Demon Pond (tựa Nhật: 夜叉ケ池 Yasha-ga Ike) của đạo diễn Shinoda Masahiro suýt bị lãng quên cho đến khi được khôi phục và phát hành chất lượng 4K ra nước ngoài năm 2021. Nhờ vậy, chúng ta mới có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp hư ảo và màn trình diễn xuất chúng của dàn diễn viên gạo cội, đặc biệt là onnagata Tamasaburo Bando V trong hai vai Yuri và Công Chúa Rồng Shirayuki.
Yếu tố kịch sân khấu trong phim
Onnagata (女形/女方) là nam diễn viên đảm nhận vai nữ trong nghệ thuật sân khấu kịch kabuki. Điều này diễn ra từ năm 1629 khi chính quyền cấm nữ giới diễn kabuki để ngăn tình trạng mại dâm cũng như bạo lực khi các kim chủ tranh giành nữ diễn viên. Thế nhưng, lệnh cấm không chấm dứt được tình trạng trên bởi vì nam diễn viên cũng được cả hai giới yêu thích. Cho đến năm 1942, onnagata cũng bị cấm luôn, nam giới chỉ được diễn vai nam. Năm 1944, lệnh cấm được gỡ bỏ và đến tận ngày nay, các đoàn Kabuki vẫn duy trì toàn bộ diễn viên nam.
Dragon-Princess
Đối với những ai am hiểu văn hóa Nhật, việc Tamasaburo đóng vai nữ trong phim điện ảnh có lẽ không có gì khó hiểu, nhất là Demon Pond vốn chuyển thể từ tác phẩm kịch của Izumi Kyōka. Nhưng khán giả phương Tây lại có vẻ sốc, một phần bởi họ không biết tên tuổi Tamasaburo, cũng như phong cách diễn kabuki sử dụng trong phim. Nhìn chung, ngoại trừ giọng nói đôi khi khiến ta nhận ra nam diễn viên, còn lại thì diễn xuất trang nghiêm, đầy khí chất thần tiên của Tamasaburo mang lại cho bộ phim nét thẩm mỹ độc đáo.
Truyền thuyết Demon Pond
Quay lại nội dung, Demon Pond dựa theo truyền thuyết gắn liền với địa điểm có thật, hồ Yashagaike tại Minamiechizen, Fukui-ken. Hồ này nằm trên đỉnh núi cách mặt nước biển 1100m và từ thời xa xưa chưa hề bị cạn khô. Tương truyền tại hồ này có vị thần rồng ban mưa thuận gió hòa cho dân làng gần đó, đổi lại thần bắt con gái trưởng làng về làm vợ. Hồ nước kì bí này từ trước đến nay luôn là điểm đến của dân mê leo núi, cũng như là nơi trú ngụ của hệ sinh thái động thực vật độc đáo.
demon-pond-still
Tương tự, Đầm Dạ Xoa trong phim cũng là nơi trú ngụ của tộc Rồng, từ nhiều đời bị trói buộc bởi lời thề với dân làng không bao giờ rời khỏi hồ. Nếu những vị thần rời bỏ vùng hồ, một cơn lũ sẽ trào lên nhấn chìm cả ngôi làng. Thảm họa sẽ không xảy ra nếu đều đặn mỗi ngày người dân đánh chuông ba lần vào mỗi buổi bình minh, hoàng hôn, nửa đêm, để nhắc nhớ các vị thần về lời thề năm xưa.
Đều đặn hàng trăm năm đều có người đánh chuông, cho đến khi hạn hán kéo dài khiến dân làng không còn tin tưởng vào thần thánh hay những câu chuyện dân gian. Đối với họ, thà chịu một cơn lụt còn hơn không có nước uống. Cơn đói khát khiến họ mất đi phần người, lẫn mang tiêu chuẩn kép: xem việc đánh chuông là mê tín nhưng lại muốn hiến tế một người vô tội để cầu mưa. Phim thẳng thắn bày tỏ thái độ misanthrope (thù ghét loài người) ở nhân vật chính con người lẫn phía thần linh.
Công Chúa Rồng Shirayuki tương tư hoàng tử hồ Senja ở Kengamine đến mức quên cả làm mưa. Vì lời thề tổ tiên mà không thể rời đi, nàng rất tức giận, sẵn sàng phá vỡ giao ước để được bên cạnh người yêu, không thèm quan tâm đến dân làng. Màn đấu tranh giữa công chúa và người hầu cận rất ấn tượng. Ta hiểu được rằng, thần linh cũng chẳng khác con người là mấy, họ cũng khao khát, căm hờn, ích kỷ, cũng chưa chắc biết giữ chữ tín. Điều quan trọng là lựa chọn sau cùng của họ đã giúp dân làng thoát chết hết lần này đến lần khác.
Nếu đã đọc qua thần thoại Nhật Bản, hẳn bạn sẽ không lạ gì những màn giận dỗi của các vị thần trong Thần đạo nước này. Nữ thần Mặt Trời Amaterasu lại chẳng từng vì giận em trai mà nhốt mình trong Thiên Nham Cung, khiến thế giới chìm trong tăm tối? Khác với Amaterasu, Shirayuki vẫn níu kéo được chút tinh thần trách nhiệm của mình, một phần cũng nhờ sự hiện diện của Yuri đánh động tâm can nàng. Cô nhận ra rằng cơn lũ ngoài giết chết đám cặn bã, còn có thể vạ lây những con người trong sáng như Yuri.
Yuri là một tồn tại thánh thiện đã vô tình cứu dân làng thoát chết nhiều lần. Lần đầu tiên, vẻ đẹp mong manh của cô đã thuyết phục Akira ở lại làm người đánh chuông. Cũng như công chúa, Akira không quan tâm đến dân làng đã mất lòng tin vào thần linh, anh chỉ quan tâm Yuri cũng sẽ cuốn đi theo cơn lũ. Lần hai là khi cô cất tiếng hát khiến Shirayuki đổi ý, không cắt đứt dây chuông. Lần ba là ngay sau đó, Yuri thay chồng gõ chuông nửa đêm, đẩy các vị thần trở lại hồ.
Con người tự kết án tử cho mình khi gây tổn hại đến sinh linh trong sáng duy nhất này. Các vị thần cũng chỉ chờ đợi con người mắc sai lầm như thế. Demon Pond táo bạo đả kích đủ thành phần xã hội không còn giữ được chân tâm: thầy tu Thần Đạo hạ nhục một nữ nhân bằng cách trói cô lõa thể vào con bò, giáo viên đáng lẽ là người tri thức cũng tin vào hủ tục đó, người võ sĩ lực lưỡng ức hiếp một phụ nữ yếu mềm, đi ngược tinh thần võ sĩ đạo. Tất cả được phơi bày trong cao trào gần cuối phim.
Yuri thật sự là ai?
Shinoda Masahiro là một trong những đạo diễn quan trọng của lịch sử điện ảnh Nhật, thế nhưng tác phẩm của ông chưa được phát hành rộng rãi ra nước ngoài. Một số tác phẩm của ông, ngoài Demon Pond còn có các tác phẩm đầy thử thách khác như “cổ tích người lớn” Under the Blossoming Cherry Trees (1975), Double Suicide (1969), Himiko (1974), phim noir Pale Flower (1961), Silence (1971) – phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của tác giả Shūsaku Endō. Martin Scorsese đã từng chuyển thể tiểu thuyết này thành phim năm 2016.
General
Unique ID : 201020119575879715944700026887137602998 (0x973B1117F0B30D9ED6D851D165AF2DB6)
Complete name : C:\Users\Psycho\OneDrive - Cong Doan University\Demon.Pond.1979.2160p.UHD.BluRay.REMUX.HEVC.FLAC.1.0-RMS.mkv
Format : Matroska
Format version : Version 4
File size : 81.8 GiB
Duration : 2 h 4 min
Overall bit rate mode : Variable
Overall bit rate : 94.0 Mb/s
Frame rate : 23.976 FPS
Encoded date : 2024-10-18 06:14:21 UTC
Writing application : mkvmerge v75.0.0 ('Goliath') 64-bit
Writing library : libebml v1.4.4 + libmatroska v1.7.1
Video
ID : 1
ID in the original source medium : 4113 (0x1011)
Format : HEVC
Format/Info : High Efficiency Video Coding
Format profile : Main [email protected]@High
Codec ID : V_MPEGH/ISO/HEVC
Duration : 2 h 4 min
Bit rate : 92.3 Mb/s
Width : 3 840 pixels
Height : 2 160 pixels
Display aspect ratio : 16:9
Active height : 2 079 pixels
Active display aspect ratio : 1.85:1
Frame rate mode : Constant
Frame rate : 23.976 (24000/1001) FPS
Color space : YUV
Chroma subsampling : 4:2:0 (Type 2)
Bit depth : 10 bits
Bits/(Pixel*Frame) : 0.464
Stream size : 80.3 GiB (98%)
Title : MPEG-H HEVC Video / 92297 kbps / 2160p / 23.976 fps / 16:9 / Main 10 @ Level 5.1 @ High / 10 bits / BT.709
Language : English
Default : Yes
Forced : No
Color range : Limited
Color primaries : BT.709
Transfer characteristics : BT.709
Matrix coefficients : BT.709
Original source medium : Blu-ray
Audio
ID : 2
Format : FLAC
Format/Info : Free Lossless Audio Codec
Codec ID : A_FLAC
Duration : 2 h 4 min
Bit rate mode : Variable
Bit rate : 1 694 kb/s
Channel(s) : 1 channel
Channel layout : M
Sampling rate : 192 kHz
Frame rate : 46.875 FPS (4096 SPF)
Bit depth : 24 bits
Compression mode : Lossless
Stream size : 1.47 GiB (2%)
Title : FLAC Audio / 1.0 / 192 kHz / 1 694 kbps / 24-bit
Language : Japanese
Default : Yes
Forced : No
MD5 of the unencoded content : BB00553F42EEAD3774DFB308FB324018
Text
ID : 3
ID in the original source medium : 4608 (0x1200)
Format : PGS
Codec ID : S_HDMV/PGS
Codec ID/Info : Picture based subtitle format used on BDs/HD-DVDs
Duration : 2 h 3 min
Bit rate : 22.1 kb/s
Frame rate : 0.312 FPS
Count of elements : 2308
Stream size : 19.5 MiB (0%)
Language : English
Default : Yes
Forced : No
Original source medium : Blu-ray
Menu
00:00:00.000 : en:Chapter 01
00:05:32.332 : en:Chapter 02
00:10:54.528 : en:Chapter 03
00:18:55.342 : en:Chapter 04
00:24:23.795 : en:Chapter 05
00:35:24.580 : en:Chapter 06
00:43:25.185 : en:Chapter 07
00:47:46.697 : en:Chapter 08
00:53:38.173 : en:Chapter 09
00:59:10.964 : en:Chapter 10
01:13:30.823 : en:Chapter 11
01:21:43.982 : en:Chapter 12
01:30:42.353 : en:Chapter 13
01:51:49.160 : en:Chapter 14
Join the conversation
You can post now and register later. If you have an account, sign in now to post with your account.