements : 1441
Stream size : 106 KiB (0%)
Title : Thai
Language : Thai
Default : No
Forced : No
Text #36
ID : 39
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Duration : 2 h 39 min
Bit rate : 37 b/s
Frame rate : 0.147 FPS
Count of elements : 1407
Stream size : 44.2 KiB (0%)
Title : Turkish
Language : Turkish
Default : No
Forced : No
Menu
00:00:00.000 : en:"Forgive Me"
00:04:52.792 : en:Can't Name Tune
00:09:57.013 : en:Pray/Immortality
00:13:01.823 : en:Where Mozart Is
00:20:35.025 : en:Voice of God
00:23:50.679 : en:Emperor Decides
00:26:10.068 : en:Emperor and Mozart
00:30:46.720 : en:Make Music Work
00:36:42.242 : en:"Seraglio" Songbird
00:42:40.600 : en:Too Many Notes
00:44:42.138 : en:Had by Mozart
00:49:17.288 : en:An Absolute Beauty
00:57:10.218 : en:Enemies Now On
00:58:44.062 : en:Leopold Arrives
01:03:10.620 : en:Master at the Game
01:08:46.289 : en:A New Servant
01:12:09.408 : en:Inside Information
01:16:00.347 : en:Case for "Figaro"
01:22:37.369 : en:The Dance Is Out
01:27:15.313 : en:The Dance Is In
01:29:25.902 : en:A (Yawn) Miracle
01:32:30.545 : en:Music Says Salieri
01:36:54.809 : en:Leopold's Ghost
01:43:13.521 : en:Mystery Commission
01:46:46.108 : en:How One Kills Man?
01:48:59.867 : en:Pop Entertainment
01:53:07.406 : en:Schikaneder Offer
01:55:13.615 : en:Unwritten Music
01:58:45.577 : en:"It's Killing Me"
02:04:13.863 : en:Constanze Leaves
02:06:50.144 : en:"The Magic Flute"
02:10:53.971 : en:Money From the Man
02:16:24.510 : en:Bedside Dictation
02:21:51.878 : en:"Forgive Me"
02:24:50.181 : en:Last Wishes
02:29:06.062 : en:Pauper's "Requiem"
02:32:27.930 : en:Saint/Mediocrities
02:34:37.602 : en:End Credits
Join the conversation
You can post now and register later. If you have an account, sign in now to post with your account.