Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,724 files
-
"The Bourne Identity" là một bộ phim hành động gián điệp ra mắt năm 2002, được đạo diễn bởi Doug Liman. Bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của tác giả Robert Ludlum và là phần đầu tiên trong loạt phim về nhân vật Jason Bourne.
Bộ phim kể về một người đàn ông mất trí nhớ (do Matt Damon thủ vai) được tìm thấy trôi dạt trên biển bởi một nhóm ngư dân. Anh ta không nhớ mình là ai, nhưng trong túi áo có một số tài liệu và một thiết bị cấy dưới da. Khi cố gắng tìm lại danh tính, anh phát hiện ra mình bị truy đuổi bởi các nhóm người lạ mặt và bị cuốn vào một âm mưu gián điệp quốc tế. Dần dần, anh nhớ ra mình là Jason Bourne, một đặc vụ giỏi với nhiều kỹ năng sát thủ, nhưng không rõ vì sao mình bị mất trí nhớ và ai là người muốn giết anh.
-
Star Trek Beyond" (2016) là bộ phim thứ ba trong loạt phim Star Trek được tái khởi động, bắt đầu từ "Star Trek" (2009). Phim do Justin Lin đạo diễn, với kịch bản được viết bởi Simon Pegg và Doug Jung. Đây là bộ phim hành động khoa học viễn tưởng với sự tham gia của dàn diễn viên quen thuộc như Chris Pine trong vai Thuyền trưởng James T. Kirk, Zachary Quinto trong vai Spock, Karl Urban trong vai Dr. Leonard "Bones" McCoy, và Zoe Saldana trong vai Nyota Uhura.
"Star Trek Beyond" tiếp tục theo chân phi hành đoàn của tàu USS Enterprise trong chuyến hành trình khám phá không gian. Khi đang thực hiện một nhiệm vụ cứu hộ trên hành tinh lạ, họ bị tấn công bởi một lực lượng kẻ thù bí ẩn do Krall (do Idris Elba thủ vai) lãnh đạo. Tàu Enterprise bị phá hủy, và phi hành đoàn bị mắc kẹt trên một hành tinh xa lạ. Họ phải hợp tác với một đồng minh mới, Jaylah (do Sofia Boutella thủ vai), để tìm cách thoát khỏi hành tinh này và ngăn chặn âm mưu của Krall nhằm tiêu diệt Liên bang.
-
Dạo gần đây trên new feeds facebook của tôi tràn ngập hình ảnh, bình luận, trạng thái về The Hunger Games, về các nhân vật cũng như những tình tiết trong phim. Tôi là một con bé đọc truyện trước khi xem phim, vậy nên tình cảm dành cho truyện đương nhiên lớn hơn rất nhiều so với tập phim chỉ dài vỏn vẹn 2 tiếng 30 phút. Hôm nay, đặt tay lên bàn phím, là muốn viết một chút gì đó, như lưu giữ về cuốn sách này, về những nhân vật mà tôi yêu.
The Hunger Games có tổng cộng ba tập, lần lượt lấy tên Hunger Games, Catching Fire và Mockingjay. Ở Việt Nam, Nhã Nam mới xuất bản cuốn đầu tiên, với tựa ‘Đấu Trường Sinh Tử’. Sau khi đọc tập một, tôi đã không thể cưỡng lại bản thân mình mà tìm bản tiếng anh của hai cuốn còn lại đọc tiếp. Nhưng trong bài viết này, sẽ chỉ nói về những gì xảy ra trong cuốn đầu tiên ( nhưng có trích dẫn từ những cuốn sau, vì như vậy mới thấy được rõ ràng những tình cảm, những đè nén ).
Nếu như ai từng xem hoặc đọc qua Battle Royale của Nhật Bản, hẳn sẽ thấy The Hunger Games có vài nét tương đồng. Những nhân vật trong hai tác phẩm này đều bị đưa đến một nơi xa lạ, phải chém giết nhau để đến cuối chỉ còn một người tồn tại. Nhưng có lẽ, The Hunger Games được sáng tác bởi một người Mỹ, nên trò chơi này không chỉ dừng lại ở việc răn đe lớp trẻ, mà còn trở thành một chương trình truyền hình, nơi tất cả người dân bắt buộc phải xem, phải nhìn những con người ấy tiêu diệt lẫn nhau, nhìn bản năng sống còn trỗi dậy trong từng cá thể dù là nhỏ bé nhất. Capitol trong The Hunger Games tạo ra trò chơi nhằm mục đích cho toàn thể mười hai quận thấy được quyền lực của mình, và chẳng gì dại dột hơn là việc đứng lên đấu tranh một lần nữa.
Tôi đặc biệt thích đoạn đầu của câu chuyện, khi mà cuộc sống của Katniss tuy khó khăn, tuy khổ cực nhưng vẫn có bình yên, vẫn có những tiếng cười trong trẻo hạnh phúc bên người mình yêu thương. Có lẽ tôi đã quá yêu cánh rừng ấy, quá yêu khu chợ đen bẩn thỉu ấy, quá yêu hình ảnh Gale cùng Catnip của anh sánh vai mất rồi… Có chút buồn khi lên phim tất cả những thứ tôi yêu chỉ còn lại vài phút ngắn ngủi, với ánh mắt đượm buồn của Gale, với mẩu bánh mì bẻ đôi trước giờ chiêu quân.
À đấy, tôi vẫn nhớ mình đã cảm thấy ngạc nhiên thế nào, khi nhận ra rằng thế giới trong The Hunger Games là thế giới của những năm sau này, thế giới của tân tiến hiện đại. Bởi lẽ, cuộc sống của nhân dân quận 12 nào có được như thế? Họ tạo cho tôi thứ cảm giác rằng họ đang sống ở thế kỉ mười chín hai mươi, khi mà họ phải đun nước tắm, phải đi bộ trong những chiếc ủng da ướt sũng nước, phải săn bắn hái lượm đặt bẫy hòng kiếm thức ăn. Tác giả đã đánh một đòn rât đau vào sự khác biệt quá lớn giữa Capitol và cuộc sống của nhân dân các quận.
Nhiều người nói rằng họ thích đoạn các vật tế bắt đầu bước vào cuộc chiến giành lấy sự sống, nhưng tôi vẫn đặc biệt ấn tượng hơn với những hoạt động xung quanh cuộc chơi ấy. Những talk show trêu đùa về cái chết, những chương trình truyền hình trực tiếp mọi điều về các vật tế, rồi người điều khiển thêm thắt chút lửa chút nắng mưa làm tội làm tình vật tế… Ừ, với những người ở Capitol, vật tế chẳng phải là con người, chỉ như quân cờ trên bàn cờ để tiêu khiển mà thôi.
Nội dung của The Hunger Games tạo cảm giác hồi hộp, pha chút rùng rợn, cứ tự hỏi nhau rằng không biết liệu Katniss làm sao để thoát khỏi nơi này? Không biết chờ đợi phía trước còn những điều gì nữa? Việc khoanh vùng hai mươi tư vật tế tại một nơi, để tất cả giết chóc chà đạp nhau, khơi dậy trong lòng con người, là nỗi sợ, là đau thương, là mất mát. Bờ vực giữa sự sống và cái chết thật vô cùng mong manh. Vậy nên mới nói, cách tác giả lèo lái dẫn dắt câu chuyện khiến cho người đọc khó lòng mà dừng lại được, cứ vậy lần theo từng câu chữ thôi.
Những nhân vật được xây dựng rõ nét, có điểm nhấn. Một Katniss mạnh mẽ, từ nhỏ đã gánh vác tất cả công việc trong gia đình, đồng thời cũng rất nhạy cảm, muốn được che chở. Con gái không phải luôn vậy sao? Peeta là một chàng trai bình thường, hết sức bình thường, nhưng cái bình thường ấy không phải sự tầm thường mà người ta vẫn luôn nghĩ. Cậu nhất quyết không để Capitol thay đổi mình, không muốn biến mình thành quân cờ tiêu khiển. Một chàng trai dù bị mắng bị chửi vẫn muốn giúp một cô gái nhỏ giữa cơn mưa lớn bằng cách cho cô ổ bánh mì, thì hẳn là một người tuyệt vời, nhỉ? Thật ra, Katniss với Peeta gần như sinh ra để dành cho nhau, dù thế nào cũng không thể chối cãi. Tình cảm của hai người, có thể ví như bồ công anh trong gió, là sự tái sinh, sau bao nhiêu cay đắng.
Nhưng thực tế tôi lại không muốn vậy. Vì tôi đã lỡ yêu Gale, lỡ yêu chàng trai ngày ngày cùng Katniss đi săn, cùng Katniss cười đùa về những trò lố của Capitol. Lỡ yêu chàng trai luôn ầm thầm hướng theo cô mất rồi. Từ giây phút đầu anh xuất hiện trong truyện, tôi đã cảm thấy anh luôn là chỗ dựa vững chắc, là nhân vật tạo cảm giác yên bình vững chắc và thực ấm áp khi ở cạnh bên. Yêu nhất cách anh gọi “Catnip”, vì đấy chỉ thuộc về anh mà thôi, không phải ai khác, chỉ anh. Nhưng số phận sắp đặt anh mãi mãi chỉ là nam phụ, là nhân vật đứng cạnh bên cô gái ấy, che chở nhưng không bao giờ có thể chạm đến. Để tôi có thể bỗng chốc nhận ra rằng, càng ngày bản thân càng thích nam phụ, càng thích những chàng trai không bao giờ được yêu thương. Rồi bật cười mà nghĩ, trước đây tôi đã từng ích kỉ ra sao, khi trù dập những nhân vật như thế, để kiếm tìm một thứ hạnh phúc đương nhiên phải có của hai nhân vật chính.
Cuốn đầu tiên của The Hunger Games kết thúc trong sự mất mát lớn nhất, có lẽ là Rue. Rue, em tinh nghịch, nhanh nhảu và đáng yêu biết mấy. Một tâm hồn trẻ thơ mê thích ca hát, thích bầu bạn với chim muông cây cỏ, vậy mà đã ra đi dưới sự tàn độc của một bộ máy, dưới ánh mắt đau đớn và bất lực của người yêu thương em. Chắc hẳn sự ra đi của em là một trong những cảnh xúc động nhất và khó quên nhất ngay cả ở phim hay truyện. Nhờ em, lần đầu tiên Katniss hiểu được, dù thế nào, cũng vẫn phải giữ được tâm hồn, giữu được phẩm chất. Như vậy, mới có thể hoàn toàn chiến thắng thứ trò chơi bạo lực đau thương này.
Chặng đường The Hunger Games còn dài, còn thật nhiều mất mát. Cuốn sách đầu tiên khép lại, có thể là tiếng thở phào nhẹ nhõm, nhưng đón chờ trước mắt, không phải chỉ một Rue, không phải chỉ mấy chục người trong trò chơi, mà còn cả những người không liên can, cả những người vô tội nữa.
Và rồi vẫn vang vọng đâu đây câu nói trong tiếng cười đùa, tiếng tung hô, một câu nói mà phải trải qua mới hiểu hết được sự chua xót, đớn đau.
-
Qua 4 năm, Đấu trường Sinh Tử cũng đã đến hồi kết. Cuộc chiến để dành lấy tự do, dân chủ và hoà bình cho toàn Panem sẽ được diễn ra khốc liệt nhất khi toàn bộ quân nổi dậy đánh chiếm Capitol. Nhưng chắc chắn bạn phải là một fan cuồng nhiệt của cuốn sách bán chạy nhất trong những năm qua hoặc (và) fan hâm mộ của loạt phim cùng tên này thì bạn mới có thể chấp nhận được cách mà bộ phim kể cho bạn hồi kết diễn ra như thế nào.
Trong tập cuối của sách Húng Nhại, nhà làm phim cố gắng chia làm 2 phần để có thể kể chi tiết hơn về câu chuyện của Katniss Everdeen, Húng Nhại, người con gái vởi sự dũng cảm và hành động quả quyết đã đưa Panem lên một bước tiến mới. Nhưng với việc chia ra này, dường như kịch bản phim đã quá cố gắng nhồi nhét, tô vẽ lên nữ anh hùng Panem Húng Nhại, quá tập trung vào những mảng miếng hành động và để cho người xem như được nhập vai vào cuộc phiêu lưu của Katniss đến Capitol mà bỏ sót khá nhiều chi tiết, mà vốn dĩ là những điều làm nên sự khác biệt cho bộ phim The Hunger Games.
1. Vai trò của Tổng thống Coin
Ai cũng biết rằng quận 13 được lãnh đạo bởi Tổng thống Coin, một người phụ nữ quyền uy thông minh – đối trọng với Tổng thống Snow của Capitol, đã dành nhiều thắng lợi và tạo ra liên minh giữa các quận khác nhau. Và nếu cuộc nổi dậy thắng lợi thì bà ấy trở thành một Tổng thống tạm quyền là điều hiển nhiên cho đến khi có một cuộc tổng bầu cử dân chủ diễn ra sau đó. Nhưng bộ phim gò ép một cách không thể hiểu, một tổng thống đã giúp sức cho Katniss, hoá thành một kẻ lợi dụng với đầy mưu mô chính trị, sẵn sàng hy sinh thường dân có cả trẻ em để đạt được tham vọng của mình. Vậy điều gì làm cho bà ta biến đổi như thế? Ngay từ phần 1 Húng Nhại, không có một chi tiết hé lộ về điều này và mọi thứ diễn ra chóng vánh trong phần 2, điều đó làm người xem (mà chưa đọc qua sách) bất ngờ mà không có một manh mối nào dẫn đến điều đó cả.
Có lẽ phần hay của kịch bản vẫn tập trung vào Katniss khi mũi tên của Húng Nhại đã giết chết kẻ tạo ra Húng Nhại. Khi cô biết âm mưu của bà ta, và cách mà bà ta trả thù Capitol cũng chẳng khác gì so với ông Tổng thống Snow cả. Lòng quả cảm của Húng Nhại là điều duy nhất làm người xem thán phục, đó là do lối diễn xuất trọn vẹn của Jennifer Lawrence.
2. Diễn biến của cuộc nổi dậy
Hẳn rằng khi bạn đi coi phần 2, bạn mong muốn nhìn thấy cuộc nổi dậy của quân khởi nghĩa. Nhưng bạn sẽ chẳng thấy nhiều cảnh đó, mà chủ yếu là đội của Katniss đi sâu vào Capitol mà thôi. Hoặc những cuộc nổi dậy đó là những bài phát biểu hùng hồn của những vị lãnh đạo, những tiếng súng đạn bom nổ để người xem mặc sức tưởng tượng.
Thay vào những cảnh đó, bộ phim dẫn dắt người xem đến cuộc dấn thân của đội Húng Nhại vào Capitol, đã có những mất mát đau thương trong suốt hành trình để đến dinh thự của Snow. Nhưng thay vì thấy cảnh quân khởi nghĩa tiến công ào ạt, thì thấy được chính mưu đồ của Coin tự tay hạ sát thường dân và không phân biệt địch ta dể hòng làm mọi người nghĩ Tổng thống Snow ác độc như thế nào.
Thế đó, cuộc nổi dậy trong phim chỉ là những bước đi của Katniss, đóng vai trò là biểu tượng đấu tranh, rồi bị gạt ra như một quân cờ không còn giá trị sử dụng nữa. Trong chính trị, tất cả mạng sống của cá nhân từng người chỉ là một phần trong trò chơi đó, và Đấu trường Sinh Tử đã trở thành toàn cõi Panem, khi bất kỳ ai đều có thể giết chết nhau, nhân danh cuộc chiến.
3. Húng Nhại không còn là Húng Nhại nữa
Nếu như ở phần 1, Húng Nhại là đại diện cho tự do, tinh thần đấu tranh quật cường, thì ở phần 2, Húng Nhại không đại diện cho cái gì cả. Ở điểm này mình có chút…. thất vọng, vì ngay từ đầu đang xây dựng một hình ảnh nữ anh hùng, thì ngay phần cuối lại không thể hiện điều đó qua sự lãnh đạo, truyền cảm hứng cho mọi người một cách rõ ràng như khi tấn công kho vũ khí ở Quận 2, trốn mọi người để đến Quận 8, tất cả mờ nhạt và mờ nhạt rất nhiều so với những phần trước.
Mình không hiểu đây là do vấn đề ở kịch bản, hay là trên sách ở giai đoạn nổi dậy này, Húng Nhại không còn giá trị nào nữa, để mở đường cho một cô gái chân quê Katniss Everdeen trở về quê hương để bắt đầu lại mọi thứ chăng? Hoặc dụng ý là không xây dựng lên một nhân vật anh hùng như những phim siêu anh hùng, mà sẽ thực tế hơn?
4. Trang phục của Effie Trinket
Điểm này thì có lẽ mình hơi… vô lý. Nếu bạn đã đọc qua các bài bình luận của mình về loạt phim này từ trước, bạn sẽ hiểu tại sao mình bỏ điều này vào. Effie Trinket ngay từ đầu là một… con công, đủ màu sắc, đủ bộ cánh mà bạn phải choáng ngợp, bất ngờ. Ngay cả thời gian khó khăn nhất, Effie vẫn chứng tỏ mình làmột fashionista đúng nghĩa. Nhưng sao lại chỉ có gần 4 bộ cánh của Effie trong phần cuối này, mà lại không có gì nổi bật? Ngay cả khi Panem toàn thắng thì bô cánh đó cũng qúa tẻ nhạt buồn chán.
Có lẽ do mình quá trông đợi vào phần cuối này nên đâm ra hụt hẫng nhiều. Nhưng nhận xét khách quan thì phim xem được, đủ để giữ bạn trên ghế đến cuối bộ phim, và dù gì nếu bạn đã đón xem 3 phần trước đó, thì phần cuối là đáng phải đi coi. Diễn xuất của diễn viên vẫn đều như những phần trước, có chăng là một chút cảnh cảm xúc của Katniss khi mất em gái Prim, hạnh phúc khi bên cạnh Peeta.
Nhưng mình nghĩ, trên hết tất cả, cốt truyện chính đã nêu vấn đề cốt lõi của người làm chính trị. Làm mình chợt nhớ đến câu nói của Stalin:
Không thể phủ nhận sự độc tài của Stalin, nhưng câu nói này có ý nghĩa sâu xa cho một người làm chính trị. Mưu đồ chính trị, hoặc tham vọng bá quyền phải đi với những cái chết, và với họ chỉ là một con số thống kê không hơn không kém cho một “đại cục”. Chính vì thế mà bà Coin đã lộ diện như một diễn viên đỉnh cao, khi biết khóc than cho một Húng Nhại đã chết nhưng sẵn sàng đánh bom vào trẻ em để đạt mưu đồ của mình. Điều đó vẫn là một tội ác, và Katniss đã kết thúc một Snow tàn ác, thì không thể khoay tay để tạo ra một bà Snow tương tự như vậy.
-
Katnis Everdeen (Jennifer Lawrence đóng) là một mớ cảm xúc hỗn loạn sau hai lần vào Đấu trường Sinh tử, và cô mở mắt trong một bệnh viện ở đầu phim The Hunger Games: Mockingjay — Part 1, một trong những bộ phim về một thế giới tương lai đổ vỡ u ám hơn cả một thập kỷ đầy những phim kiểu này.
Nói nghiêm túc nhé, những thứ trong phim này từng có thời thịnh trong phim Đức hay phim Nhật, giờ đây nó được giới trẻ Mỹ đón nhận khi họ giờ mới ngộ ra rằng tương lai sắp tới không có gì tốt đẹp cả. Sau nhiều cơn ác mộng, ác mộng trong ác mộng, Katniss rời giường bệnh và bước từ đầu tới cuối bộ phim trong trạng thái lúc nào cũng chực bật khóc. Cô căm giận đám làm cách mạng đã bỏ rơi tình yêu đích thực của mình, Peeta (Josh Hutcherson đóng) trong khu vực thủ đô do chính quyền phát xít nắm đóng; cô tức giận vì bản thân đang bị lợi dụng làm công cụ tuyên truyền bởi chính những con người cô đang căm hận; và cô tức giận rằng bản thân vẫn phải mặc cả với bà tổng thống lạnh lẽo của đám người ngầm này (tức Julianne Moore đằng sau một rèm tóc trắng), người có vẻ cũng độc tài đáng sợ không khác gì tên tổng thống độc ác (Donald Sutherland đóng) vừa đánh bom làm nổ tung quận nhà của cô cùng 90% dân số của nó.
Bộ phim kết thúc trong cảm giác đau khổ: cảm ơn nhé, Lionsgate, khi đã chia tiểu thuyết cuối của Suzanne Collins thành hai để tối đa hóa lợi nhuận. Thêm vào đó phim còn có sự xuất hiện của Philip Seymour Hoffman – trong một vai diễn nhắc với bạn rằng gã tội nghiệp này ra đi vào đỉnh điểm tài năng của mình – vì thế, thật khó để có đủ sức để thốt lên câu “Cứ đi xem đi. Phim cũng hay đấy.”
Yếu tố hiệu quả nhất của bộ phim là phản ánh hiện thực của nó. Phần lớn Mockingjay xoay quanh một chiến dịch tiếp thị. Trong phim, đám nổi loạn muốn tuyên truyền một biểu tượng cách mạng, Katniss trong bộ cánh chim húng nhại với cung tên. Nhưng không khó để nhận ra – và chắc hẳn các biên kịch và đạo diễn Francis Lawrence đã nhận ra – rằng Lionsgate cũng đã cố sức tuyên truyền tên tuổi cho nữ diễn viên hàng đầu có-ai-không-thích-cô-chứ của đất nước này. (Một khoảnh khắc đầy cảm hứng: thước phim quảng cáo biểu tượng chim húng nhại đầu tiên của đám người nổi loạn kết thúc với khúc huýt sáo bốn nốt nhạc giống mỗi đoạn phim giới thiệu các phim Hunger Games.) Vấn đề với những người đạo diễn cho Katniss là cô quá thẳng thắn để diễn một vai anh hùng phô trương.
Khi bị đạo diễn (bởi Plutarch Heavensbee của Hoffman, người quản lý truyền thông của đám người nổi loạn) phải trông giống như nữ thần tự do trong Cách mạng Pháp, cô không khác gì một nữ sinh gượng gạo diễn trên sân khấu trường học. Người cố vấn cũ của cô, Haymitch (Woody Harrelson đóng), lượn vào và gợi ý là họ cần phải làm có phương thức hơn, và cho cô vào nhìn thực tế. Katniss được đưa cho một đoàn làm phim nhỏ (với đạo diễn là một Natalie Dormer can đảm và tuyệt vời) đưa trở về quê nhà và được hướng dẫn phản ứng tự nhiên. Đi giữa đám xác người ngổn ngang, bên cạnh những người sắp chết và đang chết đói, Katniss bỗng lập tức trở thành chim húng nhại trong giấc mơ của bất cứ chuyên gia quan hệ công chúng nào, một anh hùng trào nước mắt trước đau thương và gào lên sự bất mãn của mình với đế chế của Tổng thống Snow, người có thể truyền nhiệt cho tất cả các quận còn lại đang bị đàn áp để họ đứng lên chiến đấu. Nhưng điều tuyệt vời nhất là dưới cơn đau khổ giận dữ rất thật đó, ta cũng thấy cảm giác kinh tởm của Katniss khi biết mình đang bị truyền thông hóa thành một bi kịch.
Phần lớn các khoảnh khắc khóc lóc, xoắn tay, nhìn xa xăm đau khổ này có thể trở nên ủy mị và nực cười trong tay một diễn viên khác, nhưng trực giác của Jennifer Lawrence thông minh tuyệt đỉnh nên cô không bao giờ tạo cảm giác mệt mỏi quá đà. Cô là một diễn viên không thể chê được. Sự hậu đậu ngoài đời của cô cho thấy có thể một yếu tố làm nên diễn xuất thuyết phục của cô trên màn ảnh: phản ứng ngẫu nhiên là tất cả. Trong phim này cô có cảnh cất tiếng hát, một giọng khàn khàn buồn bã, cũng tự nhiên như giọng nói của cô. Ước gì Hunger Games khai thác được cả tài năng hài của cô nữa.
Và ước gì những bạn diễn nam của cô đóng góp được nhiều hơn. Liam Hemsworth có một đoạn độc thoại dài kể về cuộc đánh bom quê nhà, nhưng người viết chỉ nhớ rằng anh nói một cách thật chậm chạp, như thể đang đợi một cơn mưa cảm xúc đổ về mà cuối cùng đợi mãi không thấy. Ít nhất thì Josh Hutcherson thể hiện phần lớn những cuộc đối thoại của Peeta đang bị giữ làm con tin với người dẫn chương trình truyền hình của Stanley Tucci trên truyền hình, nên diễn viên không thể tạo cảm giác trì trệ cho những cảnh phim có Katniss.
Trong một bộ phim chiến tranh gai góc, trần trụi, có vài diễn viên xuất hiện để phong cảnh sáng hơn một chút. Elizabeth Banks trở lại trong vai Effie Trinket, lần này bị ép mặc bộ đồng phục liền thân màu xám và không có tóc giả - và cô tỏ ra bất mãn với quy định này. Hãy chứng kiến bộ mặt kinh hãi của cô khi nhìn mái tóc suôn của Moore, và hãy tạ ơn chúa trời đã cho ta chút khoảnh khắc hài này. Sutherland với nụ cười nham hiểm với nhất cử nhất động của Katniss đều tuyệt vời: trong cách điên rồ của riêng ông, ông cũng có cảm tình với cô. Làm việc với một lãnh đạo nghiêm túc lạnh lùng, Plutarch của Hoffman tỏ ra khép kín, mỗi lần anh lên tiếng là một lớp mỉa mai dưới một lớp chân thành dưới một lớp…gì đó khó hiểu hơn. Nỗi đau khi mất đi diễn viên này sẽ không bao giờ phai.
-
Trong số rất nhiều cảnh quay đẹp của The Hunger Games: Catching Fire, có một cảnh quay mà tôi thích nhất, đó là cảnh Katniss Everdeen, lộng lẫy như nàng công chúa trong bộ váy cưới trắng, bước lên sân khấu và xoay vòng. Chiếc váy cưới bốc cháy, biến thành một chiếc váy khác cũng lộng lẫy không kém, nhưng màu đen, với đôi cánh đầy oai dũng - tượng trưng cho hình ảnh chim húng nhại - biểu tượng của những người kháng chiến ở Panem.
Giây phút đó, khán giả như tưởng tượng ra gương mặt nữ chính, đang ném một cái nhìn mai mỉa và thách thức Capitol: "Ta không phải đồ chơi của các người! Ta là tinh thần của cuộc cách mạng sẽ bùng nổ!". Khoảnh khắc ấy rực rỡ, chói lòa, sống động và "nổi da gà". Hiếm có khi nào mà tuyên ngôn chính trị và thời trang lại hòa hợp cùng nhau hoàn hảo đến như thế!
Và Catching Fire, còn có nhiều khoảnh khắc khác khiến khán giả phải "nổi da gà" như vậy nữa. So với phần 1, phần 2 tỏ ra nổi trội hơn hẳn, cả về cốt truyện, kỹ xảo lẫn diễn xuất. Một bộ phim vừa đậm tính giải trí vừa để lại những suy nghĩ cùng tuyên ngôn đầy ẩn ý - điều mà không phải bom tấn nào cũng làm được.
Tiếp nối đoạn kết ở phần 1, phần 2 của The Hunger Games kể về cuộc sống của Katniss và Peeta, những người trở về nhà sau chiến thắng trong Đấu trường sinh tử lần thứ 74. Còn chưa kịp thoát khỏi những ám ảnh kinh hoàng từ cuộc chiến, cả hai đã buộc phải tham gia vào "Chuyến đi của những người chiến thắng", thực ra là một màn kịch đóng giả làm những người yêu nhau hạnh phúc với mục đích ca ngợi chế độ đãi ngộ của Capitol và xoa dịu tinh thần của dân chúng.
Thế nhưng điều đó không thay đổi được một thực tế rằng thế sự đã đổi khác từ sau chiến thắng của Katniss tại Đấu trường sinh tử. Cô gái dũng cảm đến từ Quận 12 đã giúp người dân nhen lên ngọn lửa đấu tranh chống lại chính quyền. Bạo loạn nổi lên ở khắp nơi và Tổng thống Snow quyết định sẽ bẻ gẫy tinh thần của Katniss một lần nữa, để cho người dân chứng kiến hình ảnh nữ anh hùng của họ bị hủy hoại.
Một cuộc đấu sinh tử khác lại diễn ra, nhưng lần này còn khốc liệt và tàn bạo hơn, với tên gọi Đấu trường Tứ phân (The Quarter Quell), nơi Katniss, Peeta phải đối diện với những sát thủ chuyên nghiệp máu lạnh, khát khao chiến thắng và sẵn sàng làm tất cả để giành chiến thắng...
Đấu trường sinh tử là một chương trình truyền hình thực tế tàn bạo nhất, khi khán giả của nó trực tiếp chứng kiến cuộc tàn sát của những "vật hiến tế" - là những trẻ em đến từ các quận của đất nước Panem. Và toàn bộ bộ phim - tái hiện lại đấu trường khốc liệt đó, là một chương trình thực tế lớn hơn nữa, mang lại cho khán giả không chỉ sự căng thẳng "toát mồ hôi" mà còn là cả những cảm xúc với nhiều sắc độ.
Có một bộ phận khán giả phàn nàn rằng chương trình thực tế phần 2 này hơi dài dòng khi dành đến một nửa thời lượng phim chỉ để dẫn dắt trong khi họ vội vàng muốn xem ngay diễn biến chính - là "Huyết trường tứ phân" khốc liệt. Điều này tương tự như việc các show thực tế tiêu tốn rất nhiều thì giờ cho các phần quảng cáo để kiếm tiền và luôn "ém hàng" vào phút chót để câu khách. Cũng đúng mà cũng không đúng!
Đúng ở chi tiết là càng về sau, The Hunger Games: Catching Fire càng được đẩy lên cao trào và hấp dẫn khiến khán giả không thể rời mắt, nhưng không đúng ở chỗ phần dẫn dắt phía trước hoàn toàn không dài dòng hay thừa thãi, mà chỉ góp phần để sự bùng nổ phía sau được hợp lý hóa. Hơn nữa nếu không có phần dẫn dắt ở nửa đầu phim, chắc chắn khán giả sẽ không được xem một nữ anh hùng Katniss Everdeen sắc bén và giàu biểu cảm đến như thế! Catching Fire tiếp tục là một bước đột phá đầy ngoạn mục của Jennifer Lawrence khi cô cho thấy một Katniss hoàn hảo, từ ánh mắt, cử chỉ cho đến những biểu cảm, hành động.
Hơn nữa sự khắc họa chế độ độc tài thối nát của Capitol sẽ không trở nên sống động và rõ nét đến thế nếu không có sự tương phản giữa những cuộc đấu tranh, bạo loạn, bối cảnh hoang tàn đổ nát ở các quận và những bữa tiệc xa hoa, lộng lẫy ở trung tâm Capitol, giống như lời nhận xét đầy chua xót của nhân vật Peeta: "Ở ngoài kia hàng triệu người dân đói khổ vì không có cái ăn, còn ở đây người ta phải uống thuốc để nôn ra vì ăn quá nhiều".
Nếu có một chút gì đáng tiếc và gọi là "dài dòng" ở đây thì đó chính là một số phần kể hơi thừa trong khi đó, đáng lẽ ra các nhà làm phim có thể hoàn toàn sử dụng hình ảnh để tái hiện.
Nếu như Katniss là hoàn hảo trong Catching Fire thì nhân vật Peeta cũng thú vị hơn trong phần 2 này. Anh chàng này trở nên "đàn ông" hơn hẳn dù vẫn không thoát hết được nét yếu đuối, run rẩy cố hữu. Dàn diễn viên phụ cũng tuyệt vời không kém, mà phải kể đến ở đây vai diễn người dẫn chương trình Caesar Flickerman (Stanley Tucci đóng) và Effie Trinket (Elizabeth Banks). Họ thuộc tuyến nhân vật cường điệu của bộ phim và đây thực tế là một vai trò vô cùng khó khi các diễn viên vừa phải thúc đẩy hết sức diễn xuất cường điệu của mình lại vừa phải biết tiết chế vừa đủ để không bị mất kiểm soát dẫn đến quá "lố".
Trong khi Caesar dường như lúc nào cũng phô ra hết mức có thể hàm răng trắng bóc của y, và mọi "tín hiệu" mà y phát ra đều giống như sự phơi bày một cách lộ liễu niềm hạnh phúc tột độ (trong ngu muội) được hưởng thụ chế độ đãi ngộ của Capitol thì Effie lại là hiện thân của sự phù phiếm, giả tạo của chủ nghĩa vật chất.
Những nhân vật như Ceasar và Effie là một phần không thể thiếu của thế giới này. Nhưng cũng lại rất tinh tế, các nhà làm phim đã khéo léo để xuất hiện một tình tiết, khi "người đàn bà phù phiếm" Effie bộc lộ nỗi đau buồn chân thành và cảm giác bất công dành cho các "vật hiến tế" là Peeta và Katniss. Nỗi chua xót dù thoảng qua và núp dưới vỏ bọc hào nhoáng lố bịch, vẫn rất "đắt" để nắm nắt và chính chi tiết nhỏ đó đã góp một phần ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ nội dung phim.
Cuối cùng, để đặt dấu chấm cho bài viết này, tôi vẫn muốn quay về với nhân vật Katniss, trung tâm của câu chuyện. Khán giả có thể thấy Katniss săn bắn để kiếm cái ăn cho gia đình trong khi Peeta nướng bánh mì, cô ấy chủ động hôn người đàn ông mình yêu, và hôn người bạn đồng hành của mình để cứu anh ấy, sẵn sàng lao ra trước đòn roi của kẻ thù để che chở cho người yêu... Nếu như các bộ phim Hollywood gần đây hay có xu hướng xây dựng hình ảnh người anh hùng của thời đại mới - là những con người bình thường nhân nghĩa, dám đứng dậy chống lại cái ác, thì ở đây, khán giả tiếp tục được chứng kiến một hình ảnh như thế, nhưng là nữ giới.
Có thể nhân vật Katniss vẫn chưa đủ sức để tạo nên một cuộc cách mạng về hình tượng trong điện ảnh, nhưng chúng ta hoàn toàn có quyền mơ về một thế giới mới, nơi hình ảnh của người phụ nữ cũng đẹp đẽ như thế: có khi lộng lẫy yêu kiều trong chiếc váy trắng của công chúa, nhưng lúc cần thiết cũng sẵn sàng bốc cháy để tung bay trên đôi cánh mạnh mẽ của loài húng nhại...
-
Mad Max Beyond Thunderdome được coi là phần yếu nhất trong series nhưng không vì thế mà phủ nhận sức hấp dẫn của nó, khi phim vẫn mang về gấp 3 lần kinh phí. Thế giới trong bộ phim phức tạp hơn, tạo hình nhân vật dị và quái gở hơn nhưng xét trên chuẩn mực về phim hành động, chắc chắn vẫn có rất nhiều điểm sáng.
Max trong phần phim này vẫn vậy, vẫn đơn độc, rệu rã và sợ rằng chẳng còn biết mình sống cho tới khi nào. Anh bị vướng vào mâu thuẫn với bộ tộc của nữ vương quyền lực Aunty Entity, tại Bartertown - một thành phố cạnh một sa mạc đã được quản lý để giữ lại một số công nghệ khi nền văn minh bị sụp đổ. Tài nguyên bị các thành phần man rợ cướp bóc. Bên cạnh đó, anh còn đứng trước nhiệm vụ giải cứu những đứa trẻ vô tội mà mình đã phát hiện ra.
Thời điểm mà bộ phim ra mắt, có lẽ George Miller đã nhận ra nhiều vấn đề phát sinh, nhất là việc đến từ kinh phí. Việc các phần phim ngày càng mở rộng đã khiến cho series này ngốn một chi phí không nhỏ, cộng thêm các tranh chấp về mặt bản quyền, vô tình làm cho Mad Max phải mất 30 năm năm mới có phần tiếp theo.
-
Loạt "Mad Max" lấy bối cảnh hậu tận thế của đạo diễn George Miller được khán giả đón nhận. Trong đó, Business Insider đánh giá "Mad Max 2" là phần phim hay nhất.
Mad Max 2 (1981) hay The Road Warrior, được Business Insider bình chọn là tác phẩm hấp dẫn nhất trong loạt. Phim mang đến cho khán giả tất cả trải nghiệm thú vị về vùng đất chết chóc wasteland, trở thành yếu tố chính cho các phim sau. Mel Gibson, người thủ vai Max Điên, xuất hiện với tạo hình rách rưới, kỳ dị, bước vào trận chiến trên chiếc xe tải chở dầu tốc độ cao.
Phim được giới phê bình ca ngợi là "một trong những dự án hành động hay nhất mọi thời", đưa Gibson lên hàng siêu sao nhờ màn trình diễn đầy thuyết phục. Phần âm nhạc, kỹ thuật quay phim, phân cảnh hành động, thiết kế trang phục và việc sử dụng ít lời thoại đã góp tạo nên thành công vang dội, giúp phim đạt doanh thu thương mại hơn 36 triệu USD.
Đứng thứ 2 trong danh sách là Mad Max: Fury Road (2015). Bộ phim chứa đựng hơn 30 năm tâm huyết của Miller đã đem tới hiệu ứng tích cực. Nhân vật Mad Max trở lại (Tom Hardy thủ vai) không hẳn điên loạn, mà sự điên loạn nằm ở thế giới mà Miller vẽ ra, nơi người ta sẵn sàng chết cho một lý tưởng để chứng tỏ rằng mình mới thực sự "điên".
Phim giành 6 giải Oscar cho dựng phim, thiết kế sản xuất, thiết kế phục trang, hóa trang, hòa âm và biên tập âm thanh - nhiều hơn bất cứ phim nào trong mùa giải lần thứ 88. Doanh thu phim đạt hơn 377 triệu USD trong khi kinh phí sản xuất 150 triệu USD đã chứng tỏ tác phẩm được công chúng đón nhận.
Sau thành công của Fury Road, Miller chuyển hướng làm bộ phim không tập trung vào Max Điên, thay vào đó nhân vật Imperator Furiosa mới là trung tâm trong Furiosa: A Mad Max Saga (2024). Dù không táo bạo như phần tiền nhiệm, tác phẩm vẫn mang đến cho người xem những pha hành động đã mắt, cốt truyện hấp dẫn. Cảnh nhân vật phản diện Dementus (Chris Hemsworth) bắt Furiosa (Anya Taylor-Joy) khỏi ngôi nhà thời thơ ấu để lại nhiều ấn tượng cho giới phê bình.
Bom tấn hành động được vỗ tay gần 8 phút tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 77. Theo Variety, trong khoảnh khắc ấy, Chris Hemsworth đã rưng rưng nước mắt vì xúc động, sau đó quay sang hôn lên đầu đạo diễn Miller.
George Miller mạo hiểm khi chọn Mel Gibson, diễn viên vô danh ở thập niên 1970, vào vai chính trong tác phẩm mở đầu loạt phim - Mad Max (1979). Nhân vật là một cảnh sát đi tìm công lý sau khi mất gia đình vào tay nhóm côn đồ. Khi nhìn thấy các đồng nghiệp làm việc ở MFP chết dưới tay băng đảng của Toecutter, Max đã tự mình giải quyết vấn đề. Ảnh: MGM.
Được quay với kinh phí chỉ 400.000 AUD (hơn 263.000 USD), tác phẩm gây sốt khi thu về hơn 100 triệu USD toàn thế giới và lập kỷ lục Guinness cho bộ phim có lợi nhuận cao nhất. Thành công của Mad Max đã giúp mở rộng thị trường toàn cầu cho các bộ phim do Australia sản xuất.
Mad Max Beyond Thunderdome (1985) là phần 3 của loạt phim và cũng là lần cuối Gibson đóng Max Điên. Phim theo chân nam chính đối đầu với người kiểm soát tàn nhẫn của trạm giao dịch do Tina Turner thủ vai. Max kết bạn với nhóm trẻ em và thanh thiếu niên, và họ hợp tác để phá hủy trạm giao dịch. Ảnh: Warner Bros.
Mặc dù có kinh phí sản xuất rất cao thời điểm đó (hơn 10 triệu USD), cùng với sức hút lớn của Gibson, tác phẩm bị giới phê bình chê cồng kềnh, chất lượng ở mức phim hạng B theo tiêu chuẩn những năm 1980. Diva Turner có lẽ là người được lợi nhất khi 2 bài nhạc phim do cô thể hiện - One of the Living và We Don't Need - gặt hái thành công ở giải Grammy, đứng đầu các bảng xếp hạng âm nhạc.
-
Nếu là fan của thể loại phim hậu tận thế, chắn hẳn quý vị không còn xa lạ với thương hiệu phim điện ảnh Mad Max đình đám, nổi tiếng trên toàn thế giới. Cho đến nay, thương hiệu này vẫn giữ vững sức hút trong lòng khán giả, dù đã trải qua gần 5 thập kỉ.
Loạt phim Mad Max được ra mắt từ năm 1979, do đạo diễn và biên kịch người Australia George Miller sản xuất. Phim đã có 4 phần trước đó bao gồm: "Mad Max: Cảnh sát báo thù (1979)", "Max điên 2 (1981)", "Max điên 3: Đón bão (1985)" và gần đây nhất là "Max điên: Con đường cuồng nộ (2015)".
Thương hiệu điện ảnh gây ấn tượng với khán giả khi khai thác chủ đề hậu tận thế. Tại đây, các tài nguyên dần cạn kiệt, trở nên khan hiếm cùng với chiến tranh khắc nghiệt đã biến địa cầu thành một sa mạc khổng lồ.
Nhân vật chính trong loạt phim là Max Rockatansky, được nam diễn viên Tom Hardy thủ vai trong phần phim gần nhất là Max điên: Con đường cuồng nộ (2015). Đặc biệt, sự xuất hiện của minh tinh Charlize Theron trong vai chiến binh Furiosa cũng một lí do làm nên thành công của loạt phim Mad Max.
Đây cũng chính là bộ phim tạo được sức ảnh hưởng lớn đối với khán giả và giới phê bình ngay từ khi ra mắt. "Max điên: Con đường cuồng nộ" đã thắng 6 giải Oscar bao gồm dựng phim, thiết kế sản xuất, thiết kế phục trang, hòa âm và biên tập âm thanh, là bộ phim đạt nhiều giải thưởng nhất trong mùa giải Oscar lần thứ 88. Đồng thời, bộ phim cũng mang về hơn 377 triệu USD, nhiều hơn gấp đôi so với kinh phí sản xuất là 150 triệu USD khi ra mắt tại các phòng vé.
Trước đó, phần phim đầu tiên được sản xuất vào năm 1979 cũng có doanh thu lớn, đạt hơn 100 triệu USD toàn thế giới. Thậm chí, "Max điên: Cảnh sát báo thù (1979)" cũng lập kỷ lục Guinness khi là bộ phim có lợi nhuận cao nhất, đưa Mel Gibson trở thành ngôi sao hàng đầu tại thời điểm đó.
Bên cạnh cốt truyện độc đáo, lí do khiến phim đạt được nhiều giải thưởng như vậy cũng đến từ các thiết kế trang phục độc đáo của các nhân vật, cùng với các phương tiện trong phim như xe tăng, xe đua tốc độ cao, xe tự chế... Phần trang phục được đánh giá là sự kết hợp hài hòa giữa các vật liệu tái chế đặc trưng, mang đậm phong cách "hậu tận thế".
Ngoài loạt phim đình đám, Mad Max còn được phát triển thành những trò chơi điện tử, tiểu thuyết và truyện tranh nổi tiếng, được yêu thích tại nhiều Quốc gia, chính những điều này đã góp phần khẳng định tên tuổi của đạo diễn người Australia George Miller, đưa loạt phim xứng tầm với tên gọi "thương hiệu" điện ảnh khi nhắc về các bộ phim chủ đề hậu tận thế.
-
X-men lần này thoát khỏi lối mòn của 4 phần trước bằng cách đổi dàn casting trẻ trung với phong cách dx hoàn toàn mới lạ. Tuy vậy ko có nghĩa họ là dv vô danh tiểu tốt. James McAvoy, Mike Fassbender hay Kevin Bacon đều là những diễn viên hạng nhất nhì, chưa kể Jennifer Lawrence đóng Raven là một gương mặt trẻ rất triển vọng với bộ phim dc đề cử Oscar The Winter Bones. Đạo diễn cũng thay nốt và ông theo đuổi cách làm phim cũng mới. Điều này thổi làn gió mới vào loạt phim vốn bắt đầu xưa cũ và có nguy cơ xuống dốc kể từ khi p4 Origin of Wolverine ko dc đánh giá cao. X-men 1st class có một kịch bản tương đối bình thường và lối kể chuyện chậm rại, logic lớp lang nhưng ko bất ngờ, điều này mình cũng thấy rõ. Nhưng điều cuốn hút ở kịch bản là đi sâu khai thác tâm lý của từng nv, từ chính đến phụ. Với trung tâm là sự phát triển trong quan hệ của Charles và Erik: họ gặp nhau ra sao, tìm hiểu và gắn kết với nhau thế nào và điều gì đã chia rẽ tình bạn của họ. Bên cạnh đó phim cũng dành một sự ưu ái cho những vai phụ, như Raven, Hank, Angel hay Havoc và kể cả Darwin, nv chết rất sớm ngay từ đầu phim. Những tâm tư suy nghĩ của họ dc chỉ rõ ra giúp họ trở nên sống động mà thật, chứ ko phải là những cái bóng đệm cho nv chính.”
“Trong nỗ lực làm mới lại loạt phim X-Men của hãng Fox (sau X-Men Origins: Wolverine, bộ phim bị chê là quá thường), họ đã mời về hai nhân vật là Bryan Singer và Matthew Vaughn. Bryan Singer chính là người đã đưa X-Men lên đỉnh cao với 2 phim X1 và X2, còn Matthew Vaughn đã khẳng định tên tuổi với Kick-Ass và được nhiều fan truyện tranh Mỹ xem là đạo diễn “hiểu” truyện tranh nhất hiện nay. Vaughn đã có một quyết định táo bạo đó là loại bỏ hết những “yếu tố ăn khách” của các phần trước như những bộ trang phục bóng loáng, công nghệ chiến đấu hiện đại, và… Wolverine, để đi một con đường riêng. Ông đã cho các X-Men quay lại với thập niên 60, và đi kèm với nó là những giá trị nhân văn cơ bản nhất của loạt truyện.
X-Men First Class xoay quanh càm xúc, quan điểm, và triết lý của những người đột biến. Trên hết, người đột biến không chỉ là những năng lực màu mè mà họ còn đại diện cho một điều lớn lao hơn trong xã hội: sự khác biệt. Sự khác biệt mang đến sự bị cô lập và bị ghét bỏ cho những người sở hữu chúng, bởi cá tính chung của nhân loại là luôn sợ hãi những điều chưa biết. X-Men cũng là anh hùng, cũng cứu người, nhưng họ không bao giờ được nhân loại trao cho ánh hào quang của những siêu anh hùng khác như Superman, như Iron Man, như Captain America, mà đổi lại chỉ là sự kì thị và ghét bỏ. Loạt truyện (và phim) X-Men đã hướng tới vấn đề quyền con người một cách sâu sắc. Nó xoay quanh thái độ của thế giới đối với “những sự khác biệt”, và ở chiều ngược lại, thái độ của những người đột biến với một thế giới đã tụt hậu so với họ nhưng vẫn muốn chèn ép họ.
-
Crouching Tiger, Hidden Dragon (tựa tiếng Việt: Ngọa Hổ Tàng Long; tựa gốc: Wò Hǔ Cáng Lóng) là bộ phim điện ảnh Đài Loan thể loại kiếm hiệp diễm tình ra mắt vào năm 2000, được đạo diễn bởi Lí An, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Vương Độ Lư. Được coi là một trong những cột mốc quan trọng nhất của điện ảnh châu Á, tác phẩm sau khi ra mắt đã nhận được thành công vang dội ở mặt thương mại khi thu về 213,5 triệu đô so với kinh phí 17 triệu và ở mặt chuyên môn với những lời tán dương từ các nhà phê bình cũng như chiến thắng nhiều giải thưởng, ví dụ như 4 giải Oscar, 4 giải BAFTA, 2 giải Quả Cầu Vàng, 8 giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông,... Các lời khen nhắm đến phong cách đạo diễn, kịch bản đột phá, kĩ thuật điện ảnh và các màn chiến đấu võ thuật đẹp mắt.
PHẦN I: SỰ VƯỢT TRỘI SO VỚI CÁC PHIM VÕ THUẬT THÔNG THƯỜNG
Sự vượt trội đầu tiên của tác phẩm phải nói đến cấu trúc kịch bản. Các phim võ thuật đương thời thường có kịch bản 3 hồi đơn giản, không được đầu tư về tâm lí nhân vật, xây dựng thế giới. Bộ ba biên kịch Vương Huệ Linh, Thái Quốc Vinh và James Schamus đã xây dựng 2 tuyến truyện: "Lí Mộ Bạch và Du Tú Liên" là phần truyện được kể trước, giới thiệu về khoảng thời gian, địa điểm, các nhân vật cũng như mâu thuẫn chính của phim; tuyến truyện còn lại xuất hiện như hồi 2, kể về sự hình thành mối tình của "Ngọc Kiều Long và La Tiểu Hổ". Từ đó xây dựng nền tảng cho hồi 3 của phim, khi 2 câu truyện phải dẫn đến một kết thúc. Lời thoại chỉn chu, ngôn ngữ giàu chất thơ, được lãng mạn hóa; mỗi nhân vật đều có cá tính, tiểu sử và động cơ riêng, giống như các mảnh ghép nhỏ để tạo nên một câu truyện lớn hoàn chỉnh.
Đây là tác phẩm thể loại võ thuật đầu tiên của đạo diễn Lí An và như ông đã nhiều lần chia sẻ đây là trải ngiệm làm phim khó khăn và thử thách nhất trong sự nghiệp. Phim được làm ở Bắc Kinh, quay ở các tỉnh An Huy, Hà Bắc, Giang Tô và vùng thiên nhiên ở Tân Cương; điển hình là lúc ghi hình ở sa mạc Gobi. Đạo diễn từng nói ông phải làm việc liên tục suốt 8 tháng, không có nổi nửa ngày để nghỉ, lắm lúc tưởng bản thân sắp nghẹt thở. Nhưng với tài năng và sự chuyên nghiệp, Lí An đã chứng minh ông là một trong những nhà làm phim đương đại xuất sắc nhất thế giới. Ông kiểm soát chặt chẽ mọi cảnh phim để đảm bảo an toàn cho diễn viên, ông tự chuyển các đoạn hội thoại tiếng Quan thoại sang tiếng Anh để đảm bảo ý nghĩa. Quan trọng hơn hết, ông đã làm ra một tác phẩm kiếm hiệp mà mang phong cách kể chuyện, dàn cảnh riêng biệt, cách ông thay đổi nhịp độ phim qua các phân cảnh hiệu quả và kĩ thuật làm phim vượt trội.
Nhà soạn nhạc Đàm Thuẫn và các nhạc sĩ đã sáng tác toàn bộ phần âm nhạc trong vòng 2 tuần. Các bản nhạc như "The Eternal Vow", "Sorrow" và "Farewell" được tạo nên bằng tiếng sáo trúc, đàn violin và đàn cello đưa người xem đến thế giới võ thuật chứa đựng tình cảm, sức sống và cả mối nguy rình rập. Với các phân đoạn chiến đấu, rượt đuổi, phim sử dụng các thanh âm được tạo nên từ các loại trống Tây Phi và truyền thống, que gỗ được gõ dồn dập, căng thẳng như "Night Fight". Điểm nhấn của phần nhạc là ca khúc cuối phim - "A Love Before Time" được biểu diễn bởi Coco Lee, kể về con người với khát vọng tự do, đi đến mọi phương trời để tìm kiếm tình yêu và cuộc sống đích thực.
Quay phim là một trong những điểm ấn tượng của Ngọa Hổ Tàng Long. Bào Đức Hi đã nâng các phân cảnh chiến đấu bằng võ nghệ lên một tầm cao mới bằng cách sử dụng và biến đổi liên tục nhiều góc máy: sử dụng cận cảnh để đặc tả (ví dụ ở phân cảnh Du Tú Liên đối đầu với Ngọc Kiều Long, máy quay zoom thẳng vào gương mặt Tú Liên cho thấy lợi thế của cô là kinh nghiệm và trí tuệ, còn về phía Kiều Long, máy quay nhấn mạnh vào thanh Lục Mệnh Kiếm cho thấy lợi thế của cô là một vũ khí không thể bị phá hủy), trung cảnh được sử dụng khi nhân vật ra đòn bằng tay và các đòn đánh trí mạng, các góc máy rộng phô bày vẻ đẹp của mọi động tác phi thân, võ thuật (theo mình nghĩ đã tạo ra một hiệu ứng thị giác khác xa so với bất kì phim nào cùng thể loại), bố trí khung hình và các cảnh phim ở sa mạc, núi đồi, rừng trúc hòa với tông màu trầm, ánh sáng nhẹ - đẹp tựa tranh thủy mặc.
Các bối cảnh trong phim được dựng nên chi tiết, sinh động và được tận dụng triệt để tốt hơn so với bất kì phim kinh phí lớn nào ra mắt cùng năm. Bên trong biệt phủ của Tề lão gia sắp đặt gọn gàng, đầy ắp các đồ dùng, cổ vật trang trí; quang cảnh kinh thành, cung điện sao chép đúng kiến trúc thời nhà Thanh; các khung dây cáp được bố trí trên toàn bộ diện tích quay phim để các diễn viên thực hiện các màn đấu võ, bay nhảy. Phần võ thuật được biên đạo bởi Viên Hòa Bình, người đứng sau thành công của nhiều bộ phim Hồng Kông thời điểm đó, mỗi nhân vật trong phim đều có phong cách chiến đấu riêng, giúp tính chất của mỗi người được bộc lộ tính tế, cách điệu. Ngoài ra, Ngọa Hổ Tàng Long có dàn diễn viên thể hiện trọn vẹn vai diễn; trang phục được thiết kế chính xác ở màu vải bão hòa thấp, ít họa tiết; âm thanh tự nhiên,...
PHẦN II: THẾ GIỚI KIẾM HIỆP GIANG HỒ
Triết lí ở xã hội giang hồ trong phim được định nghĩa bằng võ công. Võ công cũng giống như kiếm đạo, trà đạo và nhiều môn phái khác; người tập võ phải khổ luyện bằng các chiêu thức truyền thừa, rèn luyện tâm khí, trí tuệ thông suốt để đạt tới cảnh giới tột cùng - khi cơ thể hòa quyện, được tái tạo lại toàn bộ và trở thành một thực thể thích nghi và nắm bắt được dòng chảy của mọi sự vật. Chính vì tính chất phức tạp, đòi hỏi và thâm sâu nên võ công trở thành thước đo giá trị con người, giá trị đạo đức trong thế giới kiếm hiệp. Các thành phần giang hồ ta thấy trong phim đều có hiểu biết và khả năng tận dụng võ thuật theo một cách cụ thể, người giỏi võ thì danh tiếng được nhiều người biết đến, được ca tụng và tôn trọng.
Từ đó ta có điển hình của một anh hùng trượng nghĩa, võ nghệ thượng thừa, vang danh khắp nơi - Lí Mộ Bạch (do Châu Nhuận Phát thủ vai). Xuyên suốt tác phẩm, con người của anh được xây dựng thông qua lời nói của các nhân vật khác và phong cách chiến đấu. Không ai trong giới giang hồ không biết Lí Mộ Bạch, đi đến đâu cũng nghe những lời chào hỏi kính cẩn, được tiếp đãi như khách quý, mấy tên giang hồ coi anh là giới hạn mà một người học võ có thể đạt tới. Lí Mộ Bạch được mọi người ngưỡng mộ vì là người trừ gian diệt bạo, khiến kẻ khác e sợ vì tài năng võ thuật và sở hữu thanh kiếm bất hoại. Khi tỉ thí với Ngọc Kiều Long, anh xuất hiện bất ngờ ở bất kì đâu cho dù cô đã phi thân, chạy trốn nhanh nhất có thể; Kiều Long với thanh Lục Mệnh Kiếm cũng không thể giáng một đòn trúng Mộ Bạch trong khi tay anh cầm một cành cây ngẫu nhiên, liên tiếp tấn công vào mọi sơ hở của cô. Trong phân cảnh rượt đuổi trong rừng trúc, Kiều Long liên tục bám víu, chân đứng chênh vênh, sức nặng của cơ thể khiến thân cây phản lại lực, cô gần như không thi triển được chiêu thức nào; Mộ Bạch nương theo chuyển động của cây trúc, không tác dụng lực lên mà như hòa làm một thể, thong dong đứng nơi ngọn trúc, nhẹ như lông vũ. Trong mọi trận đấu, ta chưa thấy một cảnh phim mà anh gặp khó khăn, Lí Mộ Bạch luôn vượt xa so với đối trọng. Lí do có vẻ đã được tiết lộ ở ngay đầu phim, Mộ Bạch đến gặp Tú Liên và kể cho cô nghe về việc bế quan luyện công. Trong khoảng khắc cảnh giới thiên địa hợp nhất, không-thời gian tiêu biến, khi bản thân anh sắp dung cùng trời đất; nếu anh tiếp tục, anh chạm đến một ý thức khác, thoát thai hoán cốt khỏi cõi tục và cảm xúc vướng bận, tu thành chính quả. Chính khoảng khắc đó, anh ta cảm nhận được sự cô đơn rợn ngợp, trống rỗng trong ánh sáng chân lí u buồn, Lí Mộ Bạch rửa tay gác kiếm vì anh chọn trở lại hữu tình, luyến tiếc tình yêu với Tú Liên, và có lẽ cả mối thù với Bích Nhãn Hồ Ly.
Du Tú Liên (do Dương Tử Quỳnh thủ vai) từng hứa hôn với bạn thân của Lí Mộ Bạch, người mà về sau đã tử trận trong một trận đấu, cô và Mộ Bạch từ đó đã trải qua nhiều chuyện cùng nhau, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Tuy vậy, vì thanh danh của người đã khuất mà hai người chưa bao giờ bày tỏ tình cảm. Đó là một trong nhiều mẫu mực đạo đức mà phái nữ trong xã hội phong kiến phải noi theo, ta hiểu được Tú Liên tuy sống trong giang hồ, nhưng là người phụ nữ truyền thống, có lòng tự trọng, tính khuôn khổ. Cô chăm chỉ (điều hành công việc kinh doanh riêng, tay cô chai vì luyện tập), nề nếp (giao tiếp tử tế với mọi người), nhân ái (lắng nghe và cố gắng giúp đỡ bất chấp sự bồng bột của Ngọc Kiều Long) và chân thành (ánh mắt dịu dàng, cử chỉ ân cần với Mộ Bạch). Khi anh phân trần rằng sư phụ bảo trên đời vạn vật đều là không, bản thân anh ta cũng đã từng nghiệm qua cảm giác ấy. Cô bèn áp tay mình vào mặt anh, hỏi rằng “Chẳng lẽ tay em cũng không phải là thật sao?”. Câu hỏi như triết học, khúc mắc một đời người hiện lên qua lời nói giản đơn Tú Liên, cô nhìn ra được mâu thuẫn trong suy nghĩ, khoảng trống trong tâm hồn của Mộ Bạch. Bên cạnh đó cô cũng là người cứng rắn, nghiêm khắc. Cô không ngại trách mắng Kiều Long vì những suy nghĩ quy chụp, ích kỷ; quyết tâm ngăn Long rời đi với bảo kiếm, từ đây khán giả được xem màn so tài đáng nhớ nhất phim giữa hai người phụ nữ, cô gái mang tài năng võ thuật bẩm sinh và thanh kiếm bất hoại cũng không thể vượt qua một Du Tú Liên giàu kinh nghiệm, linh hoạt sử dụng mọi loại vũ khí, sức mạnh của cô thể hiện qua các đòn đánh phá hủy môi trường và tư thế chiếm tỉ lệ khung hình.
Đánh lừa sự chú ý bằng thân phận gia sư của Kiều Long, Bích Nhãn Hồ Ly (do Trịnh Phối Phối thủ vai) là một sát thủ khét tiếng với võ công cao cường đã hạ độc sư phụ của Lí Mộ Bạch. Người xem dễ dàng nhận định đây là một nhân vật phản diện qua những việc bà ta làm trong phim: dụ dỗ Kiều Long đi theo con đường của mình cũng như đánh thuốc thủ tiêu cô; giết ông quan mật thám Sài - người mà cố trả thù vì bà ta đã giết vợ của ông; và không thể bỏ qua cây phi tiêu tẩm độc đã khiến một bậc thầy như Lí Mộ Bạch mất mạng. Tuy vậy, trong lần đầu thấy bà ta đối đầu với Mộ Bạch, câu thoại: "Sư phụ ngươi đã coi thường phụ nữ. Hắn ngủ với ta nhưng không chịu truyền võ công cho ta. Hắn đáng chết dưới tay đàn bà!" đã làm thay đổi suy nghĩ của mình. Bích Nhãn Hồ Ly không phải một người phụ nữ đơn giản, bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của võ nghệ, khao khát trở thành một cao thủ để được nể sợ, ngưỡng mộ, bà ta sẵn sàng làm mọi thứ để tạo ra vị thế cho riêng mình trong giới giang hồ, kể cả hi sinh thân thể của bản thân. Đây có lẽ là lí do vì sao y có thể làm thầy dạy cho Kiều Long, sự đồng điệu về ước mơ được tự do, làm chủ cuộc đời của chính mình. Khi thấy học trò của mình có thể đấu tay đôi với Lí Mộ Bạch, mà chỉ vài phút trước với mọi loại vũ khí giấu tay và võ thuật học từ bí kíp Võ Đang, bà ta cũng suýt bị anh giết, Bích Nhãn Hồ Ly đau đớn nhận ra mình bị phản bội bởi học trò của mình, người mà bà thừa nhận là người thân duy nhất (10 năm cuộc đời nuôi dạy, chăm sóc, ở cạnh nhau) và kẻ thù duy nhất (Kiều Long nắm rõ được toàn bộ bí kíp nhưng không thể tiết lộ ra vì cô còn hoang mang và sợ hãi, bà ta không thể phát huy được hết võ công trong khi khả năng của cô không ngừng phát triển). Bích Nhãn Hồ Ly hận học trò của mình như cái cách bà ta hận sư phụ của Mộ Bạch, cùng động cơ dẫn đến hành động trả thù. Đây cũng là một quan điểm được cài cắm trong phim, ông quan mật thám bị giết vì trả thù cho vợ, để lại đứa con một mình; Lí Mộ Bạch bị trúng độc vì quyết định phải báo thù bằng được cho sư phụ; Bích Nhãn Hồ Ly mất mạng vì bị hận thù che mắt, liều mình tiêu diệt Kiều Long - sự thù hận là cách cảm xúc thao túng con người và để trả thù, ta phải đánh đổi. Đến lúc quy tiên, Bích Nhãn Hồ Ly vẫn chẳng phải một cao thủ võ thuật, chết trong đau đớn về thể chất, tổn thương về tinh thần - bi kịch của một con người với mong muốn sống cuộc đời lớn lao, đi ngược lại với những định kiến mà xã hội áp đặt.
Thế giới kiếm hiệp được coi là nơi con người tự do tự tại, tôi luyện võ công và trở thành anh hùng theo nhiều nghĩa, Ngọa Hổ Tàng Long chứng minh thực tế không dễ dàng như vậy thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật: Lí Mộ Bạch là cao thủ võ lâm nhưng không thể dứt bỏ yêu đương và thù hận để tu thành chính quả; Du Tú Liên là người phụ nữ truyền thống với tài năng và đức hạnh nhưng không có hạnh phúc vì không dám sống thật với cảm xúc cá nhân; Bích Nhãn Hồ Ly - một người bị vỡ mộng bởi một thế giới không trân trọng tài năng và trí óc của phụ nữ. Xã hội phong kiến cổ hủ, những mối quan hệ ân oán và tâm lí phức tạp đã khiến thế giới kiếm hiệp trong phim không đen trắng rạch ròi như phần lớn nhận thức của khán giả, nó có chiều sâu, thuyết phục và tinh tế hơn nhiều.
PHẦN III: NGỌC KIỀU LONG
Dưới góc nhìn của mình, Ngọc Kiều Long (do Chương Tử Di thủ vai) là nhân vật đáng nhớ nhất trong phim nói riêng và một trong những nhân vật ấn tượng nhất lịch sử điện ảnh nói chung. Câu chuyện và hành động của cô khiến các sự việc tiến triển, kết nối 2 tuyến truyện; sự phát triển và vẻ đẹp tư tưởng khiến cô trở nên khó quên và đặc biệt.
Kiều Long được giới thiệu trong tạo hình của một cô tiểu thư gia giáo, nề nếp, bộ trang phục sẵm màu như biểu hiện sự an toàn. Cô chia sẻ với Tú Liên về việc cô sắp bị gả cưới, rằng tâm trạng bất mãn vì chưa được sống cuộc đời theo ý mình muốn, bày tỏ ao ước về lối sống giang hồ lang bạt. Trò chuyện nhẹ nhàng, như chuyện phiếm, người xem không thấy bất kì điều gì đáng để tâm ở cô gái này - tỏ ra không hài lòng, nhưng vẫn an phận. Đến đêm hôm đó, một tên trộm đã đánh cắp thanh Lục Mệnh Kiếm, khi bị phát giác, y phi thân trên những mái ngói, chạy nhanh như gió khỏi lính gác, đến cả Tú Liên ra tay cũng không kịp lấy lại bảo kiếm. Khán giả phần nào đã hình dung được hình tượng của nhân vật. Kiều Long là cô gái trẻ, cứng cỏi, có phần tự phụ, khao khát một cuộc sống phóng túng, được làm điều mình thích và có tài năng võ công phi thường.
Phần hồi tưởng giữa phim giúp đào sâu hơn về chuyện tình của Ngọc Kiều Long và La Tiểu Hổ (do Trương Chấn thủ vai). Trên con đường băng qua sa mạc, mẹ cô than phiền về cái nóng, về cái công việc mới của cha, Long nhìn ra bên ngoài, phía những ngọn núi đá khô cằn, ánh nắng thiêu đốt, cô bị cuốn hút bởi những thứ chẳng ai để ý, không ai quan tâm cô nghĩ gì. La Tiểu Hổ - kẻ chỉ huy băng cướp Hắc Vũ tấn công đoàn người tùy tùng của nhà họ Ngọc sau đó, cướp lấy chiếc lược cô gái trẻ đang cầm rồi đi mất. Bà mẹ sợ quá bất tỉnh nhưng Kiều Long lên ngựa đuổi theo ngay lập tức, loại bỏ mọi kẻ ngáng đường, cô đuổi theo không ngừng nghỉ đến mức ngất xỉu, chỉ vì một chiếc lược. Tỉnh dậy, cô đang ở hang ổ của Tiểu Hổ, không biết đi về đâu giữa chốn hoang vu, khoảng thời gian bất đắc dĩ ở bên Hổ đã cho Long cảm giác của tình yêu. Anh hào phóng chăm sóc mọi mặt (mang thức ăn, nước uống, chữa đôi chân nứt nẻ, kiếm nước tắm cho cô giữa hoang mạc), tôn trọng sự tự chủ của cô (không hề xâm phạm thân thể trong nhiều ngày cô hôn mê; Long từng tự tìm đường về, trước khi đi không quên chọi một viên đá vào tên cướp lược chải tóc, cô sau đó cưỡi con ngựa đi thật xa đến lúc nó chết khát, phải đi bộ đến khi ngất lịm, tỉnh dậy, nhận ra Tiểu Hổ lại tìm và cứu sống cô lần nữa) nhưng cũng có quyết định của riêng mình (trói Long lại để cô không gây hại cho bản thân cũng như chưa từng nghe theo một mệnh lệnh nào từ cô). Phân cảnh bùng nổ là khi Kiều Long đòi lại chiếc lược, Tiểu Hổ không trả đơn giản vì không thích, cô giơ cây phi tiêu đe dọa, sự kiên quyết của Hổ khiến cô chọc mạnh vào ngực anh, máu chảy, hai người xông vào vật lộn. Bất ngờ thay, những va chạm thể xác đầu tiên đã thăng hoa, kết nối hai con người lại với nhau, máu của Hổ chảy dài trên người Long. La Tiểu Hổ yêu cô vì cô mạnh mẽ, gan lì, sốc nổi, cô đấu tranh dai dẳng để đạt được thứ mình muốn, không cần sự thương hại từ người khác. Ngọc Kiều Long yêu anh vì anh trân trọng tính cách gai góc khó chiều, anh luôn che chở dù cô vươn xa tới đâu, anh để cô được tự do làm điều mình thích, không ràng buộc. Long vẫn là Long, Hổ vẫn là Hổ, phóng túng, cứng đầu, chẳng nghe ai. Họ yêu nhau vì nhân cách và tình cảm, nhưng vẫn là chính mình và được làm chính mình khi yêu. Trong một xã hội mà người ta kết hôn vì vị thế, gia tài thì còn gì đáng quý hơn một mối tình xuất phát từ tình cảm chân thành và sự bình đẳng từ hai phía.
Đối với văn hóa Á Đông, màu xanh lục đại diện cho tính nữ và biểu tượng Âm - trong quan niệm mẫu hệ cổ xưa, Âm thể hiện nữ mạnh hơn nam, sức mạnh tiềm tàng và khả năng thụ thai, sinh nở sự sống vô hạn. Hình ảnh con rồng thường dành cho thần thánh, vua chúa, quyền lực của nam giới, nhưng trong Ngọa Hổ Tàng Long, đó là tên của một người phụ nữ. Có hai vật dụng gắn liền với Ngọc Kiều Long là chiếc lược và thanh Lục Mệnh Kiếm - cả hai đều mang hai đặc trưng kể trên. Chiếc lược chải tóc có tay cầm chạm khắc hình rồng uốn lượn được làm từ ngọc bích, nhưng lại có màu trắng ngà, trong trẻo, hiện thân cho phần nữ tính, khát khao sự thuần khiết của tự do, tâm hồn trong trắng không bị lay động bởi định kiến của người đời. Kiều Long giữ gìn chiếc lược cũng như cô bảo vệ lý tưởng sống của bản thân, cô chỉ trao chiếc lược cho người biết đồng cảm và trân trọng điều đó ở cô - La Tiểu Hổ. Theo thời gian, ngọc bích già đi và ngả dần sắc lục, cũng như sức sống của Long, bị kìm nén, chờ khoảng khắc bùng nổ. Lục Mệnh Kiếm là vũ khí báu vật, được tạo nên từ kĩ thuật giả kim đã thất truyền, đã tồn tại được hơn 400 năm, bất hoại và linh hoạt; thanh kiếm đại diện cho cảm xúc giận dữ, ý chí mãnh liệt và sức mạnh thô sơ, tài năng toàn vẹn của Kiều Long. Cô cần thanh kiếm để giải phóng bản thân, ghi lại dấu ấn trên thế gian theo cách mà cô muốn; trong mọi cảnh phim cô cầm thanh bảo kiếm, cô được phô bày khả năng võ thuật vượt trội (nổi bật như phân cảnh quán ăn, Long một mình hạ gục toàn bộ các cao thủ võ lâm, nói ra mọi suy nghĩ một cách hùng hồn, ngạo mạn). Cô liên tục tìm kiếm, ăn trộm và lặn xuống dòng nước chảy xiết để có được thanh kiếm cũng như cô vẫn luôn tranh đấu để dành được sự tự do, hạnh phúc. Ngọc Kiều Long là con rồng kiêu hãnh, ích kỷ mang sinh khí của tính nữ và nguồn sống nguyên thủy mạnh mẽ, nhưng mắc kẹt trong hiện thực mà cô phải kiểm soát, che giấu và giam cầm con rồng đó - một hiện thực đau khổ, không có lối thoát.
Sau khi Lí Mộ Bạch mất, Kiều Long lên núi Võ Đang tìm La Tiểu Hổ, hai người đã có một buổi tối nồng ấm sau nhiều tháng ngày xa cách; sáng hôm sau, Tiểu Hổ tìm thấy Kiều Long đứng trên cây cầu bắc qua hai vách núi đá. Cô chưa bao giờ có được tự do mà mình muốn - được làm điều mình thích, không bị ép buộc, không phải quan tâm đến hậu quả. Gia đình muốn Long kết hôn với người mà cô không yêu chỉ vì nó mang lại lợi ích cho bố của cô. Bích Nhãn Hồ Ly dạy cô võ thuật, nhưng năng lực của bản thân ngày càng kém xa sư đồ, khiến bà ta ra sức thao túng Kiều Long cũng như kiềm hãm năng lực thật sự của cô. Lý Mộ Bạch chiêu mộ Long làm học trò không chỉ vì cô có khả năng, mà còn muốn hướng cô vào khuôn khổ, không lợi dụng võ công cho mục đích xấu, không hề để tâm xem Kiều Long thực sự nghĩ gì, có muốn hay không. Du Tú Liên muốn cô sống đúng với tình yêu, với chính mình, quay về sa mạc cùng Tiểu Hổ - do sau cái chết bất ngờ của Lý Mộ Bạch, Tú Liên hối hận vì khi anh còn sống, cô đã không có đủ dũng khí để đi ngược truyền thống, bày tỏ tình cảm để hạnh phúc bên nhau, như thế chẳng khác nào cô phó thác cho Kiều Long để sống thay cho mình trong dằn vặt và nuối tiếc. Theo nhiều cách khác nhau, những người xung quanh Ngọc Kiều Long luôn muốn kiểm soát cô. Kể cả khi chạy trốn cùng với Hổ, chẳng mất bao lâu để hai nhà họ Ngọc và Cao huy động toàn bộ lực lượng truy tìm Long bằng được, điều đó hoàn toàn có thể liên lụy đến người cô yêu thương. Giấc mơ của cô tan vỡ, sẽ chẳng có bình yên trong cuộc sống phiêu bạt, người tốt luôn bị làm hại, con người sống thật là sai trái, tự do là cái cớ của nổi loạn và suy đồi đạo đức. Tưởng như sự dồn ép tột cùng khiến người phụ nữ ấy lựa chọn đầu hàng, chấp nhận số phận, cô nhớ đến câu chuyện La Tiểu Hổ từng kể:
Bọn anh có một truyền thuyết. Bất kì ai dám nhảy từ ngọn núi kia xuống. Trời sẽ ban cho người ấy một điều ước. Lâu lắm rồi, cha mẹ của một người trẻ tuổi kia bị ốm, nên anh ta nhảy xuống. Anh ta không chết. Và ngay cả không bị thương. Anh ta bay đi xa, xa mãi và không bao giờ trở lại. Anh ta biết điều mình mong ước đã thành sự thật. Nếu có lòng tin thì nó sẽ xảy ra. Người xưa có câu: "Một trái tim vững vàng sẽ làm cho điều ước trở thành hiện thực.".
Long bảo Hổ hãy nói một điều ước, anh ước anh và cô sẽ cùng nhau trở lại sa mạc. Ngọc Kiều Long sau đó đã nhảy khỏi cây cầu - cô đã lựa chọn nghị lực sống, lựa chọn dũng khí và can đảm, khẳng định rằng cô vẫn sẽ là chính mình, sống thật với tình yêu và lý tưởng. Cô gái trẻ không chết, và ngay cả không bị thương, cô bay bổng tự do, tự tại, biến mất vào những đám mây sương khói trên núi Võ Đang. La Tiểu Hổ nhìn theo không hoảng loạn, ánh mắt đượm buồn nhưng cũng vui mừng, nhẹ nhõm; Kiều Long đã bay đi không trở lại, cô không còn ở bên anh nhưng cô cũng không thuộc về một ai khác, tình yêu cô dành cho anh là thật, kí ức bên nhau ở hoang mạc cũng là thật, còn gì chân thực hơn thế? Khung hình cuối cùng của phim hiện lên sự tĩnh lặng của thiên nhiên, của dãy núi, đẹp đẽ, huyền bí và bình yên. Ngọc Kiều Long đã có được sự tự do mà cô hằng mong muốn, ước mơ của cô đã trở thành hiện thực.
PHẦN IV: TỔNG KẾT
Ngọa Hổ Tàng Long là từ dùng để chỉ những nguy hiểm ẩn nấp. Trong phim là tình cảm không môn đăng hộ đối của Ngọc Kiều Long và La Tiểu Hổ; đúng hơn là những cảm xúc, mong ước bị con người che giấu, kiềm hãm. Đạo diễn Lí An lí giải chẳng có gì là bí mật mãi mãi, dù kìm nén lâu đến mấy thì cái kim trong bọc cũng lộ ra, chẳng ai được hạnh phúc nếu không sống thật với chính mình. Đến cuối phim, chuyện tình của Tú Liên và Mộ Bạch kết thúc trong nước mắt, Bích Nhãn Hồ Ly chết với giấc mộng dở dang nhưng Kiều Long không buông bỏ, sự truy cầu tự do đã được đền đáp - tác phẩm còn là suy tư về nam nữ trong xã hội, về sự truyền thừa, tiến bộ từ thế hệ cũ sang thế hệ mới. Khi con người trở nên mạnh mẽ, can đảm, có niềm tin vững bền vào lựa chọn và lý tưởng của bản thân, ắt sẽ đạt được ước mơ, hoài bão.
-
"Ghostbusters" (2016) là một bộ phim thuộc thể loại hài siêu nhiên, được đạo diễn bởi Paul Feig. Đây là phiên bản làm lại của bộ phim gốc "Ghostbusters" năm 1984, nhưng với dàn diễn viên chính là nữ. Bộ phim đã gây nhiều sự chú ý khi ra mắt, không chỉ vì là một bản reboot của một tác phẩm kinh điển, mà còn bởi cách tiếp cận hiện đại và những thay đổi đáng kể so với bản gốc. Phim xoay quanh một nhóm bốn phụ nữ, với các nhân vật chính gồm:
Dr. Abby Yates (do Melissa McCarthy thủ vai): Một nhà khoa học nhiệt huyết nghiên cứu về hiện tượng siêu nhiên.
Dr. Erin Gilbert (do Kristen Wiig thủ vai): Một giáo sư vật lý lý thuyết ở Đại học Columbia, người từng cùng Abby viết một cuốn sách về ma quái.
Dr. Jillian Holtzmann (do Kate McKinnon thủ vai): Một kỹ sư tài năng, chuyên về việc chế tạo các thiết bị bắt ma.
Patty Tolan (do Leslie Jones thủ vai): Một nhân viên tàu điện ngầm với kiến thức sâu rộng về lịch sử New York.
Khi các hiện tượng siêu nhiên bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều ở New York, nhóm phụ nữ này quyết định thành lập một đội săn ma mới, với mục tiêu bảo vệ thành phố khỏi mối đe dọa từ các linh hồn ác quỷ.
-
Có nhẽ vì tên bác Dan Brown đã nâu (Brown) lại đen (Dan) nên phim chuyển thể từ truyện của bác có số phận khá là trắc trở. Năm 2006 The Da Vinci Code ra mắt ở Cannes bị bà con la ó dữ dội, đến khi phát hành lại bị giới phê bình chê bai không tiếc lời (nhưng rốt cục vẫn về nhì với 750 triệu USD doanh thu – lý do chính khiến Columbia Pictures tiếp tục chơi con bài nâu-đen này lần nữa). Angels & Demons đến lượt mình cũng vấp phải sự phản đối của Công giáo và bị từ chối không được quay ngoại cảnh tại các nhà thờ ở Rome. Nhưng hết cơn bĩ cực cũng đến hồi thái lai, cuối cùng bộ phim lại được chính tờ Đại đoàn kết của Vatican khẳng định là vô hại.
Kể ra nếu Angels & Demons được đặt tên là Kiếp đỏ đen thì cũng không có gì vô lý, vì Ron Howard đã đem đến cho khán giả một bộ phim low-key* với màu đen linh mục (một) và sắc đỏ hồng y (đếm không xuể) là chủ đạo, và số phận những nhân vật này nói chung là rất thảm. Low-key âu cũng là điều dễ hiểu khi bộ phim xảy ra trọn vẹn trong một buổi tối mà mỗi giờ đồng hồ lại được đánh dấu bằng cái chết của một preferiti, ứng cử viên cho ngôi vị Giáo hoàng.
Như thường lệ, giáo sư biểu tượng học Robert Langdon (Tom Hanks), với sự trợ giúp (như thường lệ) của một sinh vật khả ái là nữ khoa học gia Vittoria Vetra (Ayelet Zurer) dẫn đầu cuộc săn đuổi tên sát nhân giấu mặt đã bắt cóc bốn hồng y giáo chủ và sẽ xử tử họ tại bốn địa điểm tượng trưng cho bốn nhân tố đất, gió, lửa, nước tại thành Rome. So với câu đố Robert Langdon phải giúp Tòa thánh giải đáp thì chuyện một cô gái mĩ miều dường ấy lại còn là chuyên gia về phản vật chất quả thực còn bí hiểm hơn nhiều; có lẽ chỉ thua câu hỏi hẳn không ít người đã từng tự hỏi khi xem The world is not enough: “Thế nào mà một em gái nóng bỏng rẫy ra như Denise Richards lại còn là chuyên gia vật lý hạt nhân?”
Quay trở lại với bộ phim, hành động của tên sát nhân có vẻ là một nghi thức báo thù cuộc thanh trừng của Giáo hội với Illuminati – một hội kín của các nhà khoa học ra đời từ thế kỷ 17 – và y đe dọa sẽ kết thúc nó với một vụ nổ phản vật chất (lý do giải thích sự có mặt của sự khả ái mang tên Vittoria Vetra) có sức mạnh hủy diệt cả Vatican đúng lúc các hồng y đang họp kín để bầu Giáo hoàng mới còn giáo dân đang tụ tập ở quảng trường St. Peter chờ kết quả. Vụ việc càng phức tạp hơn khi Tổng quản Vatican là Patrick McKenna (Ewan McGregor) phát hiện ra cố Giáo hoàng chết vì bị đầu độc…
Để bà con khỏi sốt ruột, người viết xin nói luôn: Angels & Demons hay hơn Da Vinci Code, và hay hơn đáng kể (lưu ý: hay hơn Da Vinci Code thôi nhé). Đây cũng là điều dễ hiểu vì Da Vinci Code bám quá sát nguyên tác; và khi cố nhồi nhét bằng hết cuốn tiểu thuyết lên màn bạc, Ron Howard đã bỏ qua những thế mạnh đặc thù của điện ảnh, khiến bộ phim trở thành một thứ minh họa vụng về cho cuốn tiểu thuyết hơn là một tác phẩm độc lập.
Rút ra bài học này, kịch bản của Angels & Demons, dù không phải là xuất sắc, tỏ ra khá linh hoạt, câu chuyện đơn giản và tập trung, không sa vào mớ bòng bong thông tin được Robert Langdon tuôn ra như suối còn khán giả chỉ biết há hốc mồm lắng nghe (và lủng bủng rủa: Đù mé, nói gì mà lắm thế!) ở phần một. Howard sử dụng hai motif quen thuộc của phim thriller là săn đuổi kẻ sát nhân và tháo bom hẹn giờ để tạo sự căng thẳng, hồi hộp và đã khá thành công khi kết hợp nó với nét tương phản đỏ-đen đầy ngụy dị trong ánh sáng u ám của toàn phim. Mặc dù vậy Angels & Demons vẫn có những chi tiết lộ và dễ đoán với một khán giả nhiều kinh nghiệm xem thriller. Tuy khá hơn Da Vinci Code nhưng Angels & Demons vẫn thiếu cái sức hút cần thiết của một phim thriller xuất sắc: khán giả không bị hút vào một cách triệt để, mà vẫn còn khoảng cách, vẫn cảm thấy mình đang đứng ngoài quan sát hơn là đồng hành cùng nhân vật.
Với tiết tấu rất nhanh (đoán rồi đuổi, lại đoán rồi lại đuổi) và một cốt truyện thiên về hành động, không có chỗ ngừng nghỉ cho cảm xúc, hầu hết các diễn viên chỉ phải đóng mà không phải diễn, trừ Ewan McGregor. Trong không khí chung của phim, Patrick McKenna dù xuất hiện không quá nhiều nhưng vẫn khiến người ta cảm nhận được (dù mơ hồ, và cũng chỉ mơ hồ) một điều gì đó. Ewan đóng khéo nhưng kín đến nỗi sau khi phim hết rồi, khi đã thở phào một tiếng rồi, ta mới nhận ra rằng anh diễn tốt thật. Một điều đáng tiếc là mâu thuẫn đức tin – khoa học có thể được khai thác tốt hơn ở Langdon, khi đoạn đối thoại giữa anh và Patrick McKenna ở đầu phim hé lộ khá nhiều điều thú vị. Với nội lực của Tom Hanks, điều này hẳn không phải là quá khó. Cái khó là làm sao để lồng được nó vào cuộc truy đuổi hối hả trong năm giờ đồng hồ của Langdon mà thôi.
Cũng như ở Da Vinci Code, nhạc của Angels & Demons do Hans Zimmer đảm nhiệm, và ông làm khá tốt ở phần cuối. Cái dồn dập ở phần đầu tuy ổn, tuy hoành tráng, tuy không sai, nhưng có vẻ cứ cliché làm sao đó, chưa xứng với tầm vóc của ông, và chưa thật sự ăn khớp với cái không khí bề ngoài thì tĩnh lặng mà bên trong thì cuồn cuộn sóng ngầm của Vatican lúc đó. Phần cuối trầm lắng và giàu xúc cảm với những đoạn solo của Joshua Bell, người được trang trọng dành riêng một dòng khá lớn ở phần credit.
Nói là như vậy, nhưng để chấm điểm cho Angels & Demons thì lại hơi khó. Có lẽ phải chia làm hai thang điểm. Với những người đã đọc truyện thì cái hay chắc sẽ chẳng còn lại bao nhiêu, vì yếu tố bất ngờ đã mất đi; và sự thú vị (nếu còn) sẽ dừng lại ở không gian tôn giáo của thành Rome mà bộ phim đã tái tạo lại khá thành công bằng ngoại cảnh, phim trường và kỹ xảo CGI. Nhưng với những ai chưa đọc truyện thì sự bất ngờ sẽ còn nguyên vẹn, và Angels & Demons sẽ là một phim giải trí xem được của tháng Năm này.
-
Còn gì kinh ngạc hơn khi đấng sáng tạo muôn loài chúng ta hằng tôn thờ lại là một con sóc và hệ mặt trời được hình thành khi sóc ta đang điên cuồng tìm kiếm quả sồi bảo vật!
Vẫn là câu chuyện về cuộc giải cứu thế giới, bình cũ nhưng rượu mới, phần phim mới của Ice Age vẫn tiếp tục thu hút khán giả. Ice Age: Collision Coure mở đầu bằng vài rắc rối xung quanh đời sống cá nhân của bộ ba Manny, Sid và Diego. Ba “người đàn ông” - ba hoàn cảnh. Manny vẫn là trẻ trung lực lưỡng như xưa nhưng chàng trai ngày nào sắp trở thành… ông bố vợ. Và giống như mọi ông bố loài người hàng vạn năm sau, chàng ma mút phải đối mặt với hội chứng “sợ con gái lấy chồng” và “thằng con rể là thằng đáng ghét” trầm trọng đến mức suýt nữa làm ảnh hưởng đến mối quan hệ gia đình. Cùng lúc đó, Diego và cô vợ Shira xinh đẹp không biết liệu có thể chăm sóc tốt cho các con hay không khi mỗi lần những đứa trẻ nhìn thấy hai vợ chồng cọp răng kiếm nhà anh chàng lại khóc thét lên. Cuối cùng, anh lười cổ đại Sid đã bị gái từ chối lần thứ N, đành tiếp tục cô đơn trên con đường tìm kiếm tình yêu đích thực.
Thế nhưng, trong lúc cả ba đang mệt mỏi với “những người phụ nữ” thì thảm họa xảy ra. Lúc này đây, một lần nữa, tất cả những rắc rối của cá nhân bị dẹp bỏ để đồng lòng đi tìm sự sống. Nhắc đến thảm họa này, nguyên nhân chẳng đâu xa, cũng lại là do chú sóc Scrat gây ra trên hành trình phiêu lưu cùng hạt sồi mười-bốn-năm-chưa-hỏng.
Được sự giúp đỡ của chồn chột mắt Buck, nhóm bạn lên đường tìm kiếm phương thức giải cứu trái đất. Thế nhưng, chìa khóa để giải quyết thảm họa lại nằm ở chỗ Shangri Lama, một con lạc đà không bướu vô cùng dở hơi. Cả bọn vừa phải thuyết phục con lạc đà khó ưa này, vừa phải giải quyết những rắc rối cá nhân, Chưa kể, họ còn phải chống lại một gia đình khủng long bay chuyên kiếm sống “đàng hoàng” bằng nghề ăn cắp trứng. Tất cả chỉ trong một hành trình hơn hai ngày! Thật khó khăn!
Tất nhiên, như mọi phim Ice Age từ 2002 đến nay, Scrat vẫn là tâm điểm của phần này. Một mình một ngựa với một vở kịch không lời được đầu tư không kém câu chuyện chính từ tình tiết đến hình ảnh, cùng một cảnh NC-16 đầu tiên trong lịch sử phim hoạt hình, Scrat cân cả thế giới. Cuộc hành trình đầy gian khó của nhóc sóc vẫn là thứ khiến người xem khó thể rời mắt nhất với hàng loạt tình huống không ai tưởng tượng nổi. Hẳn là các biên kịch đã tốn nhiều chất xám để đầu tư cho một cốt truyện bất ngờ không đoán trước được. Thậm chí, có lẽ nếu lấy các ý tưởng này làm phim kinh dị, biết đâu các nhà làm phim lại tạo ra được tuyệt tác như James Wan!
Vẫn như mọi lần, bộ ba Manny, Sid và Diego luôn đầy sức hút. Dường như dành lời khen cho Ray Romano, Denis Leary và John Leguizamo bao nhiêu cũng chẳng đủ khi họ thật sự “đồng cảm”, “hòa hợp” và “sống” với nhân vật.
Nhân vật bị bỏ quên thành cameo của phần trước – Buck đã trở lại ngoạn mục với màn xuất hiện đậm chất hành động cùng một bản opera hoành tráng. Thông qua Buck, người xem dường như cảm nhận được chất hài của chính diễn viên lồng tiếng cậu chàng – Simon Pegg. Lém lỉnh đó, sôi động đó và cũng đầy duyên dáng.
Một điểm sáng nữa của phim chính là cậu chàng ma mút Jullian qua giọng lồng tiếng của Adam Devine. Lần đầu tiên xuất hiện nhưng cậu con rể tương lai đầy hài hước đáng yêu này của Manny khiến người xem lẫn các nhân vật trong phim “yêu không rời mắt”. Dĩ nhiên là trừ ông bố Manny. Jullian siêu cute với thân hình tròn trĩnh đáng yêu, tính tình vui vẻ và luôn tràn ngập tình yêu thương với mọi người sẽ là một nhân vật không thể thiếu nếu Ice Age muốn tiếp tục cuộc phiêu lưu thứ sáu.
Về phía các sao nữ, nếu như Ellie của Queen Latifah được ưu ái trong phần này với kha khá đất diễn thì Shira của ngôi sao nhạc La tinh Jennifer Lopez xuất hiện chẳng hơn gì một vai cameo. Nàng cọp răng kiếm không có cơ hội thể hiện chất giọng quyến rũ của mình, khi từ đầu đến cuối nhân vật chỉ có đôi ba câu thoại, còn chẳng bằng người bà Granny của Sid. Đến cả cơ hội thể hiện bài hát cuối phim, nàng cọp cũng đành nhường cho “tình yêu đích thực” của Sid – Brooke của Jessie J.
Cuối cùng, ngôi sao của Modern Family, chủ nhân một Quả Cầu Vàng - Jesse Tyler Ferguson đã có một màn debut ấn tượng với gia tộc Kỷ Băng Hà bằng nhân vật Shangri Lama bề ngoài “thế ngoại cao nhân”, là “bậc thầy thiền định” tuyên truyền cho sự hữu ích của bộ môn yoga đầu tiên trong lịch sử Trái Đất.
Ice Age không phải là một phim hay giàu ý nghĩa nhân văn nhưng là một phim xứng đáng để khán giả tới rạp chiếu phim. Một kỷ nguyên băng hà, một bối cảnh đầy tuyết trắng - đồ họa của Ice Age: Collision Coure đã và đang tiến bộ qua từng phần phim theo đúng sự phát triển của công nghệ hoạt hình 3D từ 2002 đến nay. Từ đại cảnh như rừng sâu dưới lòng đất, núi băng cao chót vót đến những tiểu cảnh nho nhỏ hoặc các nhân vật từ chính đến phụ đều được đầu tư và chăm chút tỉ mỉ đến từng sợi lông. Về mặt nội dung, Ice Age: Collision Coure vẫn tận dụng triệt để cốt truyện cũ và pha lại theo công thức bình cũ rượu mới - cũng là câu chuyện đơn giản về cuộc giải cứu thế giới và tự cứu lấy bản thân của những “người hùng” rắc rối cùng những lời thoại chất lừ. Khán giả sẽ không nhịn được cười với những câu thoại đậm chất hiện đại của những đám thú đến từ cổ đại như lười Sid bị bạn gái cũ đá vì “không giống ảnh đại diện”, “chúng ta có siêu năng lực”, hay các tư thế buồn cười của ông tổ trào lưu yoga- Đức ngài Shangri Lama.
-
Nếu bạn đang trông chờ một bộ phim hội tụ tất cả các yếu tố từ hành động, tình cảm đến các khung cảnh viễn tưởng thì bạn sẽ đồng ý ngay với tôi Pacific Rim là một lựa chọn tuyệt vời. Tạm gác qua nội dung thì Pacific Rim đã làm được cái điều mà bạn buộc lòng phải gật gù đó là kỹ xảo hành động cực kỳ hoành tráng và chân thật; những phân cảnh chiến đấu gay cấn đến mức bạn như bị hớp hồn và phút chốc như bị phiêu lãng vào giữa chốn mê cung giữa các con quái vật khổng lồ và chỉ cần thêm chút nhiệt huyết để hoà vào cuộc chiến giữ gìn tương lai của nhân loại.
Với tần suất xuất hiện của các loại quái vật, các cảnh quay chiến đấu khá phức tạp thì phải công nhận Pacific Rim là đỉnh của phim viễn tưởng hành động; và ngay cả việc khổ công tạo dựng những hình ảnh cực kỳ chi tiết như thế cũng là một nghệ thuật. Xét về góc độ nội dung thì bạn chớ vội xét đoán, Siêu Đại Chiến có một nội dung khá logic, đầy tính cao trào, không đơn thuần là một cuộc chiến khói lửa mà được hoà quyện một cách tuyệt với với các ý nghĩa nhân văn bền vững của nhân loại đó tình cha con, tình đồng chí, đức khoan dung và cả tinh thần dũng cảm chiến đấu không mệt mỏi. Cao đẹp hơn hết đó chính là đức hy sinh vì tương lai của nhân loại thì có khi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Một quan điểm mới mẻ trong Siêu Đại Chiến đó chính là sự nối kết, các Jeager khổng lồ không phải được điều khiển bằng tay mà bằng chính khối óc được nối kết một cách nhịp nhàng giữa người và máy móc; các chiến binh không những phải điều khiển được Jeager mà còn phải khống chế được ý chí, các ký ức khổ đau và tạo chiều sâu thông hiểu với đồng đội, đây là điều đặc biệt trong Siêu Đại Chiến; một ẩn dụ về chính sự lạc loài của con người trong thời đại quá nhiều công nghệ nhưng lại thiếu vắng sự kết nối. Ở góc độ khác Pacific Rim không ngợi ca nước Mỹ như một vị cứu tinh của nhân loại, mà chiến thắng và hoà bình phải là của chung, đến từ chính sự đoàn kết và tình yêu thương vô bờ bến của con người.
Các thể loại phim về các quái vật tấn công Trái Đất vốn không phải mới nhưng hoành tráng cỡ như Pacific Rim thì rất hiếm. Một kịch bản được dàn dựng một cách táo bạo bằng sự nhiệt huyết và yêu nghệ thuật chân chính chứ không phải bản tánh hời hợt, điều đó đã làm nên tiếng vang cho Siêu Đại Chiến. Còn về phần bạn, bạn có đủ can đảm để chiến đấu để hy sinh cho một mục đích cao cả hơn không? Hoà bình vẫn là mong mỏi của nhân loại, và khát khao ấy luôn luôn nồng cháy đến mức bạn đã nghe nhịp tim rộn ràng thôi thúc bạn lên đường chiến đấu nhưng hãy nhớ rằng chiến thắng đến từ sự đoàn kết và là sức mạnh của tập thể.
-
“The Great Gatsby” là bộ phim của điện ảnh Hollywood, đạo diễn Baz Luhrmann, trình chiếu vào năm 2013. Phim có xuất phát điểm rất ấn tượng, đó là cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn F.Scott Fitzgerald viết năm 1925. Đây là tác phẩm văn học được xem là “phải đọc” của giới ghiền sách trên toàn thế giới, được Modern Library xếp vào top 3 trong số 100 cuốn sách hay nhất thế kỉ 20.
Bộ phim là tác phẩm thứ 6 được chuyển thể từ tiểu thuyết và được coi là tác phẩm tiệm cận nhất với nguyên bản văn học đình đám này. Dù không được giới chuyên môn đánh giá cao, nhưng với khán giả yêu điện ảnh thì “The Great Gatsby” là một bộ phim đáng xem, như là một chuyến du hành rực rỡ đưa chúng ta ngược trở lại quá khứ - mà chính tác giả tiểu thuyết F.Scott Fitzgerald đã phải khẳng định - là “thời đại nhạc jazz của một thế hệ mất mát, nơi mà mọi thánh nhân đã chết cả, mọi cuộc chiến đã xong, mọi niềm tin của con người đã tan vỡ”.
Bộ phim lấy bối cảnh New York năm 1922, thời điểm chiến tranh thế giới thứ nhất vừa qua, nền kinh tế Mỹ đang phục hồi và phát triển cực đại. Lưu giữ trong lòng tình yêu đầy sự ngưỡng mộ với cô tiểu thư đài các Daisy, James Gatz, chàng trai nghèo tay trắng đã dùng nhiều thủ đoạn để có được một gia tài lớn nhằm chinh phục người đẹp sau thời gian dài xa cách. Sau khi trở nên giàu có, James đổi tên là Jay Gatsby, chuyển tới sống ở Long Island, mảnh đất của giới siêu giàu New York và đây cũng là lúc câu chuyện bắt đầu.
Hoành tráng từ phút mở đầu
Đúng với phong cách đại gia, sự xuất hiện của cả Daisy và Gatsby cũng đều vô cùng ấn tượng. Hình ảnh Daisy lần đầu hiện lên trên màn ảnh thật sự choáng ngợp giữa căn phòng rực nắng với những tấm rèm trắng cuồn cuộn tung bay, vừa sang trọng vừa quý phái như cảnh thần tiên và trên tay là chiếc nhẫn kim cương của Tiffany. Một Daisy đài các cùng chất giọng lên xuống bổng trầm như một điệu nhạc vui. Giọng nói thủ thỉ thì thầm và vẻ đẹp mong manh không thể rời mắt, khiến cho người ta muốn sà vào chở che ngay lập tức.
Còn Gatsby, ngay từ đầu phim lại là một câu hỏi lớn với ngay cả các nhân vật trong phim lẫn khán giả khi xoay quanh anh là những đồn thổi, bí ẩn, kì dị. Nhưng đã có mặt là phải hoành tráng, một phong cách không thể lẫn vào đâu được của anh chàng giàu có mới nổi. Đối lập với sự dịu dàng của Daisy là một Gatsby mạnh mẽ, tay giơ cao ly rượu vang cùng nụ cười mê hoặc “có lẽ cả đời chỉ gặp được bốn - năm lần” và dàn pháo hoa bất chợt bừng nở ngay sau lưng.
Gã si tình và tiểu thư của những sự thực tế
Nhân vật Gatsby là biểu tượng lớn trong văn hóa đại chúng Mỹ. Đại diện cho một kiểu người từ tay trắng đi lên, có một quá khứ đen tối, là một người tình bí ẩn và một người trong đời đã chạm tới sự vinh quang sung sướng để rồi mất đi tất cả. Ở Gatsby - điều mà nam diễn viên chính Leonardo Dicaprio đã nhận xét - người ta thấy rằng đó là sự hiến sinh cho những phù phiếm lòe loẹt của cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”. Cô nàng tiểu thư Daisy giống như hiện thân của sự xa hoa giàu có mà người ta gắng sức theo đuổi một cách cùng cực khốn khổ. Một cô nàng có vẻ ngây thơ, mông muội, lãng mạn, đẹp đẽ dịu dàng khó chạm tới hóa ra lại là một người không bao giờ rời bỏ thực tế cuộc sống. Dù có âu yếm, yêu thương, thăng hoa bao nhiêu với Gatsby thì cuối cùng, cô nàng vẫn trở về bên người chồng “thượng đẳng” của mình.
Những cái đắm say mà Daisy thể hiện ra rốt cuộc chỉ là của riêng cô nàng, không thể sẻ chia. Daisy thật ra là một ảo ảnh quá khứ trong khi thực tế họ lại là những người vô tâm, hững hờ, chỉ quan tâm tới thế giới vật chất. Gatsby cố gắng xóa đi quá khứ nghèo đói bần hàn của mình để hòa nhập vào xã hội giàu có, đuổi theo ảo ảnh. Cũng giống như một số người, họ có thể xóa được quá khứ, có thể không, nhưng những ai muốn xóa bỏ quá khứ thì đều là những người tội nghiệp. Đặc biệt là bỏ đi quá khứ này nhưng lại cố níu giữ một quá khứ khác như là cách Gatsby níu giữ Daisy trong tâm trí anh.
Chính vì vậy, Gatsby hiện lên như một kẻ không bao giờ biết bỏ cuộc, một gã si tình say đắm với tình yêu chân thành cao thượng và sự lãng mạn ngây thơ không thể vẩn đục. Dù đã giàu có, đã có một chỗ đứng không hề thấp trong xã hội thượng lưu thì tình cảm Gatsby dành cho Daisy vẫn ngây ngô rụt rè như một anh chàng mới lớn nghèo khổ. Lần đầu gặp lại cô nàng trong bữa tiệc tại chính dinh thự của mình, Gatsby thậm chí đã né tránh và lẩn trốn, chỉ dám đứng từ xa nhìn ngắm. Bề ngoài là một đại gia hào nhoáng nhưng ẩn giấu bên trong là một chàng James nặng tình yêu thương, nghèo khó đắm say nuôi giấc mơ được bên người đẹp từ nhiều năm trước.
Gatsby dành cả tuổi trẻ để lăn lộn, buôn rượu lậu, kết giao với giới xã hội đen, lại tự vẽ lên một hình ảnh Gatsby học ở Oxford, thừa hưởng gia sản lớn từ gia đình, khoe khoang chiến công ở thế chiến thứ nhất, chạy theo thứ danh hão mà người đời tung hô. Nhưng dường như càng cố thoát ra khỏi nỗi cô đơn thì lại càng rơi vào cảnh cô đơn. Bước chân vào giới thượng lưu Mỹ, sống cuộc sống của những người giàu có ở Long Island, Gatsby chỉ thấy những trò giải trí vô bổ, cuộc sống nhàm chán và một xã hội suy đồi về đạo đức. Anh gán cho Daisy những giá trị hoàn hảo lý tưởng người phụ nữ này, con người sống cả đời trong chủ nghĩa vật chất, không hề xứng đáng. Gatsby liệu có phải là một gã tình si hay ẩn sâu trong đó, là một người đã bị mất phương hướng trong cuộc sống, cố gắng đạt tới một giấc mơ để rồi nấp trong góc tối nhìn nó tan vỡ không thể cứu vãn?
Giấc mộng phù du
Những thăng trầm trong cuộc đời của Gatsby cũng là minh chứng cho tính phù du, tạm bợ, đầy bất trắc của một kiếp người. Tham gia chiến trận, lao vào kiếm tiền bất chấp, có thật nhiều tiền, mua một căn biệt thự đối diện biệt thự nhà nàng, tổ chức tiệc hàng tuần vào thứ bảy, chiếu thứ ánh sáng xanh kì diệu bắt mắt qua bờ sông tới nhà nàng chỉ để có được một sự chú ý của nàng. Cuối cùng thì sao? Đổi lại để có được gì? Một tình yêu giấu diếm không có thực. Một sự sung sướng không có đích đến. Một cảm giác chở che giả tạo và một sự tồn tại ẩn hiện không rõ ràng.
Nick, người kể chuyện trong phim, một người bạn kết giao với Gatsby đã nói: “Trong khu vườn màu xanh của anh ấy, những chàng trai cô gái đến rồi đi như những con bướm đen giữa những lời thầm thì, rượu sâm panh và những vì sao”. Cuộc sống giàu sang nhưng vô vị không có nổi một người bạn thật sự. Tất cả đến với Gatsby chỉ vì sự giàu có hào nhoáng của anh và sự tò mò của họ. Với những con bướm đêm ấy, liệu có một Gatsby thật sự tồn tại? Hay chỉ như những bông hoa đẹp, nở rồi tàn ? Lúc bung nở, lũ bướm sẽ vây quanh, còn khi tàn lụi thì sẽ chỉ có mình nó từ từ rụng lìa khỏi cành?
Cái kết của phim mang đậm chất Gatsby không thể tồi tệ hơn, cũng không thể đẹp hơn, cũng không thể khác hơn. Tom, chồng của Daisy cảm nhận được Gatsby chính là đối thủ của mình. Khi Daisy lái xe vô tình gây tai nạn cho người tình của Tom, là Myrtle, Tom đã gặp chồng Myrtle, dựng nên vở kịch rằng Gatsby đang cặp kè với Myrtle và cố ý giết cô ta. Trong khi đó, Gatsby cũng đứng ra nhận trách nhiệm với nhà chức trách rằng mình là người gây tai nạn hôm đó cốt để bảo vệ Daisy. Ngày mà anh dự định sẽ cùng Daisy trốn đi khỏi New York thì cũng là ngày mà chồng của Myrtle đến giết anh để rửa hận và tự sát.
Còn Daisy, cô tiểu thư mà Gatsby đã dành cả đời để theo đuổi, để yêu thương, như là một lý do cuối cùng mà anh bấu víu để tìm thấy ý nghĩa cuộc sống thì cũng theo chồng rời khỏi Long Island không một lời giải thích, không một lời biện minh cho sự vô tội của anh. Gatsby rời khỏi cuộc sống trong vai kẻ giết người, đám tang không có ai khác ngoài Nick và đám báo chí vây quanh chờ đợi moi móc tin tức từ cái chết của anh.
Có thể Gatsby không phải là người tốt nhưng lại là một kẻ đáng thương. Lời cuối cùng anh thốt ra trên môi vẫn là Daisy, là một ảo ảnh mà mãi mãi anh không bao giờ quên, không bao giờ lấp đầy khoảng trống trong trái tim cô độc của mình.
Với giới phê bình, có thể “The Great Gatsby” chưa phải là một bộ phim xuất sắc nhưng trong mắt người yêu tác phẩm văn học gốc và nhân vật Gatsby thì đây vẫn là một bộ phim đáng xem. Hơn 140 phút phim không chỉ là những hình ảnh đẹp, diễn xuất tài tình của Leonardo và các đồng nghiệp mà còn là âm hưởng nhạc Jazz của “Những năm 20 gào thét”. Và như chính Leonardo đã nói khi anh đọc cuốn tiểu thuyết để chuẩn bị nhập vai Gatsby thì đây là bộ phim về một người giàu có rỗng tuếch cố gắng đi tìm ý nghĩa cuộc đời mình từ ảo ảnh quá khứ.
-
X-Men: Apocalypse là một bộ phim siêu anh hùng của Mỹ ra mắt năm 2016, dựa trên nhân vật từ Marvel Comics. Đây là phần thứ ba trong loạt phim X-Men do Bryan Singer đạo diễn, sau X-Men: First Class (2011) và X-Men: Days of Future Past (2014).
Cốt truyện của X-Men: Apocalypse xoay quanh En Sabah Nur, một dị nhân cổ đại và là dị nhân đầu tiên trên thế giới, còn được gọi là Apocalypse. Sau khi thức tỉnh sau hàng ngàn năm, Apocalypse tin rằng thế giới hiện tại đã suy đồi và quyết định tiêu diệt loài người để tạo ra một thế giới mới, nơi ông sẽ thống trị. Để đạt được mục tiêu này, Apocalypse tập hợp bốn dị nhân mạnh mẽ làm "Kỵ sĩ" của mình, bao gồm Magneto.
Trong khi đó, nhóm X-Men, dẫn đầu bởi Giáo sư Charles Xavier, phải hợp lực để ngăn chặn Apocalypse trước khi ông có thể thực hiện kế hoạch tàn ác của mình.
-
"The Da Vinci Code" là một bộ phim trinh thám kỳ bí ra mắt vào năm 2006, được đạo diễn bởi Ron Howard và dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của tác giả Dan Brown. Bộ phim thu hút sự chú ý lớn từ khán giả toàn cầu nhờ vào cốt truyện ly kỳ, những bí ẩn lịch sử và các nhân vật hấp dẫn.
Phim kể về giáo sư simbology Robert Langdon (do Tom Hanks thủ vai), người được triệu tập đến Bảo tàng Louvre ở Paris sau khi giám hộ của nó, Jacques Saunière (do Jean Reno thủ vai), bị ám sát một cách bí ẩn. Langdon cùng với Sophie Neveu (do Audrey Tautou thủ vai), một nữ mật mã và là con gái của Saunière, bắt đầu giải mã các bí ẩn từ những dấu hiệu và mã ẩn trong các tác phẩm nghệ thuật của Leonardo da Vinci. Họ phát hiện ra một âm mưu cổ xưa liên quan đến Bí tích Thánh Phật và các bí mật nguy hiểm có thể thay đổi lịch sử tôn giáo thế giới.
-
Kể từ sau chiến công tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden hồi tháng 5/2012, biệt đội đặc nhiệm SEAL của Hải quân Mỹ đã được cả thế giới biết tới nhiều hơn và đã trở thành một đề tài thú vị để Hollywood khai thác.
Nếu như "Act of Valor" đề cao khả năng thiện chiến thì "Zero Dark Thirty" lại chỉ nhắc tới SEAL ngắn gọn ở khúc cuối phim khi Bin Laden bị kết liễu.
Còn nếu phải chọn ra một cái tên cân bằng giữa những pha hành động gay cấn và yếu tố cảm xúc trong các bộ phim có liên quan tới SEAL, cái tên "Lone Survivor" (tựa Việt là Sống Sót) sẽ là một ứng cử viên hàng đầu.
Không phải là một sản phẩm hư cấu, câu chuyện của "Lone Survivor" được dựa trên chiến dịch "Red Wing" của nhóm SEAL tại tỉnh Kunar, Afghanistan ngày 28/6/2005.
Bốn thành viên của SEAL là hạ sĩ Marcus (Mark Wahlberg thủ vai), Michael (Taylor Kitsch), Danny (Emile Hirsch) và Matt (Ben Foster) được giao nhiệm vụ nhận dạng tên khủng bố Ahmad Shah của Taliban - kẻ đã gieo rắc biết bao nỗi ám ảnh cho binh sĩ Mỹ.
Ban đầu, nhiệm vụ đi tiền trạm tại khu vực miền núi gần với Pakistan này tưởng như rất đơn giản, song một sự cố bất ngờ đã khiến bộ tứ bị bại lộ. Từ công việc trinh thám, bốn lính đặc nhiệm này bỗng chốc phải đối đầu với lực lượng Taliban vượt trội về số lượng, để rồi từ đó một câu chuyện kỳ diệu về lòng dũng cảm, khát khao sinh tồn và tình đồng đội đã được viết nên...
Ngay từ cái tựa gốc mang ý nghĩa "Kẻ sống sót cô độc" cùng việc tác phẩm được dựa trên những hồi ức của Marcus Luttrell về những thời khắc không thể quên trên những rặng núi năm nào đã hé lộ trước kết cục tác phẩm.
Thế nhưng điều đó không ngăn cản đạo diễn Peter Berg - người từng nổi danh với bộ phim hành động "Battleship" - kể được một câu chuyện khiến người xem dán mắt vào màn hình từ đầu đến cuối.
Sự thành công của Berg là ở điểm dù cho ông đã tái tạo lại những thứ nghiệt ngã, trần trụi nhất của trận chiến ấy qua hai tiếng đồng hồ, nhưng điều đọng lại là tình đồng đội cao cả.
Bộ phim mở đầu với đoạn giới thiệu ngắn gọn về quá trình huấn luyện để tạo ra những "siêu chiến binh" SEAL và cho người xem làm quen với Đội 10 của SEAL - những người sẽ tham gia điệp vụ Red Wing - qua một buổi sáng thường ngày của họ.
Chỉ với vài phút ngắn ngủi nhưng cũng đủ để khán giả hiểu được độ khắc nghiệt của chương trình đào tạo mà những người lính này và quan trọng hơn: nhận ra họ cũng là những con người thường chứ không phải những cỗ máy hủy diệt di động.
Những lính đặc nhiệm này có những cuộc cạnh tranh, thách đấu và trêu chọc nhau như những cậu trai mới lớn; có người thương luôn đợi tin ở nhà... SEAL được cả thế giới biết tới như một đội quân tinh nhuệ bậc nhất nhưng cũng vẫn là những con người với cảm xúc yêu thương như bất cứ ai, một yếu tố quan trọng trong "Lone Survivor." Sau khúc dạo đầu nhẹ nhàng với một điệp vụ không quá khó khăn, độ hấp dẫn của câu chuyện bỗng được đẩy cao lên khi chân tướng của những nhóm trinh sát bị phát hiện. Đứng trước nhóm Taliban áp đảo về vũ khí, số lượng trong khi cứu viện ở quá xa và không thể liên lạc, bốn người lính buộc phải tự mình xoay sở. Không còn những màn kỹ xảo cháy nổ hoành tráng như "Battleship", đạo diễn Peter Berg đem tới một cuộc giao tranh đầy chân thực và khốc liệt trong đại cảnh Afghanistan hiểm trở. Tần suất sử dụng súng đạn trong phim là rất cao, nhưng việc sử dụng các máy quay cầm tay và nhiều góc quay cận cảnh đã giúp độ chân thực trong "Lone Survivor" đủ để thuyết phục cả những người xem khó tính nhất. Sử dụng nhiều từ ngữ tục, không hạn chế các cảnh máu me hay vết thương đủ khiến nhiều khán giả phải rùng mình, Berg phơi bày những gì trần trụi và xấu xí nhất của chiến tranh. Điều này có thể khiến độ tuổi người xem bị giới hạn lại (hạng R - cấm khán giả dưới 17 tuổi) nhưng lại khiến cảm xúc với những ai ngồi trước màn ảnh được đẩy lên mức cao nhất, khi ta được chứng kiến một sự thật trần trụi và không khỏi xót xa cho số phận những người tham gia trận chiến, dù là binh sĩ hay thường dân.
Nhưng trong sự thật xấu xí đến tàn nhẫn của chiến tranh ấy ấy, yếu tố con người vẫn là thứ nổi bật nhất. Trong "Lone Survivor", thông điệp chính là đừng bao giờ bỏ cuộc.
Như khi những người lính luôn gắng sức chiến đấu đến những giây cuối cùng của cuộc đời và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cho lý tưởng và đồng đội của mình. Như khi ánh sáng hy vọng tưởng như đã tắt thì bỗng sự hỗ trợ lại đến từ những người không thể ngờ tới nhất.
Nhờ những điểm cộng trên mà "Lone Survivor" là một trong những phim có đề tài chiến tranh xem được nhất trong vài năm trở lại đây dù vẫn mang đôi chút phong cách "chủ nghĩa anh hùng" của Hollywood.
Sở hữu một dàn diễn viên đồng đều, độ chân thực cao trong các cảnh chiến đấu kèm theo những khoảnh khắc xúc động về tình anh em, "Lone Survivor" là một bộ phim phù hợp cho những ai ưa thích phim hành động hay chiến tranh. Kể lại một câu chuyện nhiều người đã biết trước cái kết là điều rất khó, kể sao cho hấp dẫn còn khó hơn, nhưng đạo diễn Peter Berg đã làm được điều này.
-
Argo là gì? Đó là một chiến dịch tình báo và giải cứu con tin xuất sắc nhất của Trung tâm tình báo CIA, Hoa Kỳ. Argo chỉ đơn giản là một bộ phim giả, được thực hiện như thật nhằm đánh lừa Iran để giải cứu 6 con tin sau cuộc tấn công của các sinh viên Iran vào Đại sứ quán Hoa Kỳ. Bộ phim dựa trên những dữ kiện lịch sử và nhân vật có thật, được Chính phủ Hoa Kỳ giải mật vào năm 1997.
Điểm sáng giá của Argo đó chính là bộ phim điện ảnh và cũng chính là một bộ phim tài liệu sống động và chân thật trong thế giới tình báo cũng như mô tả cuộc khủng hoảng con tin tại Iran những năm 1979. Ben Affleck – thủ vai nhân viên Tony Mendez, vừa là đạo diễn của phim – đã có những góc quay chân thật về bối cảnh Iran năm đó: cuộc nổi dậy của sinh viên Iran, những thành phần Hồi Giáo cực đoạn và sự hợp tác chặt chẽ của các tổ chức quốc tế. Đứng ở góc độ điện ảnh, bộ phim cho người xem 120 phút sống trong sợ hãi và hồi hợp của những năm 1979, với những kiểu nhà, trang phục, kiểu tóc và cách nói chuyện của những người thập viên 80-90. Nếu đứng ở góc độ là bộ phim tài liệu, khi chiến tranh lạnh với Liên bang Xô Viết và Hoa Kỳ diễn ra căng thẳng và khu vườn dầu mỏ của Đồng Minh phương Tây như Iran có chính biến về chính trị, bộ phim mô tả chân thật những diễn biến lịch sử không phải theo chủ nghĩa tư bản hoặc cộng sản, mà theo cái nhìn nhân văn và tự do dân chủ, đó là: cứu người khi họ cần lắm những sự giúp đỡ từ người khác.
Ben Afflick đã đem đến một tác phẩm không dừng lại ở tính chất lịch sử của tình báo CIA mà còn những vấn đề đương đại mà thế giới vẫn trải qua từng giây từng phút: Đại sứ quán Mỹ ở Lybia bị thiệt mạng, các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước đóng vai trò như một đạo diễn mà bộ phim có thể gọi là: con-người-của-chính-trị, sự nổi dậy của lực lượng Hồi Giáo cực đoan.
Argo có thể nói là một tác phẩm điện ảnh xuất sắc, để tri ân cho những người đang âm thầm làm tình báo nhằm đảm bảo hòa bình và sự phát triển ổn định của Hoa Kỳ. Khi coi phim này, bạn sẽ cần sự tập trung nhất định để nắm bắt rõ mọi câu thoại của nhân vật, vì mỗi nhân vật là một mắt xích trong chuỗi câu chuyện, và các nhân vật mâu thuẫn giữa cái sợ hãi và cái được giải thoát khỏi cái địa ngục trần gian của họ.
Nhưng Argo vẫn lấp ló cái kiểu Hollywood của thập niên 90, khi chiến dịch của họ thì mọi nhân viên đều vỗ tay ăn mừng chiến thắng, mình thì không thích cái kịch bản cũ đó, tại sao Argo không xoáy sâu hơn nữa vào Tony Mendez, 1 trong 50 người có ảnh hưởng nhất tới CIA mọi thời đại, trong nỗi lòng xa con, ly thân vợ và điều đó ảnh hưởng đến thế nào với chiến dịch Argo, cá nhân mình nghĩ Tony Mendez như một vị anh hùng, ông có thể bỏ vợ cơn để cứu những người xa quê hương nửa vòng Trái Đất trong khi chiến dịch có thể sử dụng quân sự hoặc các đội đặc nhiệm.
Về diễn viên, mình không nghĩ Alan Arkin được đề cử cho vai diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Oscar năm nay, khi đất diễn của ông quá ít và thoại cũng không quá khó. Mình cũng không hiểu Viện Hàn Lâm đã dựa trên tiêu chí gì nữa. Tuy nhiên, Oscar là giải luôn ưu tiên cho những bộ phim mang tính đương đại và thời sự, thì Argo sẽ có cơ hội đạt nhiều “tượng” hơn.
Mình nghĩ Argo là một bộ phim xuất sắc của năm nay (nếu được thì bỏ đi cái màn vỗ tay dư thừa cuối phim), nhưng quan điểm cá nhân của mình bộ phim không nên đạt giải Phim xuất sắc nhất ở hai lý do:
(1) Không mang lại cho mình một ý nghĩa tồn đọng rõ ràng về giá trị của bộ phim mang lại ngoài vấn đề ngoại giao, chính trị và tinh thần chủ nghĩa dân chủ tự do.
(2) Chưa khắc họa sâu vào người ra chiến dịch Argo là Tony Mendez.
Nếu Argo năm 1979 là để cứu 6 nhân viên ngoại giao, thì Argo năm 2012 là để hiện thực hóa sống động nhất của Argo của 1979.
-
"Warcraft" là một bộ phim hành động giả tưởng phát hành vào năm 2016, được đạo diễn bởi Duncan Jones và dựa trên loạt trò chơi video nổi tiếng của Blizzard Entertainment, đặc biệt là dòng game "Warcraft." Bộ phim là một phần của vũ trụ mở rộng "Warcraft," và tập trung vào sự xung đột giữa con người và Orc, hai chủng tộc trong thế giới hư cấu Azeroth.
Bộ phim diễn ra ở thế giới Azeroth, nơi mà vương quốc con người đang đối mặt với một cuộc xâm lược từ các Orc đến từ một thế giới khác đang dần sụp đổ. Để tồn tại, các Orc, dưới sự lãnh đạo của Gul'dan, sử dụng một loại phép thuật đen tối gọi là "Fel" để mở ra một cánh cổng kết nối hai thế giới. Lực lượng của con người, đứng đầu là Llane Wrynn (vua của Stormwind), cùng với các chiến binh như Anduin Lothar và pháp sư Medivh, phải tìm cách bảo vệ vương quốc của mình. Cùng lúc đó, Durotan, một lãnh chúa Orc, bắt đầu nghi ngờ về phương pháp của Gul'dan và mong muốn tìm một con đường mới để cứu lấy dân tộc của mình.
-
Đỉnh Everest thuộc dãy Himalaya, được cho là đỉnh núi cao nhất thế giới (8.848m), nằm giữa biên giới Nepal và Tây Tạng. Nó luôn là thách thức khó khăn nhất dành cho những nhà leo núi chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư. Hàng trăm người đã bỏ mạng khi cố gắng chinh phục đỉnh Everest và xác họ vẫn có thể nhìn thấy rải rác dọc tuyến đường lên núi. Tuy nhiên, 1996 vẫn là được gọi là “năm chết chóc” trong lịch sử chinh phục Everest với 19 người chết, trong đó bao gồm cả Rob Hall và Scott Fischer – hai nhà thám hiểm kỳ cựu được trả tiền để dẫn dắt các du khách trèo lên tới đỉnh. Đó cũng chính là nhân vật và bối cảnh diễn ra trong “Everest”.
Ngay từ khi mới công bố rộng rãi, Everest đã giành được sự quan tâm khá lớn của công chúng và giới phê bình khi sở hữu một loạt diễn viên tên tuổi: Jason Clarke, Josh Brolin, Jake Gyllenhaal, Keira Knightley, Sam Worthington… Có thể nói, ngay cả nhân vật phụ trong phim cũng là những tên tuổi có thực lực. Điều đó có vẻ là một nước cờ chắc tay vì trên thực tế, bối cảnh nghìn trùng núi tuyết có thể tạo sự choáng ngợp nhanh chóng nhưng sau đó dễ sa vào đơn điệu còn câu chuyện của phim thì khá thiếu điểm nhấn.
Quay lại thời điểm năm 1996, Rob Hall (Jason Clarke) là một nhà leo núi chuyên nghiệp và đứng đầu một công ty lữ hành chuyên tổ chức tour hướng dẫn du khách lên đỉnh Everest. Anh thực hiện tour cuối cùng của mình chỉ vài tháng trước khi vợ anh (Keira Knightley thủ diễn) sinh con đầu lòng. Trong đoàn leo núi do anh dẫn đầu có nhiều thành phần với những mục đích khác nhau khi chinh phục Everest.
Với cô Yasuko Namba (Naoko Mori) lí do là cô đã chinh phục được 6 ngọn núi và Everest là ngọn núi thứ 7. Với Beck (Josh Brolin), ông trả lời đơn giản “Chỉ vì ngọn núi ở đó” (trích dẫn câu nói nổi tiếng của George Mallory – nhà thám hiểm đầu tiên “suýt” chinh phục được đỉnh Everest). Còn với anh thợ mộc và đưa thư Doug Hansen (John Hawkes), lí do của anh có sự đặc biệt và hấp dẫn riêng: anh muốn truyền cảm hứng cho những đứa trẻ ở địa phương vượt qua khó khăn. Mỗi người đều có lý do của mình để ước mong và khao khát đặt chân lên đỉnh Everest.
Bộ phim khắc họa chân thực và sống động niềm đam mê “đắt giá” (về cả tiền bạc lẫn sinh mạng) mà những người leo núi phải bỏ ra. Hành trình leo Everest được diễn giải kỹ lưỡng trong phim, từ năm trại ở năm độ cao khác nhau đến những địa danh lịch sử như Thác Băng, Vùng Chết, Vùng Ban Công, Bậc Hillary… mà bất cứ nhà leo núi nào cũng phải trải qua trước khi chạm tay vào biểu tượng trên nóc nhà thế giới.
Rob Hall, dĩ nhiên là trọng tâm của câu chuyện khi anh lên đường mà trong lòng luôn canh cánh về người vợ và đứa con chưa chào đời. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế nào, Hall vẫn thể hiện được bản lĩnh của một nhà thám hiểm cũng như tinh thần trách nhiệm của một người dẫn đường “không những đưa được bạn lên mà phải đưa được bạn xuống an toàn”. Jason Clarke với vẻ điềm tĩnh, đáng tin cậy đã hoàn thành tốt vai diễn này, đối lập với Scott Fischer của Jake Gyllenhaal – đối thủ cạnh tranh với Hall – một người đàn ông phóng khoáng, ngang tàng.
Bên cạnh họ, Beck Weathers (Josh Brolin) tạo khá nhiều cảm xúc cho khán giả. Thoạt đầu có vẻ kênh kiệu đáng ghét nhưng thực ra nhân vật này cũng có những góc khuất và câu chuyện riêng, chưa kể sức sống rất mãnh liệt. Trong dàn nữ phụ, Emily Watson đóng vai trò là “người mẹ” của đoàn leo núi tại Trại Chính và bà thực sự mang đến cho người xem cảm giác gần gũi, yêu thương và lo lắng mà bà dành cho các thành viên khác.
Phim bám rất sát chuyện xảy ra trong thực tế, không bị “chủ nghĩa anh hùng hóa” các nhân vật lên. Ví dụ như họ cũng biết “tham sống sợ chết”, khi rơi vào tình trạng ngặt nghèo. Sức cùng lực kiệt, họ buộc phải bỏ mặc các thành viên khác trong đoàn để đảm bảo mạng sống của mình trước. Cái chết ở độ cao gần 9000 mét so với mực nước biển trở nên quá đáng sợ và nhanh chóng. Những vấn đề như thiếu oxy, sốc nhiệt thời tiết dẫn đến sốc thần kinh và “phát điên”, những lúc vượt núi cheo leo hay thời tiết xấu được mô tả rất chân thực. Khán giả liên tục rùng mình, choáng váng trước những thử thách tử thần của thiên nhiên và con người thực sự quá yếu đuối, nhỏ bé trước thế lực to lớn này.
Tuy nhiên, cách khai thác này của đạo diễn Baltasar Kormákur lại khiến cho phim thiếu đi chiều sâu và gợn tiếc nuối. Việc phải ôm đồm quá nhiều nhân vật khiến cho phim bị loãng: ai cũng có phần có mảng để kể câu chuyện của mình nhưng để có một nét chấm phá thật sự lay động lòng người thì Everest chưa làm được. Đó là chưa kể những tình tiết cần phải phát triển lên cao trào như phút chinh phục đỉnh núi, cái chết của các nhân vật lại quá chớp nhoáng khiến Everest dễ trở thành bộ phim phiêu lưu thực tế giống như rất nhiều phim khác cùng chủ đề và không để lại ấn tượng sâu đậm mấy.
Dù vậy, giới chuyên môn vẫn đánh giá “Everest” sẽ là ứng cử viên sáng giá tại Oscar năm nay với các hạng mục kĩ thuật. Bên cạnh hiệu ứng 3D rõ mồn một phim còn có những góc quay rộng được ghi nhận thật từ dãy Alps – Italy và Everest (Nepal). Được biết đạo diễn Kormákur đã quyết tâm đưa cả đoàn làm phim lên nơi mà nhiệt độ xuống tới -30 độ C để lấy những góc quay đẹp nhất, hùng vĩ nhất và đẩy dàn diễn viên tới những giới hạn tận cùng của cảm xúc.
Thật thế, đây là một bộ phim mà quá trình thực hiện rất khó khăn. Dàn diễn viên- những tài sản triệu đô của Hollywood cũng phải tự mình đi bộ cả một quãng đường dài trong cái lạnh rét buốt để đến nơi ghi hình, thực hiện những cảnh quay dưới trời gió tuyết và họ cũng ngục ngã vì lạnh, vì mệt và gặp tuyết lở. Rất may là không có ai bị thương. Chưa thể gọi là một tác phẩm thật sự xuất sắc nhưng Everest vẫn có những giá trị tích cực và đáng ghi nhận. Dự đoán bộ phim vẫn sẽ thu được doanh thu khá ổn và tiếp tục giúp hãng Universal bỏ túi vài trăm triệu USD trên tổng doanh thu của năm 2015.
-
Oblivion là bộ phim hành động khoa học viễn tưởng thú vị và giàu trí tưởng tượng về tương lai gần của trái đất. Dự án thực hiện bộ phim đã được ấp ủ từ nhiều năm qua, và đến tháng 5 năm 2011 thì Tom Cruise chính thức nhận lời tham gia vai diễn viên chính (Jack Harper - không phải Jack Reacher nhé), sau đó phim được khởi quay, dự kiến ra rạp ngày 12/4/2013, cùng thời điểm với toàn thế giới. Đạo diễn thực hiện phim này là Joseph Kosinski, người từng làm phim TRON: Legacy. Ngoài ra bộ phim có sự tham gia của các ngôi sao Olga Kurylenko (Bond Girl trong 007-Quantum of Solace), Andrea Riseborough, Morgan Freeman (chắc là ai cũng biết), Melissa Leo, Zoë Bell, và Nikolaj Coster-Waldau.
Năm 2077, Tòa án quân sự cử một cựu chiến binh tên Jack Harper (Tom Cruise đóng) trở lại Trái Đất, nhận nhiệm vụ sửa chữa máy bay không người lái (Drone). 60 năm trước, Trái Đất bị người ngoài hành tinh tấn công, con người đã đẩy lùi được sự xâm lăng này, nhưng hơn 50% hành tinh xanh bị phá hủy, và con người buộc phải di cư lên sống lang thang khắp vũ trụ. Và rồi tính mạng của Jack trở nên nguy hiểm khi anh vô tình cứu được một cô gái trong một tai nạn tàu vũ trụ. Sự xuất hiện của cô gái cùng với một loạt cái sự việc bí ẩn khiến Jack đặt câu hỏi tất cả mọi thứ anh ta biết về chiến tranh và hậu quả của nó. Thêm vào đó, Jack bị bắt cóc bởi một tổ chức quân nổi loạn được cầm đầu bởi Malcolm Beech (Morgan Freeman), Jack được thông tin rằng anh đang sống trong một xã hội chịu chế độ chuyên chế do cảnh sát kiểm soát và những thông tin nhiệm vụ mà anh biết được đều do cấp trên bịa đặt mà ra.
-
Phim xoay quanh câu chuyện của cô gái trẻ tên là Sarah (do Jennifer Connelly thủ vai), người phải bước vào một mê cung kỳ ảo để giải cứu em trai mình, Toby, khỏi Vua Goblin Jareth (do David Bowie thủ vai). Sarah có 13 tiếng đồng hồ để hoàn thành nhiệm vụ này, nếu không Toby sẽ bị biến thành một Goblin mãi mãi. Trên hành trình, Sarah gặp gỡ và kết bạn với nhiều nhân vật kỳ lạ và phải đối mặt với những thử thách đầy cam go trong mê cung.
-
Nguyên tác truyện tranh Watchmen là một tác phẩm có tầm ảnh hưởng rất lớn đến nhiều thế hệ fan DC, việc này đồng nghĩa với chuyện áp lực sẽ rất nặng lên đôi vai đạo diễn Zack Snyder khi quyết đinh đứng ra đưa “Watchmen” lên phim. Nhưng với bàn tay phù thủy của mình, Zack đã đưa phim Watchmen lên một tầm cao mới vượt xa mong đợi của khán giả.
Có một vài điều bạn nên biết trước khi coi Watchmen vì đây là bộ truyện/phim không như những truyện/phim siêu anh hùng khác. “Watchmen” chứa nhiều ẩn dụ, nhiều tầng lớp, nhiều tuyến nhân vật, nhiều liên tưởng, nhiều hồi ức. Watchmen ra đời thay đổi rất lớn cái nhìn của người xem dành cho truyện comic. Hầu hết truyện comic thời đó và cả nhiều truyện bây giờ, phân định rất rõ rệt các tuyến nhân vật thiện ác, áp đặt quan điểm về nhân vật, quan điểm về các mặt đối lập lên người xem, buộc người xem đi theo đúng tuyến suy nghĩ mà tác giả muốn người xem đi theo. Điều này giống như trong một cánh rừng rậm rạp mà chỉ có một con đường, 99% sẽ đi theo con đường mòn đó.
Đi ngược với xu hướng đó, Alan Moore, tác giả truyện Watchmen, không áp đặt cho người xem, ông đặt nhận định về nhân vật của truyện trong bàn tay người đọc truyện. Khán giả có thể chọn không đi con đường độc đạo có sẵn, họ có thể phải băng rừng, có thể phải lội suối nhưng họ sẽ được chiêm ngưỡng những kì quan mà những người theo lối mòn không bao giờ cảm nhận được.
Trong phim Watchmen, không có ai hoàn toàn tốt cũng như hoàn toàn xấu bởi Alan Moore muốn chứng minh một điều rằng: không ai nghiêng hoàn toàn về một thái cực. Vật có thể đổi, sao có thể dời, trong người tốt lúc nào cũng tồn tại một mảng xấu. Và trong những kẻ xấu xa không hoàn toàn đen xì những tội lỗi mà vẫn còn đó những đốm sáng của lòng trắc ẩn. Sẽ có những lúc, lòng trắc ẩn đó mở rộng hướng những người lầm lỗi đi theo con đường chân chính.
Trước khi xem Watchmen, mình luôn tự hỏi Zack sẽ làm cách nào để truyền tải tất cả những ý tưởng đó của Alan Moore? Bởi bản truyện tương đối khó hiểu và mình phải đọc tới lần thứ 3 mới hiểu hết được. Truyện Watchmen đòi hỏi người đọc phải có một nhận định và quan điểm đạt tới mức độ nào đó để có thể lĩnh hội được hết những gì mà tác giả muốn nói. Truyện nhắm đến một số đối tượng nhất định nào đó mà thôi. Ngược lại, phim “Watchmen” cần nhắm đến số đông khán giả. Truyện có thể người ta không đọc nhưng phim thì nhất định người ta sẽ nô nức đi xem.
Giống như nguyên tác, phim Watchmen mở màn với cái chết của The Comedian. Anh là một thành viên của Watchmen, dù đã 65 tuổi nhưng vẫn có sức khoẻ phi thường cùng hình thể tráng kiện, nhưng bị ám sát dưới tay của một kẻ còn mạnh hơn nhiều lần. The Comedian bị ném ra ngoài cửa sổ căn hộ cao tầng, rơi xuống vỉa hè, văng ra chiếc badge có hình smiley – biểu tượng của nụ cười. Trên đó có một vệt máu nhỏ xuống. Đơn giản nhưng ấn tượng, chiếc badge có vệt máu này đi suốt chiều dài của truyện, chứa đầy ẩn dụ thâm sâu.
Zack Snyder đã làm mình ngạc nhiên khi khéo léo xây dựng một đoạn flashback ngay khúc credit đầu phim để tóm tắt ngắn gọn về lịch sử của Watchmen. Ở đó, nhóm này gồm một số thành viên trước đó hoạt động trong nhóm gồm các costumed vigilante The Minute Men (tạm dịch: những người hùng dấu mặt). Thiếu đoạn này, có thể người xem sẽ khá khó khăn để bắt kịp nội dung phim. Với chỉ vỏn vẹn 3 tiếng, rất khó để nói hết những thứ có trong truyện. Đây là đoạn, theo mình, là rất thú vị, nói về thời huy hoàng cũng như sụp đổ của các anh hùng giấu mặt.
Trong đoạn hồi tưởng này, bạn sẽ thấy rất nhiều người nổi tiếng thời đó giao lưu với các anh hùng như: John Lennon và Yoko Ono, David Bowie, Andy Warhol, Jackie Kennedy, Truman Capote… Đoạn montage này còn gán ghép các chi tiết của phim Watchmen vào những sự kiện lịch sử nổi tiếng. Cụ thể như đoạn phim quay những bước chân đầu tiên của Neil Armstrong trên mặt trăng thực chất là do Dr Manhattan cầm máy quay; hay đọạn The Silhouette của nhóm Minute Men, vốn là một lesbian, vào ngày Mỹ chiến thắng Nhật chấm dứt chiến tranh thế giới lần 2, đã đè ngửa ngừơi tình của mình ra hôn, bắt chước y hệt nụ hôn nổi tiếng mang tên V-J Day Kiss vào năm 1945; hay The Comedian chính là người bắn chết tổng thống JFKennedy năm 1963 tại Dallas… Trên nền ca khúc The Times They Are Changing của Bob Dylan, đoạn montage này khiến tổng thể những cảnh hồi tưởng trở nên chân thực và hay hơn bội phần.
Watchmen không phải là mô tip phim siêu anh hùng bảo vệ chính nghĩa, chống lại các ác thương thấy trong những phim của Batman hay Superman. Sẽ không có những trận chiến nảy lửa giữa siêu anh hùng và đại ác nhân thay vào đó, phim đào sâu vàp cuộc sống riêng tư của những anh hùng thời chiến đã về hưu. Đó là thời điểm chiến tranh đã chấm dứt, xã hội đã không cần đến anh hùng ra tay nghĩa hiệp.
Một điểm đặc trưng nữa trong Watchmen đó chính là tính chân thực, mọi thứ gắn liền với hiện thực một cách gần gũi nhất, không có những siêu chiến binh, siêu năng lực phi thường, chỉ có những anh hùng “bình dân”. Ngoài Dr Manhattan sau một sự cố tai nạn ngoài ý muốn đã có được sức mạnh của đấng tối cao, thì số anh hùng còn lại hoàn toàn là ngưòi bình thường với sức khoẻ, sự dẻo dai và nhanh nhẹn nhờ vào sự luyện tập và những thiết bị hỗ trợ.
Bối cảnh Watchmen tuy có hư cấu nhưng phần lớn vẫn dựa trên các cột mốc lịch sử. Sự kiện trong phim Watchmen diễn ra vào năm 85 trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa hai cường quốc của thế giới là Mỹ và Nga. Lúc này Richard Nixon vẫn còn là tổng thống Mỹ và được bầu cử đến 3 nhiệm kỳ mặc dù ngoài đời ông này chỉ làm đến đầu nhiệm kỳ thứ hai đã phải từ chức sau vụ Watergate. Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga trong lúc này rất có nguy cơ dẫn đến chiến tranh hạt nhân, đe dọa đến sự diệt vong của loài người. Phòng thí nghiệm hạt nhân tại đại học Chicago đã dựng lên một cái đồng hồ biểu tượng, gọi là Doomsday Clock, set giờ là 12 giờ đêm kém 7 phút. 12 giờ đêm tượng trưng cho sự diệt vong của loài người, còn số phút tượng trưng cho mức độ hiểm hoạ có khả năng dẫn đến diệt vong, tuỳ mức độ gần diệt vong như thế nào mà các nhà khoa học sẽ ước lượng số phút như thế đó. Biểu tượng smiley của The Comedian với vệt máu khô xẹt ngang, nếu nhìn vệt máu theo hình dáng của kim phút trên đồng hồ, sẽ thấy vệt máu đó chỉ đúng vào lúc 12g đêm kém 7 phút. Đó là lý do tại sao biểu tượng smiley này đi suốt chiều dài truyện và đã trở thành một biểu tượng không thể lần lẫn vào đâu được của Watchmen.
Thực tế, Doomsday Clock không phải là hư cấu. Năm 1947, Doomsday Clock thật sự được dựng lên tại phòng thí nghiệm hạt nhân của ĐH Chicago, chỉ đúng 7 phút trước 12g đêm. Tuy nhiên, từ năm 1947 đến nay, tuy hiểm họa chiến tranh hạt nhân không còn đe doạ quá lớn như thời chiến tranh lạnh nhưng hiểm hoạ môi trường, thiên tai hạn hán, bệnh dịch… xảy ra liên tục… Nên vào năm 2007, kim phút của Doomsday Clock này đã bị dời đến con số 5, tức là 5 phút trước giờ diệt vong của loài người. Điểm diệt vong của nhân loại bây giờ còn gần kề hơn thời chiến tranh lạnh.
Cái chết của The Comedian không làm ai bận tâm, trừ Rorschach, một thành viên của Watchmen. Trong khi tất cả vigilante đều bị cấm hoạt động, trừ Dr Manhattan và Silk Spectre hoạt động cho chính phủ, Rorschach trừ gian diệt ác bằng con đường riêng của mình. Rorschach, một gã đàn ông xấu xí bạo lực với tuổi thơ bất hạnh trong chính gia đình mình, bị bạn bè sỉ nhục, bị chính mẹ ruột ngược đãi. Rorschach chỉ tìm thấy tự tin sau chiếc mặt nạ của mình vì khuôn mặt thật sau những chịu đựng tuổi thơ, đã trở thành một khuôn mặt tầm thường, dường như là kẻ duy nhất nhìn thấu tận đáy của xã hội dơ bẩn. Rorschach tin rằng có kẻ đứng đằng sau vụ ám sát The Comedian đang nhắm vào các anh hùng.
Nhưng thế giới đang trên đà diệt vong. Cái chết của The Comedian có gây được chú ý của ai, có cảnh báo được ai? Rorschach, Nite Owl, Silk Spectre, Ozymandias là những anh hùng nhưng xét cho cùng họ đều là những người bình thường trong sắc diện bình thường. Họ có thể đấm gãy mũi, bẻ gãy tay, đá gãy chân một ai đó nhưng họ không thể làm gì để cản được hiểm họa diệt vong. Người duy nhất có thể ngăn được hiểm hoạ này là Dr Manhattan nhưng người đàn ông này đã không còn vương vấn gì với loài người khi loài người quay lưng lại với ông. Vậy họ phải làm gì để cứu thế giới? Và nếu có được cơ hội để ngăn cản được thảm họa này họ sẽ phải hi sinh điều gì? Và khi họ ngăn cản được diệt vong, loài người có chấp nhận họ như những người tốt hay loài người sẽ phán đoán họ như những kẻ tội đồ?
Zack Snyder tiếp tục sử dụng kỹ thuật “foreshortening” của comics như anh đã từng làm với phim 300, tức là sử dụng hình ảnh với không gian sâu có foreground, midground và background khiến cho vật gần với mắt nhìn trở nên to và mạnh hơn hẳn so với vật ở xa mắt nhìn, tạo cảm giác quyết liệt. Các cảnh đánh đấm tuy không quá nhiều nhưng nhanh, đẹp và dứt khoát, các pha quay chậm bố trí phân bổ đúng lúc. Phim 300 quay chậm quay nhanh như thế nào thì Watchmen này cũng tương tự như thế. Lần này Snyder tiếp tục làm phim theo kiểu frame by frame y như trong truyện, chỉ khác là cắt bỏ bớt một số phần có thể gây lúng túng ở người xem chẳng hạn như câu chuyện cướp biển (tới giờ mình cũng chưa biết chuyện này có liên quan gì đến nội dung nữa), hay cái chết của Nite Owl 1…
Thoại phim rất hay và ý nghĩa vì xét cho cùng, văn phong comic có ai qua được Alan Moore và Neil Gaiman. Sách của hai ông này tuy comic nhưng không phải comic mà có thể xem như sách thánh hiền. Lời thoại phim có thể được thay đổi cho phù hợp nhưng lời thoại và những đoạn nhật ký trong cuốn journal của Rorschach gần như được giữ nguyên xi không suy chuyển so với nguyên tác truyện tranh. Nếu xét trên phương diện phim chuyển thể từ truyện của Alan Moore thì có thể nói Watchmen chuyển thể lần này hay hơn một tí so với V for Vendetta.
Watchmen như một album đặc biệt với những bài hát nổi tiếng. Đầu tiên là The Times They Are A Changing của Bob Dylan trong khúc opening montage như mình đã nói ở trên. Sau đó là Sound of Silence của Simon & Garfunkel trong đám tang trong mưa của The Comedian, rồi Unforgetable của Nat King Cole, All Along the Watchtower của Jimmi Hendrix, đặc biệt có Hallelujah của Leonard Cohen ngay khúc xxx của Silk Spectre và Nite Owl, tạo cảm giác mới lạ ghê, coi phim xong về phải nghe luôn vậy đó. Quên nhắc đến Ride on the Valkyries, đây có thể xem như khúc tribute cho Apocalypse Now của Francis Ford Coppola năm 1979. Ride on the Valkyries trỗi lên khúc máy bay trực thăng quần thảo làng mạc VN trong Apocalypse Now và một lần nữa, cảnh này xuất hiện y chang trong phim Watchmen, chỉ có khác là chuyến này có Dr Manhattan đi bên dưới mà thôi.
Lạc giữa rừng nhạc bất hủ là Desolation Row của My Chemical Romance trong khúc ending credit của phim. Không phải tự nhiên mà My Chemical Romance có cửa vào đây đâu nha. Gerard Way, vocalist của MCR là một hardcore fan của comics, đồng thời là tác giả của bộ comic Umbrella Academy, có thể xem đây là bộ truyện khá hay so với tuổi đời và kinh nghiệm của của Gerard Way. Thật là một trải nghiệm phim tuyệt vời!