Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,724 files
-
Tiếp nối sự thành công “cuộc di tản Dunkirk” của Christopher Nolan chắc chắn phải là Darkest Hour của đạo diễn Joe Wright. Cái tên Joe Wright được biết đến qua các bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học như Pride & Prejudice (2005), Atonement (2007) hay Hanna (2011). Chính vì thế, có thể nói Giờ Đen Tối là cột mốc đánh dấu cho sự trở lại đầy ngoạn mục và hoàn toàn khác biệt của Wright.
Bộ phim lấy bối cảnh khi Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đang bùng nổ và lan rộng khắp châu Âu. Cụ thể hơn, vào tháng 5/1940 khi Phát xít Đức đem quân tấn công Bỉ và Hà Lan thì quân đồng minh Anh và Pháp đang bị thất thế trên nhiều trận địa. Trước tình hình chiến sự căng thẳng, quốc hội Anh cho rằng thủ tướng đương nhiệm Neville Chamberlain đang có những chính sách quá nhu nhược và mềm yếu trước kẻ thù. Họ kịch liệt chỉ trích và buộc ông phải từ chức, giao trọng trách bảo toàn an ninh quốc gia cho một người khác. Cuối cùng, chiếc ghế đó đã thuộc về Winston Churchill – bộ trưởng bộ hải quân Anh quốc. Tuy được chọn giữ chức thủ tướng nhưng Churchill lúc bấy giờ không hề nhận được sự ủng hộ của nhiều người trong chính phủ, điển hình như chính cựu thủ tướng Chamberlain, Halifax và thậm chí Đức Vua Geogre VI cũng hồ nghi năng lực của ông.
Quốc hội và Hoàng gia Anh hẳn phải có cơ sở cho sự do dự và nghi hoặc của họ. Nếu bạn đọc tiểu sử và tìm hiểu về cuộc đời lẫn con đường sự nghiệp của Winston Churchill, bạn sẽ hiểu tại sao một trong những vị thủ tướng quan trọng nhất xứ sở sương mù này lại không nhận được sự tín nhiệm của nhiều người đến thế. Ông vốn nổi tiếng là một kẻ nóng tính, vô cùng cứng nhắc và đã từng đưa ra nhiều quyết định, chính sách sai lầm (nổi tiếng nhất phải kể đến cuộc đổ bộ thất bại Gallipoli trong thế chiến thứ 1). Một kẻ mà sáng thức dậy với một ly whiskey và điếu cigarette luôn thường trực trên môi ắt sẽ gây ra nhiều tranh cãi khi nhậm chức. Hơn thế nữa, Churchill được chọn làm thủ tướng trong hoàn cảnh nước Anh rơi vào thời kì đen tối nhất của lịch sử. Cả châu Âu đang chìm trong biển lửa của gã độc tài người Hitler, quân đội Anh và Pháp bị Đức bao vây tại Dunkirk và có thể bị đánh bại bất cứ lúc nào. Quốc hội Anh buộc phải nhanh chóng đưa ra quyết định mang tính sống còn cho vận mệnh quốc gia: hoặc là đàm phán hòa bình với Đức, hoặc là đứng lên chiến đấu tới cùng để dành độc lập.
Dưới sự nhào nặn của Anthony McCarten, cũng chính là người chắp bút xây dựng kịch bản cho The Theory Of Everything, bộ phim tiểu sử Darkest Hour có những yếu tố ‘drama’ vừa đủ. Tổng thể bộ phim là sự cân bằng giữa yếu tố chính trị trong sự nghiệp của Winston Churchill và yếu tố đời tư của ông. Tác phẩm vẫn tập trung chính xây dựng sự gay cấn trong các quyết định mang tính chiến sự và sống còn của quốc gia, phù hợp với thể loại history mà phim theo đuổi nhưng vẫn điểm xuyết một vài yếu tố cuộc sống cá nhân của vị thủ tướng, giúp cho bộ phim không quá lan man nhưng vẫn không bị khô khan.
Nếu bạn mong chờ những cảnh đánh nhau hay bom đạn khốc liệt ngoài chiến trường, thì có lẽ Darkest Hour không phải bộ phim dành cho bạn. (Và mình suggest luôn Dunkirk lấy bối cảnh tương tự nhưng khốc liệt hơn nhiều, đầy đủ khói lửa bom đạn cho bạn tha hồ coi) Phim chủ yếu xoay quanh các tuyến nhân vật liên quan đến lịch sử và đặc biệt là diễn biến tâm lý của thủ tướng Churchill khi ông phải đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “nên đánh hay nên hàng ?”. Chính vì thế, bộ phim khá trầm và u ám, hệt như cái tựa của nó vậy. Đoạn đầu phim có tiết tấu khá chậm rãi khiến người xem hơi buồn ngủ. Nhưng nếu bạn kiên nhẫn xem đến hết bộ phim và nhập tâm cùng nhân vật, hẳn sau đó bạn sẽ cảm thấy hồi hộp đứng ngồi không yên cùng Churchill ngay.
Nhân vật chính của bộ phim, đương nhiên không ai khác chính là thủ tướng Winston Churchill do Gary Oldman thủ vai. Và chính diễn xuất của ông là điểm sáng cho bộ phim này. Darkest Hour có thể là một bộ phim chưa thực sự xuất sắc trong lòng người xem bởi nhiều yếu tố như thể loại, diễn biến phim, v..v nhưng bạn không thể phủ nhận diễn xuất của diễn viên gạo cội Gary Oldman trong phim được. Mình thực sự đã phải thốt lên “Đây thực sự là Gary Oldman ư?” khi nhìn vào poster bộ phim bởi lớp hóa trang cực kì xuất sắc đã giúp khắc họa nên một Winston Churchill gần gũi nhất với “phiên bản” thật. Thế nhưng để vai diễn trong bộ phim chính kịch hoàn chỉnh và trở nên chân thật nhất thì lớp hóa trang thôi là chưa đủ. Với Churchill lần này, ta thấy được sự biến hóa khôn lường cũng như tài năng và kinh nghiệm diễn xuất của Oldman quả thật là một điều đáng được tôn vinh. Đấy là lý do mình đặt tựa đề của bài viết này là “Vai diễn để đời của Gary Oldman”. Ông thực sự đã hóa thân vào nhân vật, khiến cho người xem cảm giác như đang xem một Winston Churchill sống lại, bằng da bằng thịt. Từ điệu bộ, dáng vẻ, cái cách mà ông cầm điếu cigarette cho đến những câu quát tháo và cái đập bàn lúc ông tức giận, âm sắc và thái độ khi ông đọc bài diễn văn kêu gọi qua sóng radio, v…v. Tất cả đều vô cùng xuất sắc. Mình đã xem bộ phim trước rồi mới tìm hiểu các giải thưởng trên con đường tiến tới tượng vàng Oscar và quả không nằm ngoài dự đoán của mình, mọi đề cử cho Best Actor từ các giải lớn nhỏ của hội đồng chuyên môn đều có tên Gary Oldman bởi ông thực sự xứng đáng có được chúng cho những nỗ lực của mình, không chỉ với vai diễn Winston Churchill này mà còn cho sự cống hiến của ông trên con đường sự nghiệp.
Vai diễn của Gary Oldman nổi bật tới nỗi những vai phụ của cô thư ký đánh máy Elizabeth Layton (Lily James thủ vai) hay người vợ Clementine Churchill (Kristin Scott Thomas) trở nên lu mờ, đôi khi còn thừa thãi. Mình hiểu dụng ý của tác giả khi xây dựng hai nhân vật phụ này, nhằm phần nào nói lên ẩn sau một Churchill đáng ghét, nóng nảy thực chất là một con người tình cảm, nhân ái và quan tâm đến người khác. Dù ông có bị Chamberlain hay Halifax không ưa, dù ông có bị cả quốc hội chỉ trích thì cuối cùng ông vẫn là một người chồng hết mực yêu thương vợ và là một vị sếp biết đồng cảm với nhân viên của mình. Thế nhưng, Gary Oldman đã diễn tròn vai tới nỗi mà mình cảm giác như nếu bỏ đi Lily James hay Kristin Scott Thomas thì cũng không ảnh hưởng đến bộ phim cũng như nhân vật lịch sử này. Bởi suy cho cùng, cái mà người xem ấn tượng sau khi bước ra khỏi rạp là một tinh thần thép và ý chí dũng cảm, tinh thần quyết đoán của ông khi cương quyết đấu tranh tới cùng để bảo vệ đất nước. Như ông đã nói trong bài phát biểu của mình rằng “Tôi không có gì để cống hiến ngoài máu, sự lao động, nước mắt và mồ hôi” (“I would say to the House, as I said to those who have joined this Government: I have nothing to offer but blood, toil, tears and sweat”) hay như “Chúng ta sẽ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta, dù với bất kỳ giá nào, chúng ta sẽ chiến đấu trên đất Pháp, chiến đấu trên biển, chiến đấu với không lực ngày càng vững mạnh, chiến đấu từ bờ biển vào đất liền, từ nông thôn ra thành thị, lên miền núi, chúng ta quyết không đầu hàng.” (“We shall go on to the end, we shall fight in France, we shall fight on the seas and oceans, we shall fight with growing confidence and growing strength in the air, we shall defend our island, whatever the cost may be, we shall fight on the beaches, we shall fight on the landing grounds, we shall fight in the fields and in the streets, we shall fight in the hills; we shall never surrender.”)
Bên cạnh đó, yếu tố kỹ thuật cũng giúp bộ phim trở thành một tác phẩm tuyệt đẹp. Đạo diễn Joe Wright rất biết sử dụng ánh sáng trong các thước phim của mình. Những ánh đèn leo lắt trong phòng họp thể hiện tình thế căng thẳng của cả một quốc gia. Sự u ám trong cung điện nguy nga lộng lẫy của Vua Geogre VI cũng chính là sự u ám đang bao chùm lên nước Anh vào tháng 5 và 6/1940. Hay như Winston Churchill đến gặp vua Geogre để nhậm chức, hai người đứng bắt tay nhau khi ánh sáng hắt vào khung cửa sổ của cung điện như ngầm thể hiện cho một hy vọng, một lời tiên tri cho sự thấu hiểu và đồng cảm dần hình thành trong mối quan hệ của hai người. Không chỉ vậy, Darkest Hour sử dụng khá nhiều những cảnh quay chân dung để khắc họa tâm lý của nhân vật chính. Như khi chỉ có mình ông trong thang máy tòa nhà và bóng tối bủa vây xung quanh, hay khi ông một mình ngồi trong phòng và gọi điện cho Franklin D. Roosevelt. Tất cả chúng đều góp phần thể hiện sự tù túng và bế tắc trong diễn biến nội tâm của nhân vật.
Cuối cùng, có thể Darkest Hour không phải là một bộ phim dành cho số đông khán giả nhưng lại là một bộ phim tiểu sử, lịch sử chinh phục được mình nhờ sự hóa thân của Gary Oldman. Mình vẫn hy vọng ông chiến thắng Best Actor và mang về cho bản thân chiếc tượng vàng Oscar 2018.
-
Dựa theo loạt truyện dành cho thiếu nhi nổi tiếng cùng tên của Beatrix Potter, Peter Rabbit đã thu về hơn 350 triệu USD trên toàn thế giới hồi năm 2018. Thỏ Peter cùng đồng bọn nhận được nhiều tình cảm bởi vẻ ngoài đáng yêu nhưng phá hoại thì khó ai sánh bằng. Tiếp nối thành công đó, phần phim tiếp theo mang tên Peter Rabbit 2: The Runaway (Thỏ Rabbit 2: Cuộc Trốn Chạy) sẽ mang đến chuyến phiêu lưu mới đầy hài hước nhưng cũng không kém phần cảm xúc.
Sau các sự kiện ở phần phim đầu tiên, Bea (Rose Byrne) và Thomas (Domhnall Gleeson) đã về chung một nhà và bắt đầu kì trăng mật. Thỏ Peter (James Corden) cũng trở nên nổi tiếng hơn nhờ những bộ truyện tranh thiếu nhi của Bea. Tuy đã trở thành “sao”, mối quan hệ của anh chàng là Thomas vẫn chẳng được cải thiện chút nào bởi tính cách nghịch ngợm và hậu đậu hết phần thiên hạ. Vì thế mà Peter quyết định… bỏ nhà đi bụi để dấn thân vào những chuyến phiêu lưu mới. Trên đường đi, cậu làm quen được với Barnabas (Lennie James) – một người bạn cũ của cha mình. Những tưởng sẽ trưởng thành hơn, Barnasbas hóa ra còn quậy hơn hẳn Peter và rủ chàng thỏ vào những màn phá phách không ngớt. Không những thế, anh chàng còn làm quen thêm được rất nhiều bạn mới tăng động không kém.
Cả nhóm quyết định "chơi lớn" khi đột kích cả một hội chợ đông đúc. Hậu quả là hội thỏ của Peter đều bị… tóm gọn. Đây là lúc anh chàng phải thay đổi bản thân và sử dụng những chiêu thức tinh ranh quen thuộc để cứu những người anh em của mình. Peter Rabbit 2 hứa hẹn sẽ kịch tính và hấp dẫn hơn hẳn người tiền nhiệm khi nâng cấp những màn phá hoại lên một tầm cao mới.
Tác phẩm vẫn đầy ắp tiếng cười bởi phong cách hài hước, sâu cay đặc sắc của người Anh. Đồng thời, phim cũng sẽ chứa đựng thêm nhiều ý nghĩa về tình cảm gia đình và bạn bè thông qua mối quan hệ giữa Bea, Thomas, Peter cùng nhóm bạn đông đúc. Peter Rabbit 2 có sự trở lại của đạo diễn Will Gluck cùng dàn diễn viên đình đám gồm Rose Byrne, Domhnall Gleeson, Sam Neill, Daisy Ridley, Margot Robbie, Elizabeth Debicki và James Corden.
-
Sau một loạt thành công từ những bộ phim về đề tài LGBT trong năm 2017, năm 2018 mở ra một thời đại mới cho dòng phim đồng tính bằng "Love, Simon" - một tác phẩm nhẹ nhàng, ngọt ngào và tràn đầy niềm lạc quan tích cực của mối tình online đa sắc màu nơi trường lớp.
Love, Simon được đạo diễn bởi Greg Berlanti - người đứng sau thành công của Dawson's Creek, Brothers & Sisters, The Flash,… là một tác phẩm ngọt ngào, hài hước và nhẹ nhàng về đề tài LGBT. Khác với những cái tên hàn lâm gây bùng nổ trong năm qua như Call Me By Your Name, BPM, A Fantastic Woman,… Love, Simon mang gam màu đơn giản, đời thường, dễ đồng cảm bởi khán giả.
Cũng giống với Call Me By Your Name, Love, Simon được chuyển thể từ tiểu thuyết Simon vs. the Homo Sapiens Agenda của Becky Albertalli. Sự ra đời của bộ phim đánh dấu một bước tiến quan trọng trong ngành công nghiệp điện ảnh Hollywood khi là tác phẩm “đam mỹ” thuộc chủ đề thiếu niên vườn trường đầu tiên do một hãng phim lớn là 20th Century Fox sản xuất.
Trong lịch sử, đã có nhiều tựa phim đồng tính thắng lớn trên đấu trường phòng vé lẫn giải thưởng cuối năm, như một Brokeback Mountain phá vỡ mọi khuôn mẫu với chuyện tình hai chàng cao bồi vùng viễn Tây nước Mỹ, hay một Philadelphia nêu rõ thực trạng HIV/AIDS hoành hành trong giới. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Love, Simon sẽ là bài toán nan giải về việc liệu khán giả Mỹ sẽ thích thú với câu chuyện tình yêu đồng tính tuổi mới lớn mang màu sắc “ngôn tình” này hay không.
Nếu phải chọn một bộ phim về chủ đề LGBT có thể làm tan chảy những trái tim sắt đá và cực đoan nhất, thì đó chính là Love, Simon. Dù biết sẽ không tránh khỏi nhiều ý kiến trái chiều với mong muốn bộ phim phải gai góc hay đau thương hơn, chính sự “ngọt như mía lùi” đến từ chuyện tình học đường của Simon sẽ là điểm nhấn giúp tựa phim này nổi bật giữa dòng phim đồng tính vốn đã tồn tại nhiều cái kết buồn.
Love, Simon mang âm hưởng của những câu chuyện tình thời niên thiếu mà ai trong chúng ta cũng từng trải qua, thậm chí mang dáng dấp của một số bộ phim truyền hình lẫn điện ảnh về đề tài trường lớp nổi tiếng một thời của huyền thoại John Hughes, nhưng điểm khác biệt lần này ở chỗ người đồng tính sẽ là anh hùng của bộ phim. Những khán giả trẻ sẽ được mãn nhãn trước câu chuyện đa sắc màu của Love, Simon, trong khi phân khúc lớn tuổi hơn sẽ phải thốt lên rằng “Ước gì vào thời của mình từng có một bộ phim đáng yêu, táo bạo và tiến bộ đến như thế.”
Simon là một thiếu niên 16 tuổi (do Nick Robinson thủ vai) sống cùng bố mẹ và em gái ở vùng ngoại ô Atlanta. Ở trường, anh chàng cũng có một hội bạn thân gồm cô bạn nối khố Leah (do Katherine Langford thủ vai), thành viên đội bóng Nick (do Jorge Lendeborg Jr. thủ vai) và “lính mới” Abby (do Alexandra Shipp thủ vai). Tuy cũng giống như những thiếu niên đồng trang lứa, cũng mải mê học hành, ăn pizza uống coca và chat chit trên mạng, Simon còn cất giữ cho mình một bí mật “to lớn đến kinh thiên động địa”: anh là người đồng tính.
Khác với nhiều tác phẩm đặt nền móng thuở trước, ở Love, Simon không đặt nặng vấn đề “come out” hay sự cực đoan của xã hội đè nặng lên đôi vai người đồng tính. Xã hội của Simon được lý tưởng hoá, ngầm xem việc cậu là người đồng tính như một sự thật hiển nhiên.
Bên cạnh đó, đạo diễn Berlanti đã khéo léo lồng ghép nhiều chi tiết mới lạ, tạm gác lại những hình mẫu về câu lạc bộ hội nhóm, đội cổ vũ hay những anh chàng mọt sách gầy nhom, qua đó lấp đầy thế giới quan của Simon bằng những ông thầy, bà cô quái chiêu nhưng cũng không thiếu phần hài hước, và những bài học hợp thời bổ ích như việc đứng lên chống lại bọn bắt nạt của người bạn “cùng tính hướng” Ethan.
Cuộc sống tương đối an yên của cậu bạn Simon bỗng chốc nổi trận sóng to gió lớn khi vô tình bắt gặp một bài viết thú nhận tính hướng của một người bạn đồng học bí ẩn đăng tải lên mạng với bút danh “Blue”. Quá tò mò cũng như muốn làm thân với Blue, Simon đã tạo mail mới và bắt đầu trò chuyện với nhau. Cách khai thác câu chuyện tình yêu gà bông trên Internet đã mang lại nhiều cung bậc cảm xúc, từ ám ảnh, dày vò đến khát khao, bay bổng rồi lại đắm chìm trong mật ngọt. Cảnh Simon lén nhắn tin bằng một tay dưới hộc bàn trong khi mắt vẫn dán lên bảng có lẽ là chuyện không của riêng ai khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Không thể mãi ở trong bóng tối, Simon kiên quyết truy tìm tung tích của Blue, từ đó dẫn người xem đến hàng loạt những câu chuyện mới, màu sắc mới từ những “nghi phạm” của Simon, để rồi nhận ra cộng đồng LGBT vừa muôn màu muôn vẻ, nhưng cũng vừa chân thật và bình dị như bất cứ ai. Blue có thể là “hot boy vạn người mê” Bram, hay cậu bồi bàn đáng yêu ở Waffle House Lyle, hoặc thậm chí tay dương cầm vương giả Cal. Từng đoạn tra vấn nghi phạm như nuôi lửa bên trong Simon, thúc đẩy cậu thiếu niên phải tìm ra “crush” của cuộc đời mình.
Nhưng mọi chuyện lại một lần nữa bị xáo trộn, cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Tính hướng của Simon cuối cùng bị phát hiện bởi bạn học tọc mạch Martin, qua đó ép buộc Simon giúp đỡ cưa cẩm Abby. Thế nhưng, Nick cũng đang “đổ” Abby, giữa huynh đệ và tính hướng, Simon rốt cuộc sẽ chọn bên nào? Lại còn nhận ra ánh mắt chứa chan tình cảm của cô bạn thanh mai trúc mã Leah, chặng đường đi tìm người thương của Simon đang trở nên chông gai hơn bao giờ hết.
Qua bàn tay của Greg Berlanti, Love, Simon như một đĩa salad thanh mát hoà trộn từ những thăng trầm trong tình yêu đầu đời của Simon, kết hợp với những rắc rối xoay quanh bạn bè, trường lớp, gia đình và nội tâm bản thân. Bộ phim là câu chuyện mà bất cứ ai khi xem cũng thấy mình trong đó: dùng cả thanh xuân theo đuổi người trong mộng, nhưng được kịch tính hoá bằng những mảnh ghép khoảnh khắc rất đời thường, cuối cùng đẩy lên cao trào đến uất nghẹn, như từng nhịp trống sẵn sàng phá vỡ buồng thở nơi lồng ngực.
Nick Robinson đã hoàn toàn lột tả được một Simon trong nóng ngoài lạnh, tưởng chừng đang theo đuổi một cuộc sống thiếu niên chuẩn mực kiểu Mỹ, nhưng bên trong lại tồn tại những cỗ cảm xúc mãnh liệt, những bí mật chớ dám gọi tên, những khát vọng chỉ bản thân dám theo đuổi. Cũng không quên đề cập đến phần nhạc phim đỉnh cao từ Rob Simonsen, giúp mọi chi tiết nhỏ nhặt nhất lại trở nên quan trọng nhất, làm cho từng giây từng phút của bộ phim đều khiến trái tim phải lỡ nhịp.
Sau khi thưởng thức xong Love, Simon, có lẽ nhiều khán giả sẽ ước rằng giá như phim mang một chút u tối, một chút tuyệt vọng, một chút bi kịch. Tuy nhiên, giữa nhiều tựa phim làm quá nhiều ánh mắt phải rơi lệ như Moonlight, Call Me By Your Name, The Love of Siam,… thì một ánh nắng ấm áp của Greg Berlanti là cần thiết, giúp làm dịu đi những căng thẳng và áp lực, đồng thời mở ra cánh cửa mới, chân trời mới cho cộng đồng LGBT vẫn còn đang miệt mài đấu tranh cho bình đẳng và hạnh phúc.
Hãy tìm đến Love, Simon nếu bạn đã từng yêu cuồng nhiệt vào những tháng ngày tuổi trẻ, hay đơn giản chỉ muốn tìm một bến bờ bình yên sau một ngày vội vã xô bồ, để rồi chìm đắm trong những ưu tư, kỉ niệm xưa cũ, đến nỗi phải thốt lên rằng “Tôi cũng đã có cho mình những tháng năm rực rỡ như vậy, Simon thương mến!“
-
Điệp viên Ethan Hunt bị vướng vào rắc rối thêm một lần nữa “và giờ thế giới đang lâm nguy”. Câu chuyện giật gân được hé lộ phần nào qua những pha hành động kịch tính, nghẹt thở, từ cuộc chạy đua “marathon” của anh chàng Ethan Hunt, chạm trán trên không, đến việc tẩu thoát ngoạn mục khỏi đội ngũ cảnh sát hùng hậu, rồi màn đối đầu giữa những người chiến hữu ngang tài sức…
-
Groundhog Day (1993) - Phil là biên tập viên khó chịu của chương trình dự báo thời tiết. Anh ta ghét cay ghét đắng ngày 2/2 trong năm, khi phải đến xứ Punxsutawney giá lạnh ghi hình cho "Ngày chuột chũi". Mọi thứ đều bình thường cho đến khi Phil phát hiện ra, anh ta sẽ phải sống đi sống lại mãi ngày 2/2 đó đến vô tận.
Có những bộ phim luôn hay hơn sau mỗi lần xem. Tôi có một vài bộ phim không bao giờ xóa. Và thật lạ lùng bởi ma thuật này. Những cảnh phim vẫn thế, âm nhạc vẫn thế, diễn viên vẫn thế, không có gì thay đổi, nhưng ta lại tìm thấy những điều mới, cảm xúc mới, nhận ra những điều ta chưa thấy trước đây và thấm thía hơn những gì ta đã biết.
Tôi biết một anh chàng trên Internet đã xem Groundhog Day (Ngày chuột chũi) 194 lần. Anh ta tên Robert Black, vẫn tiếp tục viết cho project có tên phim, với dòng giới thiệu “Watching a movie over and over again, a movie about living a day over and over again, because that is what life is all about” (Xem một bộ phim hết lần này đến lần khác, bộ phim kể về việc sống một ngày mãi mãi, vì đó là cách cuộc sống diễn ra). Robert viết về những cảm xúc của mình khi đang xem phim, về cuộc sống. Bạn có thể tưởng tượng được không, hơn 200 entries trong hai năm qua đều bắt đầu cùng một cách: anh xem một cảnh phim nào đó, dừng lại và viết.
Anh là minh chứng cho việc một người có thể yêu một bộ phim đến mức nào?
Hay có thể hỏi ngược lại: một bộ phim như thế nào để một người có thể yêu đến thế?
Tôi viết những dòng này giữa những giai điệu bản soundtrack “The Ice Sculpture”, bản nhạc dịu dàng của một trong những cảnh đẹp nhất trong phim. Rita ngồi giữa con phố đêm lạnh lẽo mùa đông, chờ đợi. Cô đã “mua” được Phil trong buổi đấu giá bằng tất cả số tiền cô có và anh đang tặng cô một bức điêu khắc băng. Rita, với gương mặt ửng hồng và nụ cười hạnh phúc, nói rằng cô đang chết cóng đây. Phil hài hước nói rằng anh muốn xứng đáng với từng đồng xu cô bỏ ra. Khi anh quay bức tượng lại, cô nói “Thật tuyệt diệu” rồi quay lại nhìn anh, xúc động, đôi mắt cô có một thứ ánh sáng nào đó. “Làm sao anh làm được điều này?”, Rita hỏi.
“Anh nhớ những đường nét trên gương mặt em rõ đến mức, anh có thể làm nó với đôi mắt anh nhắm lại.”
Và tuyết rơi. Tôi tưởng tượng cảnh phim này có thể sến súa đến mức nào, nếu không phải là Bill Murray, nếu không phải là McDowell, nếu không phải dưới bàn tay của đạo diễn Harold Ramis, mà Bill đã cộng tác trong hai phần Ghost Buster. Khoảnh khắc đó diễn ra giản dị, tự nhiên và đầy cảm xúc, Rita hạnh phúc và sáng ngời, còn Phil đứng đâu đó giữa yêu thương và đau khổ. Đôi mắt anh thấm đượm nỗi buồn, vì anh biết khoảnh khắc này sẽ qua. Và sáng hôm sau, “ngày hôm nay” sẽ trở lại và Rita sẽ không còn nhớ gì nữa.
Đó là tình cảnh mà anh mắc phải ở Punxsutawney, một ngôi làng nhỏ phía Tây bang Pennsylvania. Ở đây, ngày 2 tháng 2 mỗi năm được gọi là “Ngày chuột chũi”. Người dân sẽ tụ tập lại xem ngài thị trưởng “gõ cửa” và xem bóng của chú chuột Phil. Nếu chú ta thấy chiếc bóng của mình, nghĩa là mùa đông sẽ dài thêm 6 tuần. Nếu không, mùa xuân sẽ đến sớm. Là một phóng viên thời tiết, Phil Connor bắt buộc phải đến đây hàng năm để đưa tin. Không biết có phải vì trùng tên với một con gặm nhấm nổi tiếng hay không, Phil ghét cay ghét đắng nơi này.
Nhưng “Ngày chuột chũi” có lẽ không phải điều duy nhất khiến Phil thấy khó chịu. Bởi anh ta là một kẻ gàn dở và ích kỷ, theo lời tay quay phim Larry (Christ Elliott) nói với Rita. Cô là biên tập viên mới về đài và được phân công đi cùng. Phil liên tục mỉa mai cả hai trong chuyến đi, và không ngại tỏ ra mình đáng ghét. Nhưng không chỉ khinh khỉnh đồng nghiệp, Phil dị ứng với tất cả mọi người. Từ bà chủ khách sạn, đến vị khách gặp ở cầu thang, anh bạn cũ bán bảo hiểm, tất cả. Khi Rita khen ngợi sự hào hứng và nồng nhiệt của người dân, Phil nhăn mặt nói “Lũ nhà quê ấy mà”. Phil chỉ muốn biến khỏi đây. Khi cơn bão đến và chặn đứng đường trở về, anh ta phàn nàn với viên cảnh sát. “Anh không xem dự báo thời tiết à?”, viên cảnh sát hỏi. “Tôi ‘đẻ’ ra cái dự báo của anh chứ đâu”. Anh ta nghĩ mình thông minh hơn mọi người ở ngôi làng quê mùa này.
Nhưng điều kỳ lạ xảy đến. Sáng hôm sau, Phil thức giấc và cảm thấy quen thuộc. Chương trình Radio phát giống y hệt hôm trước, vẫn hai anh chàng DJ đang đùa giỡn cùng bản nhạc “I got you babe” của Sonny và Cher. Phil mở cửa sổ và nhìn thấy khung cảnh là của ngày hôm qua. Đây là lúc câu chuyện bắt đầu. Chúa, hay ai đó, đã trừng phạt thái độ của Phil bằng cách bắt anh phải sống lại ngày anh chán ghét nhất, ở nơi anh chán ghét nhất, mãi mãi. Dù Phil có làm gì đi nữa, khi đồng hồ điểm 6 giờ sáng, mọi thứ đều quay trở lại “Ngày chuột chũi” một lần nữa.
Nếu là bạn, bạn sẽ làm gì trong tình cảnh của Phil? Biên kịch Danny Rubin đã khéo léo dẫn dắt câu chuyện theo đúng cách mà chúng ta tưởng tượng. Ai cũng dễ dàng nhận ra, sống mãi cùng một ngày đồng nghĩa với sự bất tử và tự do. Phil có thể làm bất cứ điều gì anh ta muốn mà không sợ hậu quả. Anh có thể ăn tất cả đồ ngọt ưa thích, tính toán để trộm tiền và trở thành đại gia (nếu bị bắt chỉ cần chờ đến hôm sau), cưa cẩm và ngủ với mọi cô gái trong làng… Nhưng những niềm vui ấy sớm qua nhanh, để lại nỗi chán chường và mệt mỏi. Mọi điều anh ta làm, những người đã gặp, những gì đã diễn ra, đều bị xóa sạch sẽ vào sáng hôm sau.
Việc sống đi sống lại cùng một ngày chỉ là cái nền cho một điều lớn lao hơn, đối với Phil, đó là sự thay đổi. Có một lý do nào đó để anh bị kẹt lại, và chắc chắn sẽ có một lý do để giải thoát anh, và tôi chờ đợi. Chỉ có thể là tình yêu, tôi đã nghĩ thế, và Rita xuất hiện. Khi đã có thời gian, Phil bắt đầu nhìn mọi người xung quanh một cách rõ ràng hơn, anh nhìn thấy cô. Ban đầu chỉ là tán tỉnh, sau nhiều nỗ lực và mánh khóe, Phil đã có thể bắt chuyện và hẹn hò với Rita. Khi dành nhiều thời gian đến thế cho một người, Phil dần hiểu và yêu Rita. Cô tốt bụng, tử tế, yêu văn chương, có một nụ cười rạng rỡ và tâm hồn đẹp. Cô giống như một thiên thần. Ngược hẳn với Phil. Anh tìm cách để khiến cô yêu anh, nhưng luôn thất bại. Đó là lúc anh nhận ra tình yêu không phải thứ có được bằng sự giả dối, dù có thử bao nhiêu lần đi nữa.
Tôi yêu những bộ phim về sự thay đổi của một con người. Một phần, vì đó là điều tôi hiếm khi làm được. Phần khác, nó mang lại niềm tin rằng con người, dù bất kỳ ai, luôn có thể trở nên tốt đẹp hơn. Câu hỏi mà biên kịch Rubin đặt ra khi viết Groundhog Day là, liệu một người sẽ như thế nào nếu anh ta được sống bất tử? Tất nhiên, anh ta sẽ sa đọa, sẽ hư hỏng, sẽ thỏa mãn tất cả những lạc thú mà bình thường anh ta không có được. Nhưng cho đến cuối cùng, tất cả chúng ta đều sẽ như Phil, trở về với bản chất cơ bản nhất của con người: yêu thương và học hỏi. Đó là hai điều sẽ giúp chúng ta sống mãi qua những tháng năm bất tận. Đó là điều khiến niềm vui sống không bao giờ cạn.
Phil học cách để yêu thương, không chỉ Rita mà tất cả những người dân trong thị trấn. Anh có thời gian để gặp họ, biết họ, hiểu họ. Anh bắt đầu hiểu những giá trị khác của cuộc sống, điều khiến tôi bất ngờ ở lần đầu xem phim. Tôi ngỡ rằng tình yêu sẽ cứu giúp Phil, nhưng không phải, không chỉ có thế. Anh đang dần yêu chính nơi anh từng ghét, yêu những con người anh từng ghét, và hiểu ra ý nghĩa của một ngày lễ anh đến hàng năm nhưng chưa bao giờ hiểu. Anh giúp đỡ cụ già ăn xin, ở bên cụ để biết rằng đó là ngày cuối cùng cụ sống, không thể thay đổi. Mỗi đồng tiền lẻ hay một bữa cơm ngon với cụ, là một ân huệ cuối đời mà anh đã thờ ơ bỏ qua. Phil học được cách quan tâm thực sự, vì anh đã biết cuộc sống mong manh đến thế nào. Mỗi con người trong ngôi làng, giống như cụ già, không còn là những người “quê mùa ngốc nghếch” nữa. Họ có tình cảm, có vấn đề, có rắc rối, trong một ngày, họ có thể chết, gãy chân vì té cây, lủng bánh xe, mắc nghẹn, đau lưng… Phil sống đủ lâu với họ để trở thành người thân của họ, và anh yêu họ với những điều bình dị đẹp đẽ ấy. Anh hiểu ra rằng, “Ngày chuột chũi” không phải chỉ là một dịp lễ với trò ngớ ngẩn, mà chứa đựng hi vọng và sức sống của mỗi người dân, rằng mùa đông cũng có thể trở nên ấm áp bởi tình người và sự lạc quan.
Và rồi, anh có được trái tim của Rita. Một cách tự nhiên nhất, anh trở thành hình mẫu lý tưởng cô từng mộng mơ, mà không hề có chủ đích. Thật khó để không cảm thấy nguồn cảm hứng đó, khi chứng kiến Phil học Piano, học điêu khắc, đọc sách, trở thành một con người mới. Từ một gã khốn ban đầu, anh thành người trong mộng của Rita, một người tốt bụng, luôn giúp đỡ mọi người – một ai đó trái ngược hẳn với anh ở đầu phim. Khi quay phim này, mỗi khi đạo diễn Ramis giải thích một cảnh quay, Bill Murray thường hỏi lại: “Vậy là Phil tốt hay Phil xấu?”. Ban đầu, vị đạo diễn cũng đang cân nhắc rất nhiều diễn viên cho vai Phil, có cả Tom Hank hay John Travolta, nhưng từ chối vì “họ trông quá tốt”. Bill có đủ cả hai thái cực cho sự thay đổi, nhưng điều thuyết phục trong phim, chúng ta nhận ra đó vẫn là Phil. Không phải là một Phil khác hẳn, mà là một Phil tốt đẹp hơn. Anh muốn trở thành người tốt và học cách trở thành người tốt. Đó cũng là điều chúng ta có thể làm được, trở thành một “chính mình” ngày mai tốt hơn hôm nay.
Giống như lời của anh chàng mê phim Robert Black, cuộc sống thật sự cũng không khác lắm với Groundhog day, khi chúng ta đang sống đi sống lại cùng một ngày, ngày “hôm nay”. Và chúng ta nên trân trọng mỗi khoảnh khắc đang có, vì không cần phải hứng chịu một lời nguyền như Phil, chúng ta cũng biết rằng tất cả sẽ trôi qua. Nhưng chỉ những người ngay khi trải qua những giây phút hạnh phúc nhất, mà vẫn mang trong lòng nỗi tiếc nuối cho khoảnh khắc nó qua đi, mới là những người cảm nhận được niềm hạnh phúc trọn vẹn. Tôi nhớ đến một vài dòng trong quyển sách “Plato và con thú mỏ vịt bước vào quán bar” vừa đọc xong mấy ngày trước. Tác giả nói về những người hiện sinh luôn suy nghĩ về cái chết, và cho rằng đó cũng là một cách sống hay. Sống núp bóng cái chết. “Để sống đích thực, chúng ta phải đối mặt với sự thật là chúng ta sẽ phải chết, và nhận lấy trách nhiệm sống một cuộc đời ý nghĩa dưới bóng cái chết”. Tương tự như nhau.
Tôi chưa xem Groundhog Day nhiều như Black, nhưng tôi hiểu vì sao anh có thể xem đi xem lại mãi một bộ phim mà không chán. Đây chính là kiểu phim như thế, cổ vũ cho những điều tốt đẹp trong mỗi con người, cổ vũ sống yêu thương, chan hòa và nhân ái với đồng loại, cổ vũ chúng ta chú ý và dành thời gian nhiều hơn để hiểu được họ, cổ vũ mỗi người thay đổi và phát triển khả năng bản thân mỗi ngày. Bộ phim còn mang lại cảm xúc về tình yêu cuộc sống, chúng ta còn mong gì hơn nữa? Với tôi, tôi đã yêu không gian cổ kính của những bộ phim cũ từ trước, tôi đang yêu những giai điệu saxophone nhẹ nhàng của George Fenton, yêu những cảnh phim đẹp và giàu cảm xúc, nó khiến tôi tin tưởng vào tình yêu và niềm hạnh phúc, và tôi sẽ còn yêu gì nữa ở bộ phim này? Tôi sẽ để dành nó cho một “hôm nay” khác. Những bộ phim hay, cũng như những quyển sách hay, chúng không có tuổi nhưng sẽ luôn lớn lên theo ta, theo mỗi trải nghiệm và sự trưởng thành ta có được.
TỔNG KẾT: Bộ phim khiến ta muốn sống mỗi ngày vừa như ngày cuối cùng, vừa như ngày đầu tiên.
-
Có những người sinh ra đã được trời phú cho một khả năng nào đó, như ca hát, hội họa, điền kinh hay diễn xuất... Thế nhưng có tài năng vượt ngục như Ray Breslin (Sylvester Stallone thủ vai) trong "Escape Plan" (tựa Việt là Vượt Ngục) thì quả thực sự hiếm. Chính nhờ biệt tài đó mà các nhà làm phim Hollywood đã xây dựng được bộ phim hành động, ly kỳ giàu tính giải trí kể trên, xoay quanh hành trình đào thoát của nhân vật Ray khỏi nhà tù kiên cố nhất thế giới. Khác với những tù nhân bình thường bị đưa vào sau song sắt để giữ an nguy cho xã hội, Ray không hề gây ra một tội ác nào mà đơn giản chỉ thực hiện công việc của mình. Ông làm việc cho một công ty an ninh, với nhiệm vụ vờ thâm nhập vào các nhà tù với tư cách một tội nhân để rồi từ đó tìm ra các kẽ hở trong hệ thống và vượt ngục thành công. Nhờ công việc của Ray mà các nhà tù có thể chấn chỉnh lại những thiếu sót của mình còn bản thân ông được tận hưởng cảm giác kịch tính và thử thách mình mỗi khi đối đầu với một hệ thống canh gác mới. Thế nhưng, Ray không ngờ sẽ có ngày mình phải đối đầu với nhà tù "The Tomb" (Ngôi mộ) - một chương trình đang trong thử nghiệm và chứa những tên tù "cặn bã nhất mà không một chính phủ nào muốn tồn tại." Đặc biệt hơn, Ray bị đưa đến nhà ngục trên bằng một cách bạo lực, ngay trước mắt hai đồng nghiệp Hush (50 Cent) và Abigail (Amy Ryan). Tỉnh dậy sau khi bị bắt cóc bất ngờ, Ray nhận ra mình đã ở trong "The Tomb" và nhanh chóng nhận ra biệt danh "nhà tù kiên cố nhất trần gian" không phải hữu danh vô thực. Mỗi xà-lim của tù nhân đều đươc thiết kế như những chiếc lồng trong suốt và có camera giám sát 24/24, khiến cho mọi hoạt động của họ đều bị nằm trong tầm kiểm soát. Đứng đầu trại giam là gã giám đốc Hobbs (Jim Caviezel) mưu mô còn dưới trướng hắn là những tên cai ngục máu lạnh, sẵn sàng ra tay tàn độc chẳng thua gì những tên du côn đáng bị tống vào tù. Không hề biết mình đang ở đâu và cũng chẳng thể liên hệ với các đồng nghiệp để được cứu viện, Ray đành kết thân với Rott Mayer (Arnold Schwarzenegger), một tù nhân "có số má" tại đây. Cùng nhau, họ lên kế hoạch để đào tẩu khỏi ngôi mộ sống này... Điểm thu hút lớn nhất của "Escape Plan" là hai diễn viên chính: "Rambo" Sylvester Stallone và "Kẻ hủy diệt" Arnold Schwarzenegger. Dù cả hai đều đã ở tuổi gần 70 nhưng việc thường xuyên tập để giữ gìn vóc dáng khiến hai ngôi sao này vẫn phù hợp để vào vai một bộ phim hành động. Từng một thời là những ông vua trong các bộ phim rượt đuổi, bắn súng của Hollywood song trong "Escape Plan", hai người lại thiên về dùng đầu hơn dùng sức. Đây là điều trái ngược với bộ phim gần nhất hai cây đại thụ này cùng đóng chung là hai phần "The Expendables". Việc giảm bớt yếu tố hành động và thay vào đó là những màn đấu trí cân não giúp khán giả cảm thấy hào hứng hơn khi xem phim, bởi từ trước tới nay hai nam diễn viên chính luôn được đóng khung trong hình tượng những người hùng cơ bắp. Và kết quả là khán giả nhận được một "Prison Break" phiên bản điện ảnh: có phần kém cạnh nếu xét về độ thông minh trong kế hoạch đào tẩu nhưng vẫn đảm bảo tính giải trí. Nếu như trong loạt phim truyền hình nổi tiếng kể trên, chàng Michael Scofield khiến người xem bị thôi miên bởi một kế hoạch vượt ngục được tính toán đến từng chi tiết thì trong "Escape Plan," khán giả lại thích thú với những yếu tố gay cấn, bất ngờ được pha thêm chút hài hước. Bộ phim được làm một cách đơn giản và dễ hiểu nhưng không hề dễ dãi, khi các nhà biên kịch đã xây dựng một kịch bản chỉn chu, có những nút thắt - mở để tạo sự hấp dẫn, bất ngờ và cả một kẻ phản diện xảo quyệt Hobbs để đối chọi với hai "ông già gân".
Trong bối cảnh nhà tủ, nhân vật Ray làm đầu não cho cuộc đào tẩu với những phương án "điên rồ", sử dụng những vật dụng tưởng như bình thường nhất cho công cuộc vượt ngục. Bên cạnh "bộ não" Ray là nhân vật Rottmayer, kẻ dùng nắm đấm để nói chuyện và gây ra không ít tràng cười bởi những câu thoại độc đáo và hài hước. Nhưng như một lẽ dĩ nhiên, một bộ phim sở hữu cả Stallone và Schwarzenegger vẫn buộc phải có những màn hành động. Đạo diễn Mikael Hafstrom đã khéo léo dàn xếp để mạch phim dần trở nên gay cấn khi về cuối và bùng nổ với các màn hành động, từ cận chiến cho tới bắn súng. Trong đó, nổi bật nhất là vị cựu thống đốc bang California với màn đấu súng làm người hâm mộ liên tưởng tới hình ảnh kinh điển của ông trong "Kẻ hủy diệt". Là một bộ phim về những tù nhân, "Escape Plan" có những hình ảnh bạo lực như tra khảo bằng cách trấn nước hay những ngôn ngữ khá nhạy cảm, do vậy bộ phim chỉ dành cho những khán giả trên 17 tuổi. Song một khi bạn đáp ứng được yêu cầu về độ tuổi trên thì đây hoàn toàn có thể là một lựa chọn giải trí ổn khi ra rạp, bởi bộ phim sở hữu sức hấp dẫn, ly kỳ trong cốt truyện, những màn hành động đẹp mắt và cả sự xuất hiện của hai nam diễn viên hành động lẫy lừng./.
-
Forrest Gump là cái tên quen thuộc nằm trong top đầu của bất kì bảng xếp hạng phim hay nhất mọi thời đại trên thế giới. Bộ phim có lối kể chuyện khá kì lạ dựa trên một kịch bản phim xuất sắc xoay quanh cuộc đời của một nhân vật độc đáo mà ta không tìm thấy ở bất kì bộ phim nào khác. Phần đầu phim khá chậm rãi, đôi lúc gây nhàm chán cho người xem. Nhưng phần sau của phim thật sự đã tạo nên danh tiếng cho bộ phim này. Vài chi tiết phim đã gây ấn tượng cho mình sâu sắc!
Bài phát biểu của Forrest Gump về chiến tranh Việt Nam
Forrest Gump đã tham chiến ở Việt Nam. Kết thúc chiến tranh, Forrest được mời đến phát biểu của trong một cuộc biểu tình phản chiến. Lúc Forrest chuẩn bị cất lời, có một vị viên chức quân đội đã ngắt kết nối micro với loa, khiến cho lời nói của Forrest không đến được với đám đông.
Mình đã thực sự kinh ngạc ở chi tiết này của bộ phim: "Chiến tranh phi nghĩa thì có gì đáng mà nói!"
Cú đấm của Forrest Gump
Forrest có một trí tuệ có kém hơn người bình thường. Cậu sống đơn giản như một cậu bé lên 7. Bởi là cậu bé, Forrest có bao giờ gây hiềm khích với ai. Cú đấm của Forrest gây bất ngờ cho khán giả xem phim.
Chuyện là Forrest thầm thương cô bạn gái Jenny từ thời thơ ấu. Dòng đời đẩy cả hai theo những ngã rẻ rất khác nhau. Tình cờ, Forrest gặp lại Jenny tại cuộc biểu tình phản chiến. Jenny lúc này có một anh người yêu, là lãnh đạo của một nhóm biểu tình. Jenny giới thiệu Forrest với mọi người ở đấy, bao gồm cả anh người yêu của cô và một thanh niên da màu, tham gia biểu tình phản chiến vì chính phủ Mỹ bắt những người da màu khác tham gia cuộc chiến ở Việt Nam. Anh thanh niên da màu gào vào mặt Forrest về sự bất công, về sự phân biệt đối xử của xã hội với những người da màu. Không chú ý lắm những lời này, Forrest bỗng chú ý Jenny tranh cãi dữ dội với người yêu. Một cái tát mạnh đã hằn lên mặt của Jenny. Không chút chần chờ, Forrest lao vào đấm tới tấp anh người yêu của Jenny vì tội vũ phu với phụ nữ. Phải nhấn mạnh rằng, chỉ có mỗi Forrest hành động ở thời điểm đó. Đối với những người khác, họ cứ dửng dưng như thầm khẳng định, việc một cô gái như Jenny bị bạn trai tát là chuyện bình thường.
Ta đi biểu tình để phản đối việc phi nghĩa. Nhưng rồi có vài việc phi nghĩa khác, ta lại lờ đi và xem là không quan trọng. Là ta ngu ngốc hay là do ta cũng xấu xa như những kẻ gây ra chiến tranh phi nghĩa? Ta chẳng biết nữa.
Cơn bão trên chuyến tàu đi bắt tôm
Hồi đi tham chiến ở Việt Nam, Forrest chịu sự quản lý bởi trung úy Dan (Lieutenant Dan), một người cộc cằn nhưng luôn hết mình vì đồng đội. Sau chiến tranh, trung úy Dan bị mất 2 chân. Từ một trung úy hét ra lửa thành một người tàn tật, cả việc dy chuyển cũng thấy khó khăn, trung úy Đan trở thành một kẻ bất đắc chí, cộc cằn, khó ưa. Trung úy Đan ghen tị với cuộc sống của Forrest, người đang nổi tiếng khắp nước Mỹ bởi tham gia một trận bóng bàn vì hòa bình Mỹ-Trung.
Forrest sau thời gian làm người nổi tiếng, thì có mua một chuyến tàu câu tôm và mời trung úy Đan tham gia cùng. Trung úy Đan đồng ý. Có một hôm trời nổi cơn giông lớn, lớn chưa từng thấy trước đây. Mọi chiếc thuyền câu tôm trong bến cảng đều được neo ở bờ, chỉ mỗi chiếc thuyền của trung úy Đan và Forrest là còn lênh đênh trên con sóng dữ. Bão càng to, trung úy Đan càng đắc ý, lái thuyền đi tới trước. Sáng hôm sau đài báo đưa tin, mọi con thuyền ở quận đã bị bão làm hư hỏng nặng, chỉ trừ thuyền của Forrest! Trung úy Đan đứng bên mạn thuyền, rồi nói cảm ơn Forrest Gump.
Có lẽ cách tốt nhất để vượt qua một nỗi đau, một khó khăn trong cuộc sống là dũng cảm đương đầu với nó. Không trách móc, không ganh tị và không run sợ. Đối diện với nó và vượt qua thôi!
Forrest Gump chạy bộ quanh nước Mỹ
Sau cú tát, Jenny tạm biệt Forrest và rời đi. Chuyện tình đơn phương của chàng trai tưởng sẽ dừng lại ở đó mãi mãi.
Nhưng không, bằng một lý do nào đó, Jenny đã quay trở lại nhà của Forrest. Hai người đã có quãng thời gian thực sự hạnh phúc bên nhau. Đến một ngày, Forrest cầu hôn. Jenny thực sự tin Forrest là một người chồng tốt, nhưng ở lúc đó anh không hợp với cô hoặc cô đã nghĩ rằng bản thân không xứng với tình cảm của Forrest. Jenny từ chối. Vào đêm đó, Jenny chủ động vào phòng ân ái với Forrest. Sáng sớm sau đó, Jenny bắt xe bỏ đi.
Forrest một lần nữa lạc mất Jenny. Lúc đó, anh chỉ muốn chạy. Anh chạy xa nhất có thể, ngày này qua ngày nọ, anh chỉ dừng lại khi ngủ. Việc chạy của Forrest dần thu hút sự chú ý của giới truyền thông, họ hỏi anh chạy vì điều gì, vì hòa bình thế giới, vì phụ nữ, hay vì trẻ em?! Forrest trả lời, anh chạy đơn giản bởi anh thấy vui. Vài người biết đến sự kiện, cũng xách giày chạy theo Forrest và họ thấy cuộc sống khá hơn. Một trong số đó đã tìm thấy ý tưởng kinh doanh và giàu lên. Sau hơn 3 năm, Forrest Gump dừng chạy. Đám đông chạy theo sau anh giữ im lặng để nghe anh nói. "Tôi mệt rồi, tôi nên về nhà thôi!", Forrest Gump đã nói vậy.
"Mình thích thì mình làm thôi", quả thật đây là lí do chân thành và tuyệt vời nhất để làm một điều gì đó trên đời này. Và biết đâu đấy, khi ta theo đuổi nó đủ lâu, thành quả đem lại là không gì đong đếm được.
Kết
Bộ phim còn nhiều chi tiết mang tính biểu tượng khác và mỗi người xem xẽ có những cảm nhận khác nhau.
-
Phim kinh dị của Jennifer Lawrence và bạn trai cũ đầy hình ảnh ẩn dụ, gây phân cực dữ dội trong khán giả và giới phê bình.
Tác phẩm của nhà làm phim Mỹ Darren Aronofsky là một trong các phim gây tranh cãi nhất năm nay. Ra mắt ở Liên hoan phim Venice hồi tháng 9, phim khiến khán phòng chia làm hai phe: một bên vỗ tay tán thưởng còn một bên la ó. Khi phát hành ở Mỹ vào tháng 9, Mother! khiến nhiều người phẫn nộ và bị chấm điểm F (thấp nhất) trong hệ thống đánh giá CinemaScore dành cho khán giả. Trong lịch sử điện ảnh, chỉ có 19 phim phải nhận đánh giá này.
Nhiều trang như inews, Newshub, New York Times gọi đây là tác phẩm gây sốc, gây tranh cãi nhất năm.
Nhìn chung, các ý kiến về phim phân cực dữ dội, có cây bút chấm phim điểm 0 nhưng cũng có người gọi đây là tuyệt tác. Nhiều khán giả ở Mỹ sau khi xem xong cho biết hoàn toàn không hiểu nổi phim nói gì. Tuy nhiên, có thể khẳng định Mother! là tác phẩm dị biệt của Aronofsky, hàm chứa nỗ lực vượt khỏi tự sự thông thường để kể một câu chuyện nhiều tính ẩn dụ.
Phim mào đầu với một cảnh gây khó hiểu khi người chồng trung niên (Javier Bardem đóng) đặt một vật thể pha lê vào bệ, khiến cả ngôi nhà tươi mới trở lại sau vụ hỏa hoạn trước đó. Từ đó, tác phẩm được chia làm hai nửa với cấu trúc gần đối xứng. Bối cảnh phim là một ngôi nhà ở vùng hẻo lánh, nơi người chồng - một nhà thơ đang bế tắc trong việc sáng tác - sống cùng cô vợ trẻ (Jennifer Lawrence đóng). Cuộc sống của họ bị khuấy động với sự xuất hiện của những vị khách không mời - một cặp vợ chồng lớn tuổi có cách cư xử trơ tráo đến quái lạ (Ed Harris và Michelle Pfeiffer đóng).
Sau nửa đầu phim gần giống thể loại kinh dị tâm lý, bước ngoặt của phim diễn ra khi người vợ có bầu. Những người khách kỳ quặc nườm nượp kéo tới ngôi nhà, khiến cô ngày càng cảm thấy sợ hãi. Câu chuyện mang hơi hướm kiệt tác Rosemary's Baby của Roman Polanski, nhưng sau đó leo thang với nhiều hình ảnh trần trụi và đẫm máu diễn ra với tốc độ chóng mặt, nối dài đến đoạn kết cũng gây sốc không kém.
Darren Aronofsky thể hiện rõ dụng ý đặt người vợ vào trung tâm câu chuyện qua cách quay phim. Tác phẩm được quay bằng máy cầm tay, với cận cảnh gương mặt Jennifer Lawrence chiếm ưu thế, trừ một số cảnh thể hiện bước nhảy thời gian (như từ lúc cô mới mang thai đến khi thai lớn). Ở một số trích đoạn, máy quay được đặt để tạo điểm nhìn qua vai minh tinh, thể hiện thế giới từ hướng của người vợ. Với phong cách này, khán giả luôn tập trung vào cô ngay cả trong các cảnh đông nhân vật.
Gần như toàn bộ cảnh quay diễn ra bên trong ngôi nhà. Với màu lặng (các màu pha trộn thêm màu xám), ánh sáng yếu ớt, những hình ảnh kỳ dị và sự vắng bóng của nhạc phim, tác phẩm mang không khí gần giống một giấc mơ hay ảo giác. Nhịp điệu thay đổi từ bình lặng đến dữ dội, sau đó như một trận cuồng phong ở phần cuối.
Tác phẩm có nhiều tầng lớp, dày đặc các tình tiết và hình ảnh biểu tượng đến nỗi mỗi khán giả có thể tự đưa ra cách giải nghĩa riêng. Phim có thể là dụ ngôn về chân dung người nghệ sĩ đắm chìm vào nghệ thuật đến nỗi quên thực tại, vòng lặp của hỗn loạn và trật tự, sự xâm phạm của đám đông vào các khoảng trống riêng tư, thất bại của nền văn minh trước sự ngu muội, sự tàn phá môi trường hay sự hy sinh vô tận của phái nữ.
Cách đặt tên nhân vật trong phần credits (giới thiệu đoàn phim) gây liên tưởng đến tôn giáo. Không ai có tên riêng mà chỉ được gọi bằng các danh hiệu. Người vợ là "mother" (mẹ), người chồng là "Him" (viết hoa với ẩn ý Thượng Đế), người khách nam là "man" (người đàn ông) còn người khách nữ là "woman" (người đàn bà). Tôn giáo từng là chủ đề của Aronofsky trong các phim The Fountain và Noah.
Trên mặt báo, đạo diễn sinh năm 1969 thừa nhận việc lồng ghép các ý tưởng về tôn giáo. Anh chia sẻ trên Indiewire: "Khi viết kịch bản, tôi nảy ra ý định rằng sẽ xây dựng một dụ ngôn theo phong cách của Luis Buñuel - nhà làm phim Mexico. Tôi lấy một phần của thế giới, nhét nó vào một khoảng trống và tạo ra một cuộc đối thoại về xã hội, lấy nền tảng là một câu chuyện về con người. Tôi tìm ra cách cấu trúc nó quanh một đường dây chính liên quan đến Kinh Thánh, và viết rất nhanh từ đó".
Nếu hiểu theo hướng này, Mother! xoay quanh mối quan hệ giữa Thượng Đế và loài người do ngài tạo nên. Hai người khách đầu tiên là Adam và Eve, những con người đầu tiên được tạo ra. Vì gây rối, họ bị tống khỏi Vườn Địa Đàng (căn nhà), nhưng rồi những thế hệ kế cận lại sinh sôi, phủ đầy mặt đất quấy rầy Thượng Đế. Trong khi đó, nhân vật người vợ là mẹ Trái đất (Mother Earth), bất lực chứng kiến sự gia tăng dân số và hủy hoại môi trường của con người. Hồi kết của phim - với nước và lửa - gợi nhớ đến sự kiện Đại Hồng Thủy trong Kinh Thánh và tận thế Ragnarok trong thần thoại Bắc Âu.
Trong vai chính, Jennifer Lawrence một lần nữa thể hiện đẳng cấp ngôi sao hàng đầu Hollywood. Xuất hiện trong hàng loạt cảnh cận khuôn mặt, tất cả cử động cơ mặt của cô đều phơi bày ở cự ly gần. Người đẹp bộc lộ tự nhiên hàng loạt biểu cảm, từ hạnh phúc, lo âu đến hoảng sợ, tuyệt vọng.
Khác với nhiều vai diễn trước đó của minh tinh - thường giữ thế chủ động và đề cao nữ quyền, nhân vật trong Mother! lại bị động, thể hiện cách một người bình thường phản ứng với những sự kiện bất thường xung quanh. Ở cao trào, cảm xúc của cô tuôn ra dữ dội. Aronofsky cho biết trong một cảnh, người đẹp đã bị trật xương sườn và rơi vào trạng thái thở gấp do cố gắng diễn xuất.
Trong khi đó, với khuôn mặt của mình, Javier Bardem dễ dàng chuyển đổi giữa hai trạng thái cảm xúc của người chồng: yêu thương và bỏ mặc vợ mình. Vai diễn của anh vừa đời thường vừa kỳ quặc, vừa siêu phàm vừa trần tục. Hai diễn viên kỳ cựu Ed Harris và Michelle Pfeiffer cũng gây ấn tượng với những câu thoại đầy ẩn ý và ánh mắt chứa đựng sự tà ác ngầm. Nhân vật của ba diễn viên được xây dựng với tính cách xa lạ, mang tính biểu tượng chứ cư xử không giống bất kỳ hình mẫu nào ngoài đời thực.
Ở phòng vé, Mother! khiến hãng phim bị lỗ với doanh thu 44 triệu USD, trong khi kinh phí sản xuất là 30 triệu USD (thông thường, rạp chiếu giữ lại 50% tiền bán vé). Trong các cuộc phỏng vấn, Darren Aronofsky không giải thích cặn kẽ tác phẩm mà chỉ trả lời mơ hồ, đưa ra những manh mối khác nhau.
Trước phản ứng của khán giả, trên The Frame, đạo diễn Mỹ nói đã biết trước tác phẩm sẽ gây tranh cãi. "Tôi muốn hú lên. Đó là tiếng hú của tôi. Vài người sẽ không muốn nghe nó. Chẳng có vấn đề gì cả", anh chia sẻ. Lúc quay phim, anh và Jennifer Lawrence là tình nhân, hai người chia tay hồi tháng 11.
-
Black Panther: Wakanda Forever là phần phim riêng thứ hai của thương hiệu điện ảnh về siêu anh hùng Báo Đen thuộc Vũ trụ điện ảnh Marvel. Tác phẩm mở đầu với phân đoạn vua T'Challa hấp hối vì mắc một căn bệnh bí ẩn. Shuri (Letitia Wright) cố gắng nghiên cứu để khôi phục loại thần dược Tâm Hình Thảo với niềm tin nó có thể cứu sống anh trai. Tuy nhiên, kế hoạch của cô đổ vỡ khi T'Challa trút hơi thở cuối cùng trên giường bệnh trước khi dự án thành công.
Một năm sau, nữ hoàng Ramonda điều hành Wakanda sau khi nhà vua băng hà. Các quốc gia khác âm mưu tận dụng việc T'Challa chết để gây áp lực, đòi Wakanda chia sẻ tài nguyên vibranium. Họ thuê thần đồng khoa học Riri Williams (Dominique Thorne) chế tạo một máy dò tìm loại khoáng sản này. Tuy nhiên, trong quá trình lần theo dấu vết các mỏ vibranium, CIA vô tình đụng độ vương quốc những người da xanh. Sự kiện dẫn đến mối đe dọa mới cho Wakanda và cả các quốc gia trên Trái Đất.
Black Panther: Wakanda Forever tiếp tục câu chuyện về siêu anh hùng Báo Đen khi tài tử Chadwick Boseman qua đời vì ung thư năm 2020.
Bộ phim có một số phân đoạn dành riêng để tưởng nhớ Boseman. Êkíp chiếu lại những hình ảnh đẹp của nam diễn viên trong hình dạng nhân vật T'Challa. Phần vinh danh được lồng ghép khéo léo, giàu cảm xúc và không ảnh hưởng nhiều tới nội dung chính.
Cái chết của Boseman ảnh hưởng lớn tới hướng đi của Black Panther 2. Đạo diễn kiêm biên kịch Ryan Coogler phải thay hoàn toàn kịch bản để đối phó biến cố. Chủ tịch Marvel Kevin Feige quyết định không tuyển người khác thay thế vai T'Challa. Thay vào đó, một câu chuyện hoàn toàn mới được xây dựng dựa trên những giả thuyết có sẵn trong các tập truyện tranh Marvel.
Hướng đi này phần nào thổi một làn gió mới mẻ vào Vũ trụ điện ảnh Marvel - thương hiệu vốn tỏ ra hụt hơi trong giai đoạn một năm trở lại đây. Các nhân vật phụ của Black Panther được trao nhiều đất diễn hơn để vươn lên lấp chỗ trống do sự vắng mặt của Boseman. Phần hai trở thành một tập phim giới thiệu sự xuất hiện của Báo Đen mới - người thay thế T'Challa tiếp tục bảo vệ Wakanda khỏi kẻ thù.
Ngoài người kế thừa danh hiệu Báo Đen, bộ phim cũng lần đầu giới thiệu một nhân vật sở hữu sức mạnh siêu nhiên - Namor do Tenoch Huerta Mejía thủ vai. Tài tử gốc Mexico là kẻ phản diện, nhiều khả năng sẽ gắn bó với thương hiệu Black Panther trong các phần tiếp theo. Nhân vật có màn xuất hiện ấn tượng trong Vũ trụ điện ảnh Marvel với khả năng chiến đấu điêu luyện ở cả dưới biển và trên không trung, đất liền.
Tiếp tục mang đậm phong cách làm phim của Ryan Coogler, Black Panther: Wakanda Forever là một bom tấn giàu tính giải trí, hình ảnh ấn tượng và đậm tính nghệ thuật. Các tình tiết được xây dựng nghiêm túc hơn, thay vì tập trung khai thác yếu tố hài như những bom tấn Marvel gần đây. Khâu thiết kế sản xuất, phục trang, hành động, kỹ xảo và âm thanh được đầu tư kỹ lưỡng.
Điềm trừ của Black Panther: Wakanda Forver là cách phát triển câu chuyện chưa hợp lý, nhiều phân đoạn rối rắm. Phần đầu phim diễn ra hấp dẫn, hợp lý nhưng hồi cuối lộn xộn và nhiều cảnh thừa. Đạo diễn không xây dựng tốt các chi tiết làm tiền đề dẫn đến màn đối đầu giữa Black Panther mới và Namor. Trận đánh cuối cùng của phim diễn ra chóng vánh, hụt hẫng.
-
-
1) Lâu rồi tui mới lại mò ra rạp xem phim, và tui đã bật ngửa trước giá vé 2D của Megastar: 90k! Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, đi xem một bộ phim mà vèo mất gần 100k. Móc tiền ra mà tui xót xa kinh khủng. Nhưng dù sao cũng có một điều an ủi: do tui đi xem một trong những suất cuối cùng nên có mình tui trong rạp, cứ như là đại gia bao nguyên cả phòng chiếu vậy á.
2) Source Code được các bác VN dịch sát là “Mật mã gốc”, nghe cứ tưởng như một bộ phim trinh thám. Thực ra trong phim chẳng có anh thám tử nào, cũng không có mật mã nào để giải sất. Source Code thực ra là một chương trình khoa học. Trong phim, đây là chỗ sẽ khiến người xem lộn tùng phèo với những giải thích có vẻ là rất cao siêu, cộng thêm với phụ đề siêu “đỉnh” thì có lẽ chẳng mấy ai nắm được cơ chế hoạt động của Source Code.
3) Colter Stevens (Jake Gyllenhaal) là một viên đại úy đã chết trên chiến trường và ý thức của anh ta được đưa vào Source Code để tìm ra kẻ đánh bom khủng bố đoàn tàu đang đi Chicago. Source Code tái hiện toàn bộ khung cảnh của đoàn tàu 8 phút trước vụ nổ dựa theo ký ức của Sean Fentress. Mỗi lần Stevens thất bại, Colleen Goodwin (Michelle Monaghan), một trong những người phụ trách chiến dịch này, lại cho chạy máy xẹt xẹt và bắn Stevens trở lại khung cảnh y như trước đó của đoàn tàu. Điểm thú vị nhất của phim là ở đây. Cũng một hoàn cảnh đó, thời gian đó, nhưng người xem không hề thấy nhàm mà lại rất hồi hộp chờ xem sự việc sẽ đổi khác như thế nào khi nhận thức của Stevens liên tục thay đổi. Do đó, tuy bộ phim chỉ loanh quanh có 3 bối cảnh là đoàn tàu, văn phòng cơ quan của những người làm Source Code, cái buồng của Stevens, nhưng bộ phim vẫn có sức hút nhất định và kích thích khán giả phải vận động đầu óc cùng Stevens tìm ra hung thủ.
4) Source Code không đơn thuần là một bộ phim giả tưởng. Đạo diễn Duncan Jones đã rất khéo léo lồng ghép một thông điệp quen thuộc nhưng ý nghĩa: hãy quý giá lấy từng giây, từng phút, từng giờ của cuộc sống này. Đoạn gần cuối có lẽ là những khoảng khắc đẹp nhất của bộ phim: cuộc gọi của Stevens cho bố, màn cá cược của Stevens với anh diễn viên hài rằng anh ta không thể làm tất cả mọi người cùng cười, đặc biệt là hình ảnh time freeze cuối cùng – hình ảnh đáng giá nhất bộ phim: tất cả mọi người đều cười sung sướng, Stevens thì hôn cô bạn gái của mình, trong cái giây cuối cùng của cuộc đời họ. Tất cả mọi người đều đang tận hưởng một niềm vui trong trẻo, không giả tạo, không sắp đặt, một niềm vui mà nhiều người đã không thể có trong cuộc sống tất bật hiện nay. Bài học này cũng đặc biệt ý nghĩa với tui, khi mà tui đang trong giai đoạn khốn khổ ôn thi. Có lẽ tui cần phải tươi vui lên và nghĩ đến những tháng ngày hạnh phúc, sung sướng khi thi xong …
5) Khi bức tranh time freeze ấy dời qua từng khuôn mặt tươi cười của các vị khách, tui đã vỗ tay và chờ credits chạy lên. Với tui, phim kết thúc ở đó là quá tuyệt rồi. Nhưng tui chưng hửng: phim vẫn tiếp tục. Và thực sự, cái đoạn phim sau đó làm tui thất vọng. Dường như Source Code đang muốn bắt chước Inception khiến khán giả hoài nghi không biết nhân vật đang ở trong thế giới thực hay thế giới Source Code. Nếu như sự hoài nghi đó trong Inception là quá tuyệt vời, thì trong Source Code, đó là sự gượng ép rõ ràng trong nỗ lực tạo ra một kết thúc mở. Đây là điểm duy nhất tui không thích ở bộ phim, còn thì phim khá tuyệt, không nên bỏ lỡ.
-
Die Hard đặt người xem vào một bối cảnh trớ trêu Một nhân viên cảnh sát ăn vận như Rambo với chỉ một khẩu súng lục trong tay đối đầu với cả một băng nhóm khủng bố với một lô vũ khí hạng nặng, cầm đầu bởi một kẻ vừa độc ác vừa xảo quyệt và đang nắm trong tay một nhóm con tin đang sợ hãi. Bối cảnh châu chấu đá xe này đã bất ngờ trở thành một biểu tượng, và biến Die Hard trở thành một trong những bộ phim hành động được đánh giá là hay nhất mọi thời đại.
Với một kịch bản chắc nịch được điều chỉnh co giãn một cách có chủ đích bởi bàn tay của đạo diễn John McTiernan, người xem được chứng kiến cuộc đối đầu nảy lửa theo chân viên cảnh sát John McClane từng bước quét sạch lũ khủng bố đang đánh chiếm buổi tiệc của tập đoàn Nakatomi. Die Hard khởi đầu chậm rãi với những tình tiết giới thiệu nhân vật rồi dần dần đưa người xem lên một chuyến tàu cao tốc không điểm dừng của sự căng thẳng, toán tính mà không kém phần máu me bạo lực. Sự kịch tính được đẩy lên cao độ với những cuộc đấu súng giáp mặt, những giây phút John phải chạy trốn khỏi làn đạn chỉ cách anh có một tấm bàn ăn, hay là xem cách mà John xếp đặt mọi thứ để triệt hạ từng tên địch. Ngoài ra, phim cũng không quên đi phần nhân vật khi cho ta thấy John McClane cũng là một con người yếu đuối, nhăn nhó vì cơn đau thể xác, hay là phải vật lộn với cuộc hôn nhân đang từng bước đi đến đổ vỡ.
Vai diễn John McClane ban đầu được nhắm cho Arnold Schwarzenegger, những vì một số lý do liên quan đến lịch trình mà nó đã được trao cho Bruce Willis, người mà ở thời điểm đó chỉ được biết đến với những phim hài trên truyền hình. Tuy nhiên, màn trình diễn đầy thuyết phục của ông chính là nhân tố quan trọng khiến cho Die Hard có thể xuất sắc được đến như vậy, cùng với giọng nói như rít ra từ kẽ răng của Alan Rickman, tất cả đã tạo nên một trải nghiệm đầy trọn vẹn với Die Hard.
-
Saving Private Ryan, một bộ phim mà nếu là khán giả mê phim hoặc chỉ hơi mê phim ảnh thì hẳn là bạn đã từng nghe qua, bởi đây là một bộ phim nổi tiếng, được đánh giá cao được nhiều khán giả yêu thích. Vậy nhưng bộ phim khiến tôi thấy thất vọng ngay từ những giây đầu tiên.
Khi cựu binh Ryan đến nghĩa trang với một vài người đi theo sau, rồi ông bắt đầu hồi tưởng lại câu chuyện cuộc đời mình, đó là một chuỗi giết chóc . Với độ dài gần 3 tiếng mà phải đến 2 tiếng rưỡi là cảnh bom đạn, giết chóc man rợ hơn bất kỳ bộ phim kinh dzị nào mà tôi đã từng xem.
Nội dung phim: “Bộ phim lấy bối cảnh Thế chiến hai, ngày 6 tháng 6 năm 1944, quân đội Mỹ đổ bộ vào bờ biển Normandy trước sự kháng cự dữ dội của quân đội Đức. Xác lính Mỹ nằm đầy trên bãi biển, không ai có thể tiến lên. Đại úy John H. Miller dẫn binh lính của ông ta chạy qua các lô cốt, giết nhiều lính Đức, mở đường cho quân Mỹ đi lên. Nhờ thế quân Mỹ nhanh chóng chiếm được bờ biển. Ở Washington DC, Tướng quân George Marshall nhận được báo cáo rằng ba người trong số bốn anh em nhà Ryan đều tử trận trên chiến trường, mẹ của họ cũng nhận được bức điện tín tương tự như vậy. Cảm động trước hoàn cảnh nhà Ryan, Tướng quân Marshall ra lệnh một đội lính Mỹ đi tìm người con trai út James Francis Ryan về.”
Có lẽ vì ở đất nước tôi, đã từng nghe những câu chuyện về những bà mẹ mất cả chục người con vì chiến tranh, nên câu chuyện của Ryan khiến tôi thấy dửng dưng. Và tôi tự hỏi, vậy còn những người mẹ khác thì sao? Có lẽ nước Mỹ không chiêu mộ lính từ những gia đình có một con, hoặc trong một gia đình thì chỉ một nửa mới đi lính. Suy luận này của tôi chắc chắn sai vì hiển nhiên gia đình Ryan tất cả người con đều nhập ngũ. Vậy lại càng thấy phim sai, vì nếu thực sự cảm động với hoàn cảnh của nhà Ryan, thì đừng có bắt con cái họ ra chiến trường. Nhưng tôi vẫn lại sai thôi, họ phải ra chiến trường để chiến đấu vì hòa bình.
Nhưng lại nhưng… Tôi vẫn không thể nào hiểu nổi tại sao lại là Ryan, còn những người lính khác phải hy sinh khi giải cứu Ryan thì sao? Chiến tranh hiển nhiên sẽ có hy sinh và mất mát, nhưng nội dung của Saving Private Ryan chỉ mang đến cho tôi sự ngụy biện.
Ngụy biện, khi lấy một hành động nhân văn của chính phủ Mỹ khi cảm thông với một bà mẹ mà ra lệnh một đội quân đi giải cứu một người lính trở về. Tôi hiểu, phim muốn nói đến việc: giải cứu một anh lính binh nhì, không phải đại úy hay đại tá, một tướng lĩnh, mà anh ta chỉ là một người lính, một người con trai, một con người. Vâng chi tiết này rất nhân văn, đúng như những người bạn của tôi ca ngợi phim. Nhưng vấn đề là để giải cứu con người ấy đã không ít người phải hy sinh. Vậy mà là nhân văn ư?
Ngụy biện, cho hành động đưa lính đi chiến đấu và giết chóc.
“- Thấy không, khi kết cục bạn giết một trong những người của mình. Bạn sẽ tự lý giải rằng chuyện đó xảy ra để bạn có thể cứu được… Hoặc 10 người khác. Hay có thể là 100 người. Có biết tôi mất bao nhiêu người dưới quyền chỉ huy của mình chưa? – Bao nhiêu? – 94. – Nhưng điều đó có nghĩa tôi đã cứu 10 lần số sinh mạng đó, phải không? Thậm chí có thể 20 lần, đúng không? 20 lần nhiều hơn? Và theo cách đó chuyện hóa đơn giản. Đó là cách ta hợp lý hóa chọn lựa đưa ra… Giữa sứ mạng và con người.”
Tôi lại chợt nhớ đến một câu “Doing bad thing to bad people feels good” – Làm điều xấu với người xấu khiến ta cảm thấy tốt. Chúng ta giết người để cứu nhiều mạng người khác. Biết rằng sự thật phũ phàng là vậy, có những dân tộc, những con người bị áp bức phải vùng lên đấu tranh để đẩy lùi tội ác. Có những hành động bất khả kháng, nhưng quan điểm trên trong Saving Private Ryan, tôi chỉ thấy một sự ngụy biện, bởi: Bạo lực chỉ sinh ra bạo lực mà thôi. Dù đoạn hội thoại trên tiếp tục rằng:
“- Ngoại trừ lần này, khi sứ mạng là một con người. – Mong sao Ryan xứng đáng với điều đó. Mong sao anh ta trở về nhà để chữa lành một căn bệnh nào đó. Hay phát minh ra loại bóng đèn có tuổi thọ cao, vân vân… Vì sự thật là, tôi sẽ không đổi một Vecchio hay một Caparzo… Để lấy 10 Ryans. – Amen”
Suy nghĩ này có vẻ rất nhân văn, cao cả, nhưng tôi vẫn thấy nó thật sự chưa thỏa mãn cho những thắc mắc cũng như ác cảm của tôi về bộ phim. Phân tích đến đây tôi cũng e rằng đạo diễn nổi tiếng rất taì năng, phải chăng ông cố tình làm một bộ phim như vậy? Nếu thế tôi nghĩ ông thật sự tuyệt vời khi làm một bộ phim châm biếm chiến tranh, quân đội, chính phủ Mỹ rất sâu sắc.
“Tôi không biết tí gì về Ryan. Tôi không quan tâm. với tôi. Chỉ là một cái tên… Nhưng nếu tới Ramelle, tìm anh ta, để anh ta có thể trở về nhà. Nếu điều đó cho tôi một vé trở về với vợ mình. Thì đó là sứ mạng của tôi. Anh muốn bỏ đi? Anh muốn đi khỏi đây và chiến đấu cuộc chiến này? Được rồi. Tôi sẽ không cản anh. Tôi sẽ chỉ coi đây là chuyện thủ tục. Chỉ biết rằng mỗi khi giết một người, tôi càng cảm thấy xa nhà hơn. ”
Trong tiểu đội cũng có những người phản đối việc giải cứu Ryan, và hẳn đạo diễn nêu lên quan điểm để “nhắm” đến những khán giả “vô cảm” như tôi. Và tôi cũng có thể hiểu chỉ huy chiến dịch Miller, giải cứu Ryan hay phải lao vào cuộc chiến cũng chỉ vì anh muốn được về nhà. Có lẽ đây mới là ý nghĩa nhân văn của bộ phim.
“Chúng ta đang bước qua những lằn ranh kỳ lạ. Thế giới này đã rẽ một khúc ngoặt méo mó…. Một phần trong tôi nghĩ rằng chàng trai này nói đúng. Anh ta đã làm gì để xứng đáng với chuyện này? Nếu anh ta muốn ở lại, được thôi. Chúng ta hãy để anh ta ở lại và đi về nhà… Nhưng một phần khác trong tôi thì nghĩ… Nếu nhờ một phép màu nào đó chúng ta có thể ở lại đây. Và tìm được đường ra, thì sao? Có thể một ngày kia chúng ta sẽ nhớ lại và đoan chắc rằng. Chuyện giải cứu binh nhì Ryan là một chuyện đúng đắn chúng ta từng làm. Trong bao nhiêu là chuyện hôi thối nơi này… Nếu chúng ta làm chuyện này, chúng ta có thể kiếm được vé trở về nhà.”
Trong đoạn thoại trên có vẻ như người lính cảm thấy sự vô nghĩa của chiến tranh mà cứu người mới là ý nghĩa cuộc chiến này. Điều này tôi rất đồng tình, tuy nhiên bộ phim lại bắn giết quá nhiều, và có không ít chi tiết trong phim khiến tôi thấy đạo diễn quá là “hình tượng” một cách hơi lộ liễu.
Chi tiết người lính hôn chiếc vòng có cây thập giá khi trên tàu. Và khi tiểu đội bế cô bé từ một gia đình, người lính muốn chấn an bằng việc tháo chiếc vòng để cô bé bớt lo sợ. Nhưng rồi cảnh này lại quá rối ren, khóc lóc, sợ hãi chỉ để lấy sự cảm thông cho khán giả, vậy mà tôi chỉ thấy lãng xẹt, bởi sự lùng bùng trong cảnh này mà một người lính khác bị bắn và hy sinh. Một trường đoạn hình tượng ngợi ca sự chiến đấu hy sinh của những người lính, mà sao tôi không hề thấy xúc động, mà chỉ thấy bực tức.
Bực tức hơn là ảnh người lính Upham, hèn nhát không dám bước lên cầu thang trong khi đồng đội của mình ở trên tầng bị đâm chết. Và cuối cùng thì Upham là người sống sót. Liệu có châm biếm không khi Upham là hình ảnh của một kẻ sống sót hèn nhát. Liệu những người lính trở về, trong số họ cũng có những người hèn nhát như thế? Tôi thật sự không hiểu ý đồ của đạo diễn với nhân vật Upham là gì? Bạn tôi nói cái hay của phim là ở chỗ đó, bởi anh ta cũng là một con người. Tôi hiểu, là con người thì ai cũng có lúc yếu đuổi hèn nhát… nhưng thực lòng trong chiến tranh thấy hình ảnh đó thì không chấp nhận được, dù chỉ là trên phim. Ví dụ như trong phim FURY, một bộ phim chiến tranh không hay lắm, và cũng từng được so sánh với Saving Private Ryan, cũng có một người lính nhút nhát, nhưng anh không hề hèn nhát – 2 điều này hoàn toàn khác nhau.
Ngoài ra một vài chi tiết mà tôi thấy không thích như cảnh một người lính đang nấp nhặt những quả táo rơi xuống đất, đoạn Miller thả một kẻ địch, đoạn Miller và Ryan nói chuyện ôn lại kỷ niệm xưa,… Tất cả đều khiến tôi thấy bộ phim khiên cưỡng xây dựng hình ảnh cho một đội quân anh hùng. Hay như đoạn cuối phim khi Ryan đã già và đưa cả gia đình đến thăm mộ Miller và nói: “Hãy nói rằng tôi đã sống một cuộc đời tốt. Hãy nói tôi là một người tốt….Ông là người tốt.” Để cả một bộ phim chiến đấu khốc liện gần 3 tiếng đồng hồ, chỉ kết thúc bằng vài câu thoại “sáo rỗng” này, thì quả thật tôi thấy bộ phim này khá là nhạt nhẽo.
Dù sao thì Ryan vẫn là người lính tuyệt vời, là hình ảnh ý nghĩa nhất của phim. Và dẫu rất khó chịu với bộ phim, thì tôi vẫn thật sự yêu mến chàng lính binh nhì trẻ tuổi Ryan, chắc chắn không phải vì tôi rất có cảm tình với Matt Damon, nam diễn viên thủ vai Ryan.
“- Chuyện này thật vô lý, thưa ông. Vì sao tôi xứng đáng được trở về? Vì sao không là những người này? Họ cũng chiến đấu gian khổ như tôi! – Đó có phải là điều người ta sẽ nói với mẹ anh… Khi gởi cho bà ấy một lá cờ cuốn nữa? – Hãy nói với bà ấy rằng khi các anh tìm ra tôi, tôi đang ở đây. Với những người anh em duy nhất còn lại. Và không đời nào tôi bỏ họ đi. Tôi sẽ không đi khỏi cây cầu này.”
Chỉ tiếc là Ryan không có nhiều cảnh chiến đấu mà tôi nghĩ là đạo diễn nên để anh được thể hiện. Nhưng có lẽ dù tên anh xuất hiện trong tựa phim, thì thực chất Ryan chỉ là một nhân vật phụ, mà nhân vật chính là Miller và đồng đội đại diện cho quân đội Mỹ đã chiến đấu anh dũng, còn sự thành công của chiến dịch “Giải cứu binh nhì Ryan” đại diện cho hành động nhân văn của chính phủ Mỹ. Khi viết ra những điều này tôi thấy mình thật nực cười.
Mỗi người có một cảm nhận khác nhau về một tác phẩm. Có bạn cũng trao đổi bày tỏ quan điểm và cảm xúc về tính nhân văn của Saving Private Ryan, nhưng quả thật tôi vẫn không thấy bộ phim mang lại cho tôi ý nghĩa nhân văn sâu sắc nào. Dù vậy như tôi đã nói, Ryan và những người lính như anh vẫn rất tuyệt vời. Và đó là điều duy nhất tôi cảm nhận được khi cố gắng xem gần 3 tiếng bộ phim Saving Private Ryan. Chỉ tiếc các anh chỉ là những diên viễn phụ.
p/s: Đã n lần thấy Saving Private Ryan được chiếu trên TV, nhưng không lần nào tôi đủ kiên nhẫn theo dõi, bởi vì lúc nào cũng thấy cảnh chiến đấu. Tôi rất ghét xem những bộ phim đề tài chiến tranh mà tốn quá nhiều bom đạn, xác chết. Ai cũng hiểu chiến tranh tàn khốc thế nào, nhưng không phải vì thế mà cứ phải đưa lên phim những hình ảnh giả tạo đó. Giống như trong một cuốn sách nào đó mà tôi đã đọc, hiện giờ chưa nhớ ra là cuốn sách nào nhưng tác giả có nói rằng: những cảnh bom đạn trong những bộ phim chiến tranh là nhảm nhỉ, vì tất cả chỉ là giả tạo. ( Đó là lý do vì sao tôi cũng khá chịu khó trích dẫn sách cũng như phim trên blog, để có internet nhắc nhớ những chi tiết, những cuốn sách mà chắc chắn tôi sẽ quên sau khi đọc)
Một lần gần đây, trên status hình như của ca sỹ Hà Linh có viết về sự kiện “giải cứu” người Việt sau trận động đất ở Nepal, cô ấy có nhắc đến bộ phim Saving Private Ryan, khiến tôi ấn tượng và có dự định sẽ phải xem bộ phim này, để hiểu vì sao nó lại được đánh giá cao như vậy. Và ngày hôm nay, thật buồn khi xem một bộ phim được đánh giá cao mà lại có những cảm xúc trái chiều như vậy. Biết làm sao được, tôi cũng chỉ viết những điều tôi cảm nhận được, có thể sai, không đồng tình, nhưng tôi vẫn rất tôn trọng những ý kiến ca ngợi bộ phim này của các bạn 🙂
Nhắc đến đây chợt nghĩ… chẳng còn thấy ai nhắc đến trận động đất ở Nepal 4-2015 nữa.
Trong suốt thế chiến thứ hai không ít người phải chịu những mất mát và đau thương mà cuộc chiến phi nghĩa này gây ra. Đau đớn nhất có lẽ là những người mẹ. Họ tiễn con mình ra trận để rồi sau đó nhận được mảnh giấy bảo tử trên tay. Họ mãi mãi mất đi đứa con yêu quí. Có những bà mẹ không chỉ mất đi một mà là tất cả những đứa con họ gửi ra chiến trường. Nỗi đau được nhân lên nhiều lần. Liệu có nỗi đau nào có thể hơn thế nữa?
Đây cũng chính là bối cảnh chính của bộ phim “Giải cứu binh nhì Ryan”: thế chiến thứ hai và nỗi đau của những bà mẹ Mĩ trong chiến tranh. Người mẹ của bốn anh em nhà Ryan đang ngày ngày mòn mỏi chờ mong ngày cuộc chiến kết thúc và bà lại có thể nhìn những người con thân yêu bước qua bục cửa một lần nữa. Bà đâu hay rằng ba trong bốn người con của mình đã hi sinh trong các chiến dịch trên khắp chiến trường châu Âu. Giấy báo tử ủa cả 3 đang chuẩn bị được gửi về cho bà. Một nhân viên đánh máy cho quân đội kịp nhận ra điều tồi tệ ấy và báo cho chỉ huy biết. Chỉ huy đắn đo rất nhiều. Gửi cả ba tờ giấy thông báo cái chết của những đứa con cho người mẹ thật chẳng khác nào một phát súng giữa ngực bà ấy. Chỉ huy trao đổi điều này với cấp dưới, đưa ra kế hoạch sẽ cử một đội ở gần nơi đóng quân của Ryan còn lại kia đi giải cứu anh ta, đem anh về với mẹ để bà được an ủi phần nào. Nhiều ý kiến phản đối, và vị chỉ huy đã đọc cho tất cả nghe bức thư mà tổng thống Lincoln từng viết cho một bà mẹ trong nội chiến Mĩ năm nào, một bà mẹ có năm người con đều hi sinh. Những lời thật xúc động đã khiến cho mọi người không còn ai có ý kiến gì nữa. Kế hoạch giải cứu binh nhì Ryan được thông qua.
Nhiệm vụ được giao cho Captain John H. Miller (Tom Hank thủ vai). Trong cuộc đổ bộ lên bờ biển Omaha mở đầu cuộc chinh phục Norman, binh lính Mĩ do Miller chỉ huy đã chiếm được bờ biển và đóng quân ở đây, chuẩn bị đổ bộ sâu vào đất liền. Đây là nơi gần với nơi được cho là Ryan kia đang mất tích. Sauk hi nhận nhiệm vụ, ngay lập tức Catain Miller lập một đội và lên đường làm nhiệm vụ. Ông cần một người giỏi tiếng Đức để phiên dịch, và Upham được gọi vào đội. Upham trước giờ dù là lính nhưng chỉ lo giấy tờ văn thư nên khi cầm súng khá lóng ngóng. Những người trong đội xem thường anh vì cho rằng anh chẳng làm được gì, chỉ vướng chân. Dù vậy Upham vẫn cố làm quen với mọi người. Dù anh rất giỏi tiếng Đức nhưng khi mọi người trong đội đội gọi nhau là “Fubar” thì anh hoàn toàn khong biết nghĩa của nó là gì. Anh hỏi họ những họ chỉ cười và không giải thích gì. Hành trình tìm kiếm dấu vết của Ryan cứ tiếp tục. Người trong đội chết dần do đối đầu với lính Đức. Đến một trạm rada, Miller cùng đội của mình buộc phải hạ nó nếu muốn đi qua. Họ không có nhiều thời gian để đi vòng nên quyết định tấn công thẳng. Trong trạm rada chỉ có hai tên lính Đức và hai khẩu súng máy. Cuối cùng thì chúng cũng bị hạ nhưng đội của Miller cũng mất thêm một người. Một tên Đức bị bắt sống. Cả đội đòi xử tử hắn vì tội đã giết đồng đội của mình. Ban đầu Miller cũng đâòng ý. Nhưng sau đó ông đã nghĩ lại, cộng với lời thuyết phục của Upham xin tha cho hắn, ông đã đồng ý. Miller đã thuyết phục người của mình thả tù nhân ra. Nhiều người không đồng ý nhưng họ vẫn tuân theo. Đội tiếp tục đi, họ gặp nơi đóng quân của một đội quân Mĩ khác. Nhiệm vụ cứ ngỡ là đã hoàn thành ở đây khi họ gặp được Ryan nhưng không phải, đây là một Ryan khác, không phải Ryan mà họ cần tìm. Đội lại tiếp tục hành trình.
Trên đường đi đội lại gặp một đoàn quân khác. Qua dò hỏi họ biết được thông tinh từ một anh lính lãng tai về Ryan, đó là Ryan đang cùng đồng đội cố thủ ở cây cầu trên song Merderet ở thị trấn Ramelle. Thành phố này giờ đây gần như đã là một đống đổ nát khi quân Đức luôn tấn công vì muốn có được nơi này. Có được thông tin, Miller lập tức cùng đội của mình hướng về cây cầu. Khi gần đến nơi họ bất ngờ vướng phải một toán quân Đức đi tuần. Họ ẩn nấp chờ toán lính đi qua. Miller ra lệnh cho người của mình không được phép nổ súng, im lặng lặng ẩn nấp. Bổng nhiên tiếng súng vang lên, không chỉ một mà nhiều tiếng súng cùng vang lên, rồi cả tiếng bazooka hạ tăng hướng về toán lính Đức. Có lẽ là người của mình, Miller không chần chừ nữa, ra lệnh nổ súng. Cuối cùng thì hụ cũng hạ hoàn toàn lính Đức. Những người nổ súng kia cũng là lính Mĩ đang cố thủ ở cây cầu, nơi mà đội của Miller đang cần tìm. Trong số những người ấy, Ryan chính là người bắn bazooka hạ tăng. Cuối cùng thì Miller cũng đã tìm ra Ryan.
Tuy nhiên nhiệm vụ của Miller và đội của ông vẫn chưa kết thúc. Sau khi báo tin cho Ryan về cái chết của những người anh trai của anh và tin anh được cho về nhà, cứ tưởng Ryan sẽ vui mừng nhận lấy điều ấy nhưng không, Ryan muốn ở lại với đồng đội của mình. Cây cầu này là điểm trọng yếu ngăn bước tiến của quân Đức tràn sang. Trong khi đồng đội của mình đang tử thủ ở đây chờ cứu viện với đủ mọi thiếu thốn, Ryan không thể rời đi. Anh hi vọng mẹ mình sẽ hiểu và ở lại chiến đấu. Người trong đội của Miller bắt đầu nổi giận. Để tìm kiếm và giải cứu cho Ryan họ cũng đã mất đi nhiều đồng đội của mình. Vậy mà giờ đây khi gặp được Ryan rồi thì anh nói không muốn trở về để cho sự hi sinh của những đồng đội kia là vô ích, điều này với người trong đội của Miller là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên dù họ có nói gì thì Ryan vẫn quyết định ở lại và sống chết bên đồng đội của mình. Cuối cùng Captain Miller đưa ra quyết định cả đội của ông cũng sẽ ở lại đây cùng tử thủ với đội của Ryan. Lời ông nói với người trong đội của mình rất rõ ràng: “Nhiệm vụ của chúng ta là giải cứ Ryan. Nếu giờ chúng ta bỏ về thì hành động đó sẽ bị coi là đào ngũ. Vì vậy hãy ở lại đây cùng chiến đấu, bảo vệ Ryan và hoàn thành nhiệm vụ của mình.”
Captain Miller bắt đầu chuẩn bị kế hoạch tác chiến để bảo vệ cây cầu cùng mọi người. Từ một lượng thuốc nổ lấy từ cây cầu, ông cho thiết kế “Sticky bomb” cùng một số loại bom khác với tác dụng làm chậm bước tiến công của địch. Lượng thuốc nổ còn lại đủ giật sập cây cầu trong trường hợp xấu nhất. Mọi thứ chuẩn bị cho cuộc nghênh địch đã sẵn sang. Trong lúc chờ địch đến, mọi người nói chuyện với nhau để giữ sự bình tĩnh. Miller và Ryan nói về những người anh của Ryan và những suy ngẫm về cuộc chiến. Upham cùng những người khác giờ đã trở nên thân thiết với nhau, đùa giỡn với nhau. Anh cũng đã phần nào hiểu được ý nghĩa của từ “Fubar”, một cách nào đó nó là sự tin tưởng của những người đồng chí vào nhau. Đâu vang lên một giọng hát của một cô gái Đức. Không ai hiểu nội dung của nó là gì nhưng giai điệu thì thật là dịu dàng và thanh bình biết bao. Tất cả đều thả hồn vào giọng ca ấy.
Lời thông báo của tay sniper canh gác trên tháp đã cắt ngang những giai điệu thanh bình ấy. Quân Đức đang đến và mọi người đều đã sẵn sang chiến đấu. Và cuộc chiến bắt đầu. Dù lực lượng có phần yếu hơn nhưng quân Mĩ đã kiềm chân quân Đức khá tốt. Miller cùng những người khác liên tục làm giảm sinh lực địch. Ông vừa chiến đấu, vừa cố gắng giữ an toàn cho Ryan khi cứ liên tục kéo Ryan nằm xuống mỗi khi anh ngóc đầu lên và muốn chiến đấu.
Có một chi tiết rất hay ở đây. Upham là người được giao nhiệm vụ mang đạn dược và tiếp tế cho mọi người. Một đồng đội của anh hết đạn, chiến đấu tay không với tên Đức. Upham cầm súng và đứng bên ngoài. Anh hoàn toàn có thể hạ tên Đức và cứ đồng đội của mình nhưng anh không làm. Anh sợ hãi và run lên một cách đột độ. Cuối cùng tên lính Đức đã giết được người đồng đội của Upham kia trong khi anh vẫn còn đang run rẩy. Bất ngờ thay hắn chính là người mà Upham đã xin tha chết ở trạm rada nọ. Hắn bước ra và đi thẳng qua mặt Upham đang khóc vì sợ hãi. Hắn không giết Upham có lẽ vì phần nào cảm kích về ơn cứu mạng của Upham trước kia. Chi tiết này được đưa vào phim hoàn toàn có ý đồ của nó, nếu không tìm hiểu kĩ chắc ta khó mà hiểu được. Upham là người Mĩ, còn người đồng đội bị giết kia là người Do Thái. Đạo diễn của phim là Steven Spelberg, ông cũng là một người Do Thái. Ông xây dựn hình tượng những nhân vật này tượng trưng cho hoàn cảnh lịch sử bấy giờ: người Đức tàn sát người Do Thái trong khi người Mĩ, một quốc gia có tiếng nói trên thế giới chỉ đứng ngoài nhìn mà không hề có động thái nào nhằm giúp đỡ người Do Thái. Hình tượng Upham cũng như là cái nhìn của đạo diễn về người Mĩ: hèn nhát, chỉ bảo vệ quyền lợi của mình. Một chi tiết rất hay mà mình học được qua giờ ESL US History.
Cuộc chiến đấu bảo vệ cây cầu cùng dẫn kết thúc. Quân Mĩ yêu thế hơn về lực lượng nên dần rút qua cây cầu, chuẩn bị giật sập cầu. Nhiều lính Mĩ đã chết, Captian Miller cũng bị thương nặng. Dẫu vậy ông vẫn cố gắng bảo vệ Ryan và cây cầu cho đến lúc cuối cùng. Trong lúc ông chuẩn bị cho nổ bom giật sập cầu thì quân cứu viện cũng đến kịp lúc và bảo về câu cầu thành công. Lính Đức bị tiêu diệt rất nhiều. Upham lúc này cũng như tĩnh cơn mê, bắn hạ tên lính Đức kia. Không biết liệu hành động này của Upham có được coi là dũng cảm?
Vì bị thương quá nặng, Captain Miller không qua khỏi và hi sinh. Trước khi ra đi ông thì thào với Ryan mấy từ:” Hãy nhận lấy điều này đi, hãy nhận lấy điều này…” (Earn this) và hi sinh. Ryan thật sự xúc động vì sự ra đi của người đã dung hết tính mạng để bảo vệ mình. Không chỉ mỗi Miller mà còn nhiều người khác cũng đã hi sinh tính mạng để bảo vệ anh. Ryan lại được trở về với mẹ, chính thức bỏ chiến trường lại sau lưng và có một cuộc sống mình thường, hạnh phúc. Mấy chục năm sau, khi đã trở thành một ông lão, có một gia đinh hạnh phúc, Ryan vẫn luôn biết ơn và cảm thấy xúc động với những người đã cho anh có cuộc sống như bây giờ, một cuộc sống thanh phình thật sự. Anh đã cố gắng sống thật tốt, sống thay cả phần của Miller cũng như nhiều người khác đã đặt niềm tin vào anh, niềm tin về một ngày mai tươi sáng với chiến tranh ở sau lưng.
Giá trị lớn nhất mà bộ phim để lại là cái nhìn đau buồn về sự tàn khốc của chiến tranh cùng với đó là tình đồng đội và tinh thần trách nhiệm. Cái đau buồn mà chiến tranh để lại ắt hẳn nhiều người biết đến nhưng để hiểu hết thì chưa chắc. Giữa sự tàn khốc ấy của chiến tranh, tình đồng đội của những người lính sáng chói lòa như là một biểu tượng đẹp giữa lòng chiến tranh. Họ sống cùng nhau, chết với nhau, cùng hướng tới nhiệm vụ cuối cùng. Chỉ vậy thôi đã biến họ đã trở thành người chiến thắng duy nhất trong cuộc chiến này.
-
Từ nhỏ, tôi luôn thích những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện giả tưởng. Từ cuộc phiêu lưu của Robinson đến con tàu chu du hai mươi ngàn dặm dưới đáy biển của Jules Verne hay cuộc chiến ngoài vũ trụ trong Starcraft. Star Wars cũng không phải là ngoại lệ, dĩ nhiên tôi không phải fan cuồng đến mức đọc từng trang wiki về từng nhân vật, thậm chí đến những nhân vật xuất hiện trong phim có vài giây cũng có hẳn trang wiki riêng cơ mà. Và dù biết đến Star Wars khá muộn màng vào những năm đại học, câu chuyện về cuộc chiến trong dải thiên hà xa xôi luôn khiến tôi thích thú.
Hôm nay tôi dành ngày nghỉ lễ để xem Star Wars VII: The Force Awakens. Cảm nhận của tôi không gì ngoài một từ: xuất sắc.
Trước khi vào rạp, tôi không mong nhân vật nữ mới sẽ mang đến cảm giác như công chúa Leia từng mang đến. Nàng mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng với tính cách vừa là của một nàng công chúa kiêu kì vừa là một người tướng của quân Kháng Chiến. Ngoài ra nàng còn rất thông minh và bá đạo, đôi lúc nàng “chơi lầy” khiến thanh niên Han Solo nhiều lúc cứng cả họng. Với việc xây dựng nhân vật nữ mới Rey xuất thân không phải tầng lớp quí tộc, một phần mang hơi hướng hiện đại khiến tôi có cảm giác bất an cho nhân vật này. Tôi cũng không biết cách tiếp cận của đạo diễn sẽ thế nào. Trong khi các tập IV, V và VI là những tượng đài kinh điển của điện ảnh và là biểu tượng của văn hoá Pop, tập I, II, III đã khiến khán giả thất vọng vì kịch bản sơ sài, hiệu ứng hình ảnh sử dụng thừa thãi và nhân vật trẻ trâu Anakin xứng đáng được liệt vào danh sách những đứa trẻ trâu nhất trong lịch sử điện ảnh, áp lực đè lên tập VII không hề nhỏ. Họ phải làm vừa lòng những fan trung thành nhất, khôi phục lại hình ảnh mang tính chất biểu tượng, và hơn thế nữa là tạo nên một thế hệ những khán giả mới.
Theo quan điểm của tôi, Star Wars 7 đã thành công ngoài mong đợi.
Tính đến thời điểm hiện tại, nói về mặt doanh thu toàn cầu đã là một minh chứng hùng hồn về việc Star Wars 7 đã chinh phục trái tim người hâm mộ. Với điểm IMDB và điểm Tomatoes khá cao đã phản ảnh được chất lượng của bộ phim trong mắt những nhà phê bình. Và nếu có dịp, tôi vẫn sẽ ra rạp và xem lại bộ phim đầy hấp dẫn này.
Với những người đã xem các tập trước, đặc biệt là tập IV, V và VI thì Star Wars VII như một cầu nối kí ức. Chúng ta được gặp lại Han Solo và Chewbacca, được gặp lại Leia và các droid C-3PO, R2-D2. Tính cách của họ vẫn vậy, chàng cao bồi Han Solo vẫn tưng tửng như ngày nào, nàng Leia vẫn đẹp (lão) rạng ngời. C-3PO vẫn nhiều chuyện như xưa, R2-D2 thì vẫn “nghiêm túc” với sứ mệnh của mình. Luke giờ thì là phiên bản 2 của Obi-wan Kenobi. Những tàn tích của cuộc chiến tranh với xác tàu chiến và cỗ máy AT-AT nằm la liệt, đội quân stormstrooper vẫn là bia tập bắn cho phe chính nghĩa, cùng rất nhiều thiết bị vũ trụ làm fan cảm thấy bồi hồi xúc động.
Và chúng ta cũng được gặp những con người của thế hệ sau: Rey, Ren, Finn và Poe. Cuộc đời và số phận của họ đang dần được hé lộ cùng với bộ phim. Điểm hay của bộ phim chính là việc kế thừa và tôn trọng những gì thuộc về “truyền thống” của Star Wars như đoạn mở đầu phim (khiến bản thân mình khi nghe nhạc còn rùng mình vì thích thú) hay cũng những con quái vật trên màn chiếu hologram, hệ thống chiến đầu trên tàu Falcon hay những cảnh rượt nhau sát sườn hệ thống vũ khí của phe Bóng Tối. Star Wars vừa là một câu chuyện nối tiếp, vừa là bản cover (tôi không gọi nó là remake) tuyệt vời. Giữ lại cái chất trong Star Wars và mang một luồng gió mới cho dòng phim kinh điển.
Âm thanh và nhạc nền đóng một phần không nhỏ trong thành công của bộ phim. Cả những kĩ thuật sử dụng hiệu ứng ánh sáng và hoá trang, Star Wars 7 đã tránh được vết xe đổ của bộ prequel trước đó. Hình ảnh hành tinh sa mạc và những chủng tộc hành tinh xuất hiện, đống tàn tích sau cuộc chiến tranh đã thể hiện rõ nét hơn về những gì sau sự kiện “Return of The Jedi”. Khi các phần prequel bị thiên hạ thém cà chua vì lạm dụng kĩ xảo, chúng ta càng không mong đợi Star Wars 7 mang đến sự đột phá về cách làm phim, nhưng cách mà Star Wars 7 đã làm đầy thông thinh, kết hợp yếu tố hiệu ứng hình ảnh với practical effect, vừa mô tả được sự hùng vĩ cả các hành tinh, tàu vũ trụ, những trận chiến khốc liệt, vừa tạo nên những thước phim rất chân thật.
Tôi không rõ Kylo Ren vì sao lại quá lo lắng vì không đạt được sức mạnh như ông ngoại mình. Nhưng tôi đảm bảo độ trẻ trâu của nhân vật này đã bằng với Darth Vader lúc còn là Anakin. Thật sự tôi cũng không hiểu sao mấy ông đạo diễn thích làm nhân vật phản diện trẻ trâu đến thế. Nhưng điểm cộng cho Ren đó là khi anh tức giận, thay vì bóp phát chết luôn tướng của mình như ông ngoại làm, anh ta lấy kiếm chém búa lua xua - ít ra anh còn biết bảo vệ nguồn nhân lực và người có tài. Đoạn đầy nước mắt của Ren theo mình nghĩ là do chả diễn sâu để ông bố không đề phòng. Coi như là một điểm cộng trong sự thủ đoạn của anh ấy. Finn và Rey rất dễ thương - nhưng bản thân mình thấy độ dễ thương và khùng không bằng Leia và Han. Rey thì cứng cỏi và mạnh mẽ hơn Leia nhiều, một phần là do nàng có thần lực. Mình rất thích Poe, chàng phi công xuất sắc và cũng hơi tưng tửng này. Tuy nhiên so về độ điên và bảnh thì không thể bằng Han Solo rồi.
Tóm lại, câu chuyện từ phần 1 đến phần 7 rốt cuộc xoay quanh “gia đình bá đạo” Skywalker cho cả thiên hà ăn hành ngập mặt và gánh chịu bao nhiêu tai ương. Con gái nhà này thì khùng khùng thất thường lại chảnh (đắng lòng khi phải nhận xét về Leia yêu dấu như vậy), con trai thì đứa nào cũng nhăm nhe sát hại cha mình, nếu không về mặt sáng thì cũng về mặt tối, thằng không bị chặt tay cũng bị ngâm mình trong dung nham, và điển hình là gen trẻ trâu di truyền qua nhiều thế hệ. Và tốt hơn hết, nếu bạn sống trong vũ trụ này, vào một ngày đẹp trời nào đó có ai đưa cho bạn thanh gươm ánh sáng màu xanh lá thì tốt nhất là trả lại gươm, xách tàu chạy 500 parsec tới vùng Vành Đai và chịu khó sống cuộc đời yên bình. Còn không …
-
Là một sinh viên mới tại Đại học Barden, Beca bị thuyết phục một cách miễn cưỡng để trở thành thành viên của The Bellas, một nhóm hát toàn nữ. Với những ý tưởng mới mẻ của mình, The Bellas hồi sinh màn trình diễn của họ và thách thức các đồng nghiệp nam trong một cuộc thi rất được mong đợi trong khuôn viên trường.
-
Không biết bạn đã nghe đến cái tên “Christopher Nolan” chưa, nhưng đây là tên của một vị đạo diễn tài ba mà bất cứ con mọt phim nào hay xem phim Âu Mỹ đều biết đến. Ông nổi tiếng với những bộ phim không hề tầm thường một chút nào, nội dung phim ông luôn có chiều sâu với sự lồng ghép tình tiết và sắp xếp thời gian một cách tài tình, và trong đó là sự pha trộn giữa thực tế và giả tưởng, giữa lô gic và tâm lý, giữa những sự hack não đến tột độ cùng với những phút giây khiến người xem phải kinh ngạc và sững sờ. Xem phim của Nolan là một trải nghiệm hoàn toàn khác lạ, nó khiến từng nơ ron thần kinh não của bạn phải căng hết cả độ dài bộ phim, và nó khiến tâm trí bạn ám ảnh và day dứt suốt một thời gian sau khi bộ phim đã kết thúc. Và The Prestige là một trong số những bộ phim như thế.
Nếu như ai đó đã từng xem Now you see me rồi thì chắc chắn cũng sẽ hứng thú với thể loại này, bởi bộ phim cũng lấy đề tài về ảo thuật và cuộc tranh tài, đấu trí giữa những ảo thuật gia, nhưng là bối cảnh xã hội nước anh vào khoảng thế kỉ XIX. Mở đầu phim là một màn giới thiệu vô cùng ấn tượng và cũng đậm chất Christopher Nolan: “Mỗi trò ảo thuật gồm có 3 phần hoặc hành động. Phần một gọi là “bảo đảm”, ảo thuật gia sẽ cho bạn xem một thứ gì đó bình thường. Một bộ bài, một chú chim hoặc một chàng trai. Họ sẽ cho bạn xem nó, có thể sẽ nhờ bạn kiểm tra, để xem nó có phải là thật, không bị chỉnh sửa, bình thường không. Nhưng dĩ nhiên là nó không bình thường rồi. Màn hai gọi là “bước ngoặt”. Ảo thuật gia lấy thứ bình thường, và làm nó thành thứ phi thường. Bạn thắc mắc bí mật đằng sau nó, nhưng bạn không tìm ra đâu. Bởi vì tất nhiên, bạn không chủ tâm tìm kiếm. Bạn không thật sự muốn biết. Bạn muốn bị … lừa. Nhưng bạn sẽ chưa vỗ tay đâu, bởi vì làm cái gì đó biến mất là chưa đủ. Bạn phải đem nó về nữa. Thế nên mỗi tiết mục ảo thuật đều có phần ba, phần khó nhất. Chúng tôi gọi đó là: “Cao trào” – “The Prestige”
Bộ phim kể về hai nhà ảo thuật gia tài năng Robert Angier (Hugh Jackman thủ vai) và Alfred Borden (Christian Bale thủ vai), hay đúng hơn là cuộc tranh tài và đấu trí của họ vì những mục đích tăm tối. Angier và Borden vốn đều là những người đồng nghiệp cùng làm trong ngành ảo thuật với vai trò là khán giả đóng thế. Angier vốn dĩ có bản tính hiền lành, lương thiện, Borden thì có phần khác, ngay từ những cảnh đầu phim anh ta đã thể hiện mình là một con người khá độc đoán, tham vọng và cầu toàn, cũng bởi anh ta thực chất là một ảo thuật gia vô cùng tài năng nhưng chưa có cơ hội để phô diễn tài năng đấy. Chính bởi tính cách có phần hơi cao ngạo của mình, Borden đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp và chính sai lầm ấy đã làm rạn nứt mối quan hệ của họ. Từ bạn, họ trở thành kẻ thù không đội trời chung. Angier sau sai lầm của Borden luôn đem lòng căm hận Borden, họ bày ra những mưu mô nhằm phá hoại sự nghiệp của nhau, gây thương tích cho nhau và cuối cùng lòng oán hận lẫn nhau cứ tác động qua lại trở thành chuỗi dây xích không có điểm kết thúc, trói buộc họ vào những toan tính, những hành vi của tội ác. Hai con người đều có tài, có tình yêu, có một sự nghiệp đang lên ngôi nhưng chính sự đố kị và lòng hận thù không có hồi kết đã khiến họ mất đi tất cả và trở thành những kẻ bại trận. Có thể thấy, mặc dù kết thúc phim, một người trong số họ chiến thắng nhưng đó không phải là một chiến thắng thật sự,chiến thắng vẻ vang, chỉ là một sự chấm dứt cuộc đấu tranh giữa họ.
Bộ phim được kể theo một trình tự thời gian không bình thường, bắt đầu ở hiện tại và trở về quá khứ rồi lại quay về hiện tại, một trình tự thời gian thường thấy ở những bộ phim khác của đạo diễn Nolan. Và cũng giống như cảm giác khi xem các bộ phim khác của Nolan, suốt nửa thời gian đầu tiên bạn vẫn còn khá mù mờ về các tình tiết, và không hiểu tự dưng các tình tiết ấy xuất hiện có ngụ ý gì, nhưng rồi càng về cuối và đến tận những giây phút cuối cùng của bộ phim, nó thực sự như những mảnh ghép rời rạc tự tìm đến nhau để ráp thành một bức tranh hoàn chỉnh, và lúc đấy chúng ta sẽ ở trong trạng thái, “à thì ra là như vậy”, và nhận ra không một chi tiết nào trong phim là thừa thãi, vô dụng cả. Và thật kì diệu khi mình vô tình phát hiện ra, bộ phim thực chất là một trò ảo thuật với đủ 3 màn. Màn đầu khiến con người ta cảm thấy bình thường, màn tiếp theo ( đến giữa phim) là những phân đoạn khiến ta phải thắc mắc, trăn trở, và màn kết thúc là khiến chúng ta phải đột ngột thốt lên “thật là vl”. Thực sự, khi xem bộ phim này, đừng vì đoạn đầu tiên mà bỏ dở giữa chừng vì đến cuối phim rồi bạn mới vỡ lẽ ra được cái hay và cái tài của phim.
Diễn xuất của diễn viên thì khỏi nói, phim của Christopher Nolan luôn luôn hội tụ những dàn diễn viên sáng giá nhất và có thần thái nhất, có diễn viên còn đóng đến 3 bộ phim của Nolan rồi ( điển hình là Tom Hardy). Có lẽ vai diễn ấn tượng nhất đối với mình chính là vai diễn của Robert Angier do Hugh Jackman thủ vai. Hugh đã diễn rất tròn vai khi thể hiện những tâm trạng, những giằng xé của một con người vốn lương thiện bỗng trở thành một kẻ thủ ác luôn chất chứa sự căm hận và đố kị đang trượt dài trên con đường tha hóa. Trên hết Hugh còn thể hiện liền một lúc hai vai diễn với hai nét tính cách hoàn toàn khác nhau mà ta những tưởng như là có 2 người đóng vậy. Và Christian Bale cũng không phải là một ngoại lệ. Anh đã thể hiện thành công một Borden tài năng, cao ngạo và cũng không kém phần xảo quyệt. Vai diễn Olivia ( do Scarlett Johanson) thủ vai cũng là một vai diễn khá thú vị. Olivia là phụ tá cùng Angier biểu diễn những trò ảo thuật trên sân khấu. Cô là một cô gái lương thiện, thông minh và chung thủy nhưng chính cuộc đấu tranh không hồi kết giữa hai ảo thuật gia, và cũng là hai người đàn ông mà cô đem lòng yêu thương đã reo giắc cho cô những đau khổ, tuyệt vọng. Vẻ đẹp trong nhân cách của cô gái này và những câu thoại khá sâu cay cũng chính là điều làm nên cái hay của bộ phim.
Và nội dung phim, thì khỏi nói chắc ai cũng có thể nhận ra, nhấn mạnh vào cái giá của tham vọng và sự đố kị, đề cao giá trị của tình yêu, lòng trắc ẩn và vị tha giữa con người với con người. Và có lẽ để bàn sâu hơn về nội dung thì mình chỉ có thể nhắc đến ở phần “Spoiler”
Và sau đây mình xin bàn sâu hơn đến nội dung phim dựa trên một số phân đoạn mà mình cực thích.Trước hết, phim đã nhấn mạnh đến một thực trạng vô cùng sâu cay: Tham vọng và đố kị luôn và sẽ mãi là con dao hai lưỡi, nó có thể nâng con người lên cao nhưng tới một thời điểm nhất định nó sẽ đẩy ta xuống vực thẳm của sự thất bại. Angier biết mình không thể trở thành một ảo thuật gia tài năng như Borden, nhưng anh ta vẫn luôn ấp ủ một khát khao phi hiện thực là vượt mặt Borden và nhấm chìm Borden trong sự thất bại. Tất cả khát khao đó trước hết bắt nguồn từ lòng căm hận. Angier căm hận Borden vì chính sự cao ngạo và cầu toàn của anh ta đã cướp đi cô gái mà Angier yêu thương, hay chính là cướp đi cuộc sống và niềm hạnh phúc duy nhất của Angier. Cùng với đó là lòng ghen ghét và đố kị đến điên loạn. Angier đố kị Borden bởi anh ta có một cuộc sống hạnh phúc với một người vợ đẹp và một cô con gái đáng yêu trong khi bản thân Angier phải sống trong cô độc, và Borden mang trong mình một tài năng thiên bẩm về ảo thuật mà Angier có cố gắng đến đâu cũng không thể có được. Và từ lòng căm hận, đố kị đó, Angier sinh tham vọng, anh tham vọng được vượt mặt Borden, trở thành ảo thuật gia hàng đầu thế giới và được hưởng thụ cái hào quang của một người nghệ sĩ ảo thuật, đó là được nghe những tràng vỗ tay, những tiếng hét tán tụng và vẻ mặt sững sờ lẫn thán phục của khán giả. Niềm tham vọng ấy đã đẩy Angier vào con đường tha hóa, tội lỗi, từ một người đến con chim nhỏ còn không nỡ giết, Angier sẵn sàng chôn sống người để moi ra được bí mật của Borden, sao chép những trò ảo thuật của Borden và nhờ sự giúp đỡ của Cutter ( một cố vấn ảo thuật đại tài) thay đổi và nâng tầm trò ảo thuật đó lên hòng vượt mặt Borden, và cuối cùng là rắp tâm lập nên một âm mưu đẩy Borden vào chỗ chết. Quả thực, âm mưu của Angier được đầu tư rất kỹ càng đến từng chi tiết, nhưng rốt cuộc, trước bộ óc tính toán đại tài của Borden, Angier vẫn thất bại. Angier quá đề cao những điều lớn lao vĩ đại để rồi bỏ quên những chi tiết nhỏ nhặt nhất, bản thân anh ta phải tự nhân bản mình và trải qua những đau đớn sau mỗi lần chết đi sống lại để đạt được cái đích mà mình mong muốn thì khi đó, Borden vẫn nhởn nhơ với hai danh tính, hai thân dạng khác nhau. Borden có một người anh em sinh đôi, và họ thay phiên nhau quản lý cuộc sống của cùng một người. Thực sự thì đến giây phút cuối cùng, mình hoàn toàn choáng ngợp trước sự xuất hiện của cùng lúc 2 Borden, một Borden đã ra pháp trường và sẵn sàng để cuộc đời mình bị tước đoạt, còn một Borden trở lại để kết liễu cuộc đời Angier. Quả thực đó là một màn ảo thuật đại tài, một sự tính toán tỉ mỉ mà đơn giản đến độ không ai ngờ tới. Rốt cuộc, Angier là người thua cuộc bởi anh ta đã mất tất cả, sự nghiệp, tình yêu và thậm chí là cả mạng sống của mình.
Nhưng thực ra, nếu ngẫm sâu hơn thì trong cuộc chiến không cân sức này, không ai là người thắng cuộc cả. Angier ra đi với một phát súng và một sự nghiệp bị sụp đổ, còn Borden thì ở lại trong sự bơ vơ khi người vợ mà anh rất mực yêu thương, người em trai song sinh trung thành đã ra đi vĩnh viễn. Chính những mất mát ấy đã khiến ta hiểu ra rằng, lòng tham vọng của con người là một thứ hiểm họa khôn lường bắt ta phải đánh đổi rất nhiều thứ. Cuộc sống luôn phải đấu tranh, thù hận và đố kị không bao giờ có thể là một cuộc sống viên mãn cả. Màn ảo thuật của chính hai bị ảo thuật gia đại tài đó đã kết thúc nhưng màn cao trào của nó vẫn để lại tiếng vang muôn thuở khắc sâu vào tâm khảm nhiều người.
-
Bộ phim mới của đạo diễn Steven Spielberg kể lại một mặt trận khác trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra giữa giới báo chí với chính phủ Mỹ ở phía bên kia bờ Thái Bình Dương.
Năm 1966, chuyên gia phân tích quân sự Daniel Ellsberg (Matthew Rhys) được cử tới Việt Nam để khảo sát thực trạng cuộc chiến đang đi đến hồi khốc liệt của quân đội Mỹ. Tận mắt chứng kiến thương vong ngày một gia tăng của binh lính nước nhà, ông nhanh chóng nhận ra đây thực tế là trận chiến vô vọng đối với chính phủ xứ sở cờ hoa.
Nhận định ấy được chính Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara (Bruce Greenwood) thừa nhận với Daniel Ellsberg và Tổng thống Lyndon Johnson trên chuyến bay trở về quê hương.
Song, trước sự ngạc nhiên của Ellsberg, McNamara ngay khi đặt chân xuống phi trường đã thản nhiên tuyên bố với báo chí rằng chiến trường khu vực Đông Nam Á vẫn đang tiến triển theo chiều hướng có lợi cho nước Mỹ, và chiến thắng cuối cùng là mục tiêu hoàn toàn khả thi.
Sau vài năm suy nghĩ về những người lính Mỹ bỏ mạng vô nghĩa trên chiến trường Việt Nam vì hàng loạt lời nói dối trắng trợn và để giữ thể diện cho các quan chức như Robert McNamara, Daniel Ellsberg quyết định phải để công chúng biết rõ sự thật rằng họ đã bị chính quyền nhiều đời tổng thống lừa dối hết lần này tới lần khác trong các vấn đề liên quan tới chiến tranh Việt Nam.
Từ viện nghiên cứu quân sự RAND, Ellsberg bắt đầu tuồn ra ngoài hàng nghìn trang tài liệu mật chứa đựng sự thật về cuộc chiến, cũng như sẵn sàng cung cấp chúng cho báo chí để phổ biến rộng rãi tới độc giả nước Mỹ.
Dĩ nhiên, với những nhà báo như Ben Bradlee (Tom Hanks) - Tổng biên tập tờ The Washington Post (hay gọi tắt là The Post), các báo cáo mật của Daniel Ellsberg là cơ hội nghìn năm có một để thực hiện trách nhiệm xã hội của một nhà báo chân chính: đưa sự thật tới công chúng.
Đó cũng là dịp để một tờ báo đang thất thế ở thị trường trong nước như The Post giành lấy độc giả từ nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ hơn rất nhiều như The New York Times.
Sau khi chính tờ The New York Times bị chính quyền Tổng thống Mỹ khi ấy là Nixon kiện ra toà vì dám đăng một phần báo cáo của Daniel Ellsberg với lý do làm lộ bí mật quân sự, Ben Bradlee lại càng có cơ sở để cho xuất bản The Pentagon Papers (Hồ sơ Lầu Năm Góc). Và đó giống như hành động giúp bảo vệ quyền tự do ngôn luận cho báo chí nước Mỹ.
Song, với những người chủ báo như bà Katharine Graham (Meryl Streep) - chủ tịch sở hữu The Post, “đăng hay không đăng” là bài toán hóc búa hơn nhiều. Bà không chỉ có trách nhiệm đối với độc giả giống như Ben Bradlee, mà còn phải tính toán với sinh mệnh của cả tờ báo trong bối cảnh “đứa con tinh thần” mới phát hành cổ phiếu lần đầu, và cần tránh mọi rắc rối chính trị có thể gây tác động tới nhà đầu tư.
Là người phụ nữ đầu tiên làm chủ một tờ báo lớn tại Mỹ - nơi nạn trọng nam khinh nữ vẫn còn rất phổ biến trong thập niên 1960-1970, bà Graham loay hoay đi tìm đáp án dưới sức ép từ những tiếng nói bảo thủ trong ban giám đốc toàn phái mạnh của tờ The Post, và từ nhiều mối quan hệ thân tình mà bà phải mất rất nhiều năm mới có thể gây dựng với giới quan chức, bao gồm cả chính Bob McNamara.
Liên quan tới các sự kiện, nhân vật lịch sử có thật, khán giả có thể dễ dàng đoán ra lựa chọn cuối cùng của Katharine Graham đã gây tác động lớn thế nào tới xã hội Mỹ nói chung, và tương lai của tờ The Post nói riêng.
Tuy nhiên, chặng đường đầy khó khăn đi tới lời giải bài toán “đăng hay không đăng” thì có lẽ chưa nhiều người biết tới. Và đây là phần nội dung chính của The Post - tác phẩm điện ảnh mới nhất đến từ đạo diễn lừng danh Steven Spielberg.
Tác giả kịch bản chính của The Post là nữ biên kịch Liz Hannah. Cô gái 32 tuổi bắt đầu thai nghén bộ phim mang đề tài báo chí sau khi đọc cuốn tự truyện từng giành giải Pulitzer mang tên Personal History của chính Katharine Graham.
Hoàn thành năm 2016, The Post của Hannah nằm trong danh sách những kịch bản triển vọng nhất của Hollywood, và lập tức được nhà sản xuất quyền lực Amy Pascal mua lại rồi chuyển thể lên màn ảnh rộng với đội ngũ làm phim “toàn sao” gồm đạo diễn Steven Spielberg và bộ đôi Tom Hanks - Meryl Streep.
Với chất lượng sản xuất gần như tuyệt hảo dưới bàn tay nhào nặn của Spielberg và bộ ba cộng sự thân thiết của ông là quay phim Janusz Kamiński, nhạc soạn nhạc John Williams, và dựng phim Michael Kahn, The Post đã tái dựng thành công bầu không khí của xã hội, chính trường nước Mỹ những năm 1960-1970.
Nền tảng kỹ thuật vững chắc ấy của bộ phim, cùng sự hỗ trợ để hoàn thiện kịch bản của Josh Singer - người từng giành giải Oscar với một tác phẩm điện ảnh khác mang đề tài báo chí là Spotlight (2015), là những điều kiện không thể thuận lợi hơn để giúp kịch bản ban đầu của Liz Hannah trở nên thăng hoa.
Không phụ lòng mong đợi của người yêu điện ảnh, The Post là bộ phim nói về các nhân vật và sự kiện của hơn 40 năm trước, nhưng vẫn mang đậm tính thời sự nóng hổi, với nhịp phim mạch lạc và tuyến nhân vật rõ ràng.
Cốt truyện vừa mang tính chân thực lịch sử, vừa phản ánh hơi thở hiện đại của xã hội nước Mỹ vốn chưa hết bàng hoàng sau những bê bối liên quan tới chính quyền và giới quân sự bởi các vụ tiết lộ bí mật nhà nước của Chelsea Manning và Edward Snowden, cũng như tình trạng đối đầu căng thẳng kéo dài giữa chính phủ mới dưới thời Tổng thống Donald Trump và báo chí Mỹ với hai tiếng nói tiên phong đến từ chính The Washington Post và The New York Times.
Tuy nhiên, người yêu lịch sử, đặc biệt là những ai quan tâm tới các sự kiện xoay quanh Hồ sơ Lầu Năm Góc - một yếu tố chính dẫn đến việc công chúng Mỹ thực sự quay lưng với chính quyền trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Việt Nam - chưa chắc đã cảm thấy hài lòng với The Post.
Dẫu được thực hiện hết sức nghiêm cẩn, bộ phim lại tập trung vào việc mô tả hình ảnh của Katharine Graham và Ben Bradlee, thay vì nhân vật trung tâm của sự kiện lịch sử là Daniel Ellsberg.
Tất nhiên, không ai có thể phủ nhận rằng Graham và Bradlee đã góp công lớn trong việc đưa Hồ sơ Lầu Năm Góc ra ánh sáng dư luận. Nhưng người phát hiện ra sự dối trá của chính phủ Mỹ, người sẵn sàng gánh chịu nguy cơ bị truy tố tội gián điệp và phản quốc để đưa sự thật tới công chúng, người bất chấp nguy hiểm đi tìm những nhà báo còn lương tri để hợp tác, là Daniel Ellsberg.
Nhưng từng đó rõ ràng là chưa đủ để có thể đánh giá đầy đủ về vai trò của ông đối với tiến trình lịch sử Mỹ, nhất là khi chân dung giản dị của Daniel Ellsberg trong phim bị phủ bóng bởi Graham và Bradlee, đúng như cái cách diễn viên Matthew Rhys hoàn toàn lu mờ trước hai tên tuổi đáng kính bậc nhất Hollywood là Meryl Streep và Tom Hanks.Qua một số phân đoạn ngắn ngủi có sự xuất hiện của Ellsberg trong The Post, khán giả có thể phần nào cảm nhận thấy sự hy sinh vì chân lý của nhà hoạt động phản chiến.
Có lẽ chính vì tầm quan trọng lịch sử vượt trội của kép phụ Daniel Ellsberg mà đạo diễn Steven Spielberg phải dùng tới thủ pháp xây dựng hình ảnh nhân vật một cách kịch tính nhưng gượng gạo, thậm chí là mang hơi hướm tuyên truyền thái quá ở cuối phim khi tờ The Washington Post phải đối diện với phán quyết từ Toà án Tối cao Mỹ, để làm bật lên vai trò của Katherine Graham và Ben Bradlee đối với bối cảnh chung.
Nhưng ngay cả việc sử dụng các thủ pháp điện ảnh đó cũng không thực sự giúp Graham và Bradlee có chỗ đứng vững chắc trong lòng khán giả. Bởi sự phát triển tính cách của bộ đôi không để lại nhiều ấn tượng, nhất là khi người xem “phải” bị động nghe chính họ hoặc người xung quanh giải thích lộ liễu về suy nghĩ và lựa chọn, thay vì “được” chủ động chứng kiến và hiểu lý do của những quyết định ấy thông qua các chi tiết kịch bản tinh tế.
Do đó, nếu so sánh với một tác phẩm tiểu sử - lịch sử nổi tiếng khác của Steven Spielberg là Lincoln (2012), The Post tỏ ra nhỉnh hơn về sự hấp dẫn của nội dung, nhưng lại thua kém hẳn về chiều sâu kịch bản và nhân vật.
Không phải ban biên tập của The Post, mà chính các phóng viên của tờ The New York Times như Neil Sheehan mới là những gương mặt bất chấp sự an nguy của bản thân để nổ phát súng đầu tiên, hỗ trợ Daniel Ellsberg trong cuộc tấn công vào “pháo đài gian trá” của chính phủ Mỹ.Đặc biệt, cách bộ phim đẩy tờ The Washington Post lên tuyến đầu của cuộc chiến bảo vệ quyền tự do ngôn luận trong vụ Hồ sơ Lầu Năm Góc cũng có thể khiến người yêu lịch sử tiếp tục không hài lòng.
Do đó, tuy người ta có thể ca ngợi The Post trong việc đề cao giá trị nhập thế của báo chí trong giai đoạn nước Mỹ gặp nhiều bất ổn dưới thời Tổng thống Donald Trump, nhưng đây không phải là tác phẩm xuất sắc của dòng lịch sử, nhất là nếu đem so sánh với các phim mang cùng đề tài báo chí như All the President’s Men (1976) hay Spotlight.
Dẫu khen hay chê kịch bản của The Post, bất cứ khán giả nào cũng phải thừa nhận rằng Tom Hanks và Meryl Streep đã hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ của họ. Nếu như Ben Bradlee của Tom Hanks thuộc dạng “dễ nhập vai” vì tính cách nồng nhiệt, bùng nổ của nhân vật, thì Streep thêm một lần nữa giải thích lý do tại sao bà lại có nhiều đề cử Oscar đến thế trong sự nghiệp.
Cách diễn kìm nén, sâu sắc của Meryl Streep vừa thể hiện sự do dự, bị động bên ngoài của một Katherine Graham rất phụ nữ, lịch thiệp, vừa khắc hoạ niềm tin sắt đá vào giá trị của báo chí và sự chủ động dần chín muồi bên trong người chủ tờ báo được coi là trụ cột tương lai của nền báo chí chính thống Mỹ.
Meryl Streep khẳng định đẳng cấp diễn xuất với vai diễn mới Katherine Graham.
Có lẽ nếu còn sống, bà Katherine Graham hẳn cũng sẽ hài lòng khi chứng kiến Streep thể hiện hình ảnh bản thân trên màn ảnh. Thông qua nhân vật trong phim, người xem vừa có thể cảm nhận tình yêu mà Graham dành cho The Washington Post - di sản của gia đình bà và cũng là đại diện ưu tú cho quyền tự do ngôn luận của hiến pháp Hoa Kỳ, vừa hiểu rõ sự vươn lên không gì ngăn cản nổi của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
Trong thời buổi nhiễu loạn thông tin với mạng xã hội, với “fake news”, với chủ nghĩa dân tộc và dân tuý tràn lan, công chúng cần nhiều hơn những nhà báo như Ben Bradlee, những chủ báo như Katherine Graham. Bởi chỉ với người sẵn sàng dùng ngòi bút làm vũ khí bảo vệ sự thật như họ, mặt trái của xã hội hay những lời dối trá của người nắm quyền lực mới có thể bị phơi bày.
Tuy không phải là một tác phẩm điện ảnh hoàn hảo, nhưng chắc chắn The Post sẽ góp phần vào việc kêu gọi và khuyến khích cánh nhà báo trở thành những Bradlee mới, những Graham mới, của xã hội hiện đại.
-
Batman là gì ? Câu hỏi đó liên tục xuất hiện trong đầu tôi khi đọc truyện cũng như khi xem bộ phim về kị sĩ bóng đêm này. "Người dơi chưa bao giờ là một anh hùng mà Gotham cần, anh ta là một hiệp sĩ mà Gotham xứng đáng." Một lần nữa Christopher Nolan phải khiến chúng ta không thể rời mắt khỏi Batman trong cuộc đối đầu với hai phản diện là Joker và Harvey Dent hay còn được biết đến là Two-Face. Hơn hết, đó còn là cuộc chiến của công lý và cái ác.
I/ Sơ Lược Nội Dung
Thời điểm bắt đầu của bộ phim khi một vụ cướp nhà băng đang xảy ra. Những tên cướp che khuôn mặt bằng chiếc mặt nạ hề, bọn chúng là tay sai của Joker. Mục tiêu của đám tay sai này chính là số tiền trong két sắt, nhưng nào ngờ kẻ cầm đầu lại đang len lỏi trong đám này. Có gì đó không đúng ? Từng tên một thanh toán lẫn nhau bởi chúng chỉ muốn số tiền đó cho riêng mình và không muốn chia cho kẻ nào khác. Mr. J là một con cáo ranh ma, hắn ta là người duy nhất còn sống sót và tẩu thoát khỏi ngân hàng cùng số tiền đó.
Harvey Dent, một công tố viên trẻ tuổi , người sẽ mang đến ánh sáng cho Gotham hoặc có thể trở thành kẻ đem bóng tối che đi cả thành phố. Anh ta xuất hiện là một người cương trực, muốn đem lại công lý cho người dân và thanh tẩy lũ tội phạm. Từng kẻ một bị anh ta lật tẩy. Hơn một nửa tội phạm của Gotham đã bị chính tay Harvey tống giam. Có thể nói, những gì mà tay công tố viên này đang làm khiến thành phố trở nên tươi đẹp hơn bao giờ hết. Anh ta chính là sứ giả ánh sáng mà Gotham cần, người anh hùng này dám đứng lên chống lại tội ác mà không cần phải che mặt như kị sĩ bóng đêm. Bruce Wayne đã bị thuyết phục bởi lí tưởng của Harvey, anh ta muốn giúp đỡ sứ giả ánh sáng này bằng tổ chức một cuộc gặp mặt những người bạn của Bruce để gây quỹ trợ giúp Harvey Dent. Tiền chưa bao giờ là vấn đề với Bruce. Có lẽ, vấn đề của họ không nằm ở tiền bạc nữa mà là những kẻ tội phạm nguy hiểm vẫn đang nhởn nhơ ngoài kia.
"Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao." Một mình Harvey hay là Batman hoặc là Jimmy chưa bao giờ là đủ để cứu lấy Gotham. Với mục tiêu cứu lấy thành phố, họ đã tìm tới nhau. Chúng ta phải công nhận rằng chất xúc tác hóa học của bộ ba Harvey-Jim-Batman được Christopher Nolan xây dựng thật sự tốt. Họ cùng nhau giải quyết từng vấn đề một của Gotham. Lật tẩy lũ tham ô, Lau cùng đồng bọn với cáo buộc: 712 tội tống tiền, 849 tội gian lận tiền, 246 vụ lừa đảo, 87 vụ mưu sát, 527 vụ cản trở thi hành pháp lý. Tổng cộng 549 tên tội phạm đã bị bộ ba này đưa ra trước pháp luật thi hành chỉ sau một đêm. Dường như đã có một tia sáng của hi vọng mở ra cho người dân thành phố Gotham, một ánh bình minh phía sau bị cơn mưa che khuất. Liệu kế hoạch có đi theo đúng hướng ? Có một kẻ đứng ngoài mọi sự kiểm soát đang từ từ phá hỏng tất cả.
Đạo diễn Christopher Nolan cùng đồng nghiệp muốn truyền tải thông điệp vĩ đại hơn so với phần phim trước. Khi mà công lý đã bắt đầu nặng hơn về một bên, sẽ có kẻ ở phía bên kia cân bằng lại nó. Cán cân xã hội bắt buộc phải được cân bằng là thông điệp mà nhà làm phim muốn truyền tải ở hồi 2 và 3 của bộ phim. Kĩ sĩ của màn đêm cần một kẻ thù tương xứng để khiến công lý phải chao đảo, một người có thể khiến ánh sáng của hi vọng bị che lập bởi bóng tối của tuyệt vọng, hắn ta chỉ có thể chính là Joker.
Nữ thẩm phán, ủy viên cảnh sát và Harvey Dent, những người liên quan đến vụ án bắt giam những tên tội phạm đều rơi vào danh sách những kẻ cần bị trừ khử của Joker. Từng người một bị chính tay Joker sát hại, duy nhất chỉ còn Harvey Dent may mắn được Bruce cứu sống. Kế hoạch của những người anh hùng Gotham một lần nữa bị Joker phá hỏng. Họ buộc phải hành động với một kế hoạch mới ngay lập tức. Trong đám tang của ủy viên cảnh sát, khi thị trưởng đang đọc diễn văn, Jim Gordon đã bắt đầu đánh hơi được mối nguy hiểm rình rập. Cảnh sát trưởng Gotham đã đỡ cho thị trưởng một viên đạn, cứu lấy anh ta một mạng sống. Nhưng đánh đổi lại, chúng ta đã mất đi vị cảnh sát đáng kính ấy và Rachel đã bị Joker bắt cóc. Liệu có thật sự Jim Gordon đã ra đi, hay đây chỉ là một nước cờ trong kế hoạch của cả ba người anh hùng ?
Mất mát là quá nhiều. Joker một lần nữa ghi điểm cho phe bóng tối. Động cơ của kẻ điên loạn này thực sự không phải vì tiền, hắn chỉ muốn đốt cháy Gotham và lật tẩy bộ mặt đen tối của thành phố này và những người hùng của nó rằng mọi thứ không hề tốt đẹp như chúng ta chứng kiến. Gã hề chưa bao giờ là một kẻ mưu mô, hắn just do it ! Có thể thấy rằng thứ đáng sợ nhất đó là một kẻ không gì có thể kiểm soát, một kẻ không thể bị đoán được trước đường đi nước bước bởi hắn không hề có kế hoạch. The Dark Knight và Harvey chắc chắn sẽ đáp trả bằng một cú đấm đau đớn nhất vào mặt Joker. Và họ đã thành công bắt được hoàng tử hề. Nhưng tới đó vẫn chưa bao giờ là kết thúc.
II/ Nhận định cá nhân
Một lần nữa chúng ta phải ngả mũ thán phục trước cái tài của Christopher Nolan. Những thông điệp ông gài gắm trong bộ phim khiến mình phải suy nghĩ rất nhiều. Cán cân xã hội luôn phải cân bằng do đó chúng ta luôn thấy những cái tốt-cái xấu, của trật tự công lý-hỗn loạn, hi vọng-tuyệt vọng. Cho dù Joker có thất bại khi không lật tẩy được bộ mặt của Gotham, mà ở ngoài kia những người dân vẫn là những người tốt sẵn sàng vì mục đích mỗi sinh mạng đều thiêng liêng mà không giết hại lẫn nhau. Nhưng Joker đã thành công trong việc đưa Harvey Dent xuống vũng bùn tội ác cùng mình, một người được cho là hiệp sĩ, là ánh sáng của Gotham lại vì báo thù mà lấn át lí trí. Two-Face đã cướp đi năm sinh mạng, điều đó đủ để làm cho một hình tượng cao đẹp đã bị tha hóa bởi cái ác một cách dễ dàng như thế nào.
Heath Ledger thật xứng đáng với tượng vàng Oscar năm ấy. Một Joker mà mình cho rằng không một hình tượng phản diện nào có thể sánh bằng. Mỗi khi có sự xuất hiện của gã hề trong phim, mình chỉ biết thốt lên "Oh my god". Hắn ta thực sự điên loạn và nguy hiểm. Tên điên ấy đã cướp đi Rachel khỏi Bruce và Harvey. Tên hoàng tử hề ấy còn khiến cả thành phố Gotham chìm trong hoảng sợ không ít lần. Hắn hủy hại cả bộ ba anh hùng khi ấy của Gotham, hắn tha hóa Harvey vì biết rằng anh ta là kẻ giỏi nhất trong cả ba người. Heath Ledger đã làm mình nhớ đến một Joker của thời kì New 52 trong DC Comics. Trong đầu truyện "Death of the family" do Scott Snyder chắp bút, chúng ta một lần nữa được chứng kiến một Joker điên loạn và đáng sợ tới mức ám ảnh như nào, một mình hắn đã hủy hại cả Bat Family chỉ với mục đích muốn Batman trở nên mạnh mẽ hơn. Mình khẳng định rằng sự vĩ đại của những phản diện của bộ phim 2008 này, ấn tượng hơn rất nhiều so với nhiều phản diện của những phim siêu anh hùng hiện đại. Cho dù đều là phản diện của một phần phim nhưng sự đáng sợ và nguy hiểm của Joker khi hắn có thể làm cho Batman phải đau đớn sau cái chết của Rachel, hắn còn khiến cả Gotham phải quay lưng lại với Người Dơi. Mình xin khẳng định Joker của phần phim này vĩ đại hơn và đáng sợ hơn rất nhiều so với Thanos hay là The Riddler của bộ phim "The Batman".
Ngoài ra, các cảnh flash back không còn được nhà làm phim sử dụng nhiều như ở phần "Batman Begins" nhưng thay vào đó chúng ta được chiêm ngưỡng những góc quay tạo nên các cảnh có thể nói là iconic cho bộ phim.
Hay như trong phân cảnh này, arc shot được sử dụng để mô tả cuộc hội thoại của bộ ba nhân vật Harvey-Jim-Bruce. Cuộc đối thoại liên tục giữa bọn họ đồng thời, chuyển động camera chỉ dừng lại khi Batman đưa ra một giải pháp. Chúng ta có thể cảm nhận được không khi căng thẳng trong cuộc đối thoại này, một bầu không khí ngột ngại tại Gotham City. Họ đang phải tìm cách để đưa những tên tội phạm ra trước ánh sáng của công lý.
Tracking Shot thường được các nhà làm phim sử dụng rộng rãi trong bộ phim của mình để người xem có thể theo dõi diễn biến nhân vật trong một góc nhìn đối mặt. Ở đây, ta thấy được rõ độ điên loạn của Joker khi hắn đang tận hưởng khoảnh khắc hắn cho nổ tung vả bệnh viện trung tâm thành phố Gotham. Điều mình muốn nói ở đây, sự điên rồ của gã hề không chỉ dừng lại hắn có thể làm gì mà hắn có thể mang lại điều gì đáng sợ cho người dân.
Bên cạnh đó, các tuyến nhân vật đều được khai thác một cách triệt để. Duy nhất, mình chỉ đáng tiếc cho vai Rachel khi cô không thực sự để lại cho mình ấn tượng như phần phim trước. Lucius Fox và quản gia Alfred một lần nữa ghi điểm trong lòng mình, cùng nhau bọn họ đã đóng góp cho Bruce trở thành kị sĩ bóng đêm hoàn thiện hơn bao giờ hết. Các ác nhân đều được xây dựng một cách hoàn hảo, những kẻ ác chưa bao giờ phải khiến ta không run sợ trong những lần xuất hiện của bọn chúng.
Một lần nữa, mình tin rằng "The Dark Knight" là một biểu tượng về phim Batman nói riêng và của dòng phim siêu anh hùng nói chung. Có lẽ cho tới này, khó có một bộ phim nào qua được tượng đài này.
-
Để đối phó với tên bạo chúa bất tử Vandal Savage một cách âm thầm , Amanda Waller phải cần đến những kẻ nguy hiểm nhất ( và có lẽ là cặn bã nhất) Trái Đất. Bộ phim sẽ có sự góp mặt của các "đặc vụ miễn cưỡng" quen thuộc như Deadshot, Harley Quinn, Captain Boomerang và Killer Frost. Ngoài ra, chúng ta còn sẽ được chứng kiến một đội hình với những nhân tố mới lạ như Zoom, Copperhead và Bronze Tiger...
-
Nếu tôi chỉ còn 2 tiếng để sống thì tôi chắc chắn sẽ chọn ngồi xem một bộ phim đó là bộ phim Batman Begins do Christian Bale thủ vai nhân vật chính. Phải gửi lời cảm ơn chân thành nhất nhất tới đạo diễn Christopher Nolan bởi nhờ ông đã cho tôi tình yêu với Batman từ khi còn là cậu bé hồi đó. Để rồi đến lúc lớn hơn khi xem lại những tác phẩm của ông, bao nhiêu kí ức lại ùa về, nước mắt tôi cứ tự rơi bởi vì chính Batman lúc đó là thứ tôi đi tranh luận với mấy thằng cu cùng khu rằng ai là người mạnh hơn, chính Batman đó là người xuất hiện trên chiếc tivi đầu tiên mà nhà tôi có được, hồi xưa nhà tôi khá khó khăn. Lan man thế là dài rồi ! Giờ tôi sẽ đưa các bạn quay về 2005, thời điểm một biểu tượng của lý tưởng công lý đã được lên màn ảnh một lần nữa .
I/ Sơ lược nội dung
Điểm khởi đầu cho mạch kể chuyện là khi Bruce bị tống giam trên một hòn đảo xa, lí do tại sao anh ta lại ở đây, chúng ta sẽ đề cập ở sau. Sau khi bị sáu tên tù nhân vây quanh, anh ta không hề sợ hãi mà tẩn luôn cả sáu tên này khiến các cai ngục phải lôi Bruce vào phòng giam để bảo vệ... mấy tên tù nhân kia. Trong căn phòng này, Bruce gặp được Ducard, hắn ta ngỏ ý muốn đưa anh ra khỏi đây để giúp anh chống lại nỗi sợ và trở thành một phần của tổ chức áo đen.
Nói không ngoa thì dòng thời gian trong những tác phẩm như Inception, The Prestige,... của đạo diễn Christopher Nolan là một thứ khác biệt so với phần còn lại của thế giới, ông luôn biết cách gài gắm những đoạn flashback hợp lý trong cách kể chuyện của mình, vừa đủ để khán giả bắt kịp được nội dung, không quá dài để khiến mạch truyện bị kéo dài và chán nản. Thời thơ ấu, Bruce đã bị rơi xuống một cái giếng. Tại đây, một đàn dơi đã lao ra khiến Bruce nhỏ sợ hãi và để lại chứng sợ dơi trong tâm trí cậu bé. Đúng vậy đấy, tại sao chúng ta lại vấp ngã ? Đó là để chúng ta học cách đứng lên. Trong buổi nhạc kịch ngày hôm đó, do đã nhìn người đóng vai dơi đã làm cậu hoảng sợ với nỗi sợ dơi của mình. Bruce đã cầu xin bố mẹ rời khỏi khán phòng sớm. Bi kịch bắt đầu ở đây. Tên trộm Joe Chill đã chĩa súng về phía ông bà Wayne để cướp tiền nhưng ngày hôm đó, hắn đã cướp đi nhiều thứ hơn là tiền. Hai phát súng là hai sinh mạng bị lấy đi, hắn bỏ mặc lại cậu bé Bruce Wayne và chạy trốn. Đứng lên sau sự mất mát đó, chàng trai đã chọn mang trong mình ngọn lửa của tức giận. Anh ta khao khát công lý và chỉ muốn báo thù cho cha mẹ mình, nhưng đáng tiếc Joe Chill đã ra đi trước khi anh kịp ra tay. Nhờ có cô bạn thân Rachel Dawes tặng cho hai cú tát mà anh đã thức tỉnh ra rằng, chúng ta giết người vì tức giận đó là báo thù. Bruce Wayne khi đó đã nhận ra rằng mình chỉ muốn báo thù mà không thực sự muốn công lý. Do đó, anh bắt đầu từ việc thâm nhập vào hệ thống thế giới ngầm để hiểu cách thức hoạt động của tội phạm. Không may trong một lần chuyển hàng, anh đã bị liên đới và bị đưa đến nhà tù, đó là lí do tại sao Bruce xuất hiện ở đầu phim lại ở trong một nhà tù.
Trở lại với hiện tại, Henri Ducard dưới trướng của một trong những phản diện có thể nói là nguy hiểm cho Batman cả lên phim lẫn trong truyện đó là Ra's al Ghul. Hắn ta đang dạy cho Bruce cách chế ngự nỗi sợ không để nó nuốt chửng lấy anh, Henri muốn biến anh trở thành người cầm đầu cho tổ chức áo đen, thanh trừng triệt để toàn bộ tội lỗi trên thế giới bằng bất cứ phương thức nào. Xung đột tư tưởng cũng vì thế mà được đẩy lên cao khi Henri cho rằng muốn thanh trừng toàn bộ tội phạm thì khoan dung với tội ác là không thể tồn tại, nếu ta khoan dung là một lần nữa nhiều sinh mạng nữa bị cướp đi khi bộ máy quyền lực ngày càng mục ruông và không còn khả năng thi hành pháp luật. Ngược lại, với Batman trong tư tưởng của anh thì mỗi sinh mạng đều quý giá cho dù có là tội phạm đi chăng nữa. Xung đột được đẩy lên cao nhất, Henri cho rằng Gotham đã tới lúc bị thanh tẩy, nơi này đã bị cái ác tha hóa tới mức không thể cứu vớt. Bruce quyết định chọn cách phản bội lại Henri và thiêu cháy cả tổ chức. Bỏ lại nơi xứ lạnh này, anh trở về dinh thự nhà Wayne để bắt đầu lấy lại tất cả.
Để có thể cứu lấy thành phố đang đầy rầy những tội ác, Bruce phải trở thành một biểu tượng bởi chỉ có biểu tượng là không thể bị làm cho dơ bẩn, nó là bất tử. Batman đã được khai sinh ngay khoảnh khắc này, biểu tượng của công lý Gotham chưa bao giờ rực rỡ hơn hết.
II/ Nhận định cá nhân
Mình quyết định sẽ chỉ giới thiệu nội dung bộ phim tới đó thôi để mọi người có thể tự mình trải nghiệm bộ phim này bởi nó rất đáng xem dù chỉ là một lần. Với nhịp phim tương đối đều lại là thứ khiến chúng ta bị nhàm chán nhiều lúc. Cho dù có như vậy, nhưng thông điệp mà đạo diễn Christopher Nolan muốn truyền tải đi vẫn được triển khai rõ ràng. Từng manh mối được gài gắm tưởng chừng như không liên quan, sau cùng lại được móc nối lại với nhau một cách có logic và khiến mình phải ồ lên khi ngẫm lại. Mình xin khẳng định rằng tới giờ mình vẫn chưa hiểu hết những hình ảnh ẩn dụ trong bộ phim bởi mình còn rất non trẻ và phải học hỏi rất nhiều, nói thẳng ra là mình ngu. Mình chỉ đam mê viết bài để lan tỏa tới mọi người những gì mình yêu thích và những gì mình cho là tốt đẹp.
Cứ cho mình là thằng ngu cũng được nhưng các bạn không thể phủ nhận được bộ phim vào năm 2005 này là một tác phẩm hay hơn rất nhiều tác phẩm siêu anh hùng của kỉ nguyên hiện đại, kể cả là phim The Batman của Matt Reeves. Trong Batman Begins, mặc dù cũng xây dựng nhiều tuyến nhân vật nhưng tuyến nào cũng đều có vai trò móc xích với nhau và được giải quyết một cách hiệu quả. Ví dụ, ở phe phản diện, Carmine Falcone là một tay tội phạm tàn bạo, hắn ta đã thâu tóm đến một nửa thành phố Gotham, không một ai dám động tay vào hắn. Từng hành động một đều toát lên vẻ nguy hiểm của một kẻ máu lạnh và hắn ta là một mối đe dọa đúng nghĩa cho Batman. Công lý phải được thực thi trước khi Gotham trở thành thành phố tội lỗi do đó Batman đã phải tìm cách xử lý hắn ta đầu tiên. Ngược lại trong The Batman, Carmine Falcone chỉ nguy hiểm qua lời kể của người khác, xây dựng quá nhạt nhẽo và chẳng để lại dấu ấn thực sự gì cho mình. Đó chỉ là một ý nhỏ mình muốn nói rằng The Batman không thực sự hay như người ta tưởng.
Trong khoản xây dựng nhân vật của bộ phim thực sự đáng khen, bên cạnh nhân vật chính hay những gã ác nhân, mình còn thực sự ấn tượng với vai bác quản gia Alfred của Michael Caine. Một người đã che chở cho nhà Wayne sáu đời. Hai từ "trách nhiệm" là câu trả lời của ông khi có ai hỏi tại sao ông lại gắn bó đến như thế, đây có phải là gia đình của ông đâu. Alfred đã thay mặt cho ông bà Wayne để làm người cha che chở cho Bruce, đưa cậu ta đến đúng thế giới quan của mình. Ngoài ra, Lucius Fox- một nhân vật hoàn toàn tách biệt so với trong nguyên tác lại có đóng góp không hề nhỏ giải thích tại sao Batman có được những món "đồ chơi" của mình, Bruce cần một người giúp đỡ để có thể hỗ trợ về kĩ thuật và y tế những phút lâm nguy. Lucius được xây dựng hợp lý là người giải quyết được những vấn đề đó.
Bên cạnh có một mặt nội dung được xây dựng chất lượng thì mặt hình ảnh cũng phải đề cập đến bởi phần hình ảnh trong Batman Begins vô cùng chân thực, tông màu có phần tươi sáng xen lẫn u tối bởi Nolan, ông thường ưa thích việc quay toàn bộ bằng cảnh thực và hạn chế việc sử dụng phông xanh, những hiệu ứng khi gặp phải những nạn nhân bị dính thuốc của Scarecrow cũng đủ làm chúng ta phải ám ảnh, sợ hãi. Các góc quay luôn được sử dụng một cách đa dạng, và hợp lý chủ yêu mình thực sự ấn tượng với tracking shot trong phần phim này khi bất kể những màn nhào lộn hay những cảnh bay xuống của Batman đều giúp mình cảm nhận được góc nhìn nhân vật lúc đó. Mình là người yêu thích những cái gì chân thực nhất do đó phần hình ảnh của bộ phim mình không chê ở chỗ nào mà đánh giá nó rất cao.
Cuối cùng, mình tin rằng một bộ phim hay là một bộ phim cho người xem cái họ cần chứ không hề là cái họ muốn. Batman Begins đã làm tốt điều đó. Không biết rằng bao lâu nữa chúng ta sẽ đón nhận một tác phẩm nào tuyệt vời được như này nữa.
-
Nội dung phim này đánh dấu phần kết của hành trình Saga Skywalker. Đây là nơi diễn ra những trận chiến quyết định, nơi tự do được đấu tranh và những huyền thoại mới được sinh ra.Sau nhiều thập kỷ của cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối, cuộc đối đầu cuối cùng giữa Quân Kháng Chiến và Tổ chức Đệ nhất đã đến. Trận chiến này không chỉ xác định số phận của thiên hà, mà còn đại diện cho sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác.Các anh hùng như Rey, Finn, Poe Dameron cùng với những người bạn đồng hành, dẫn đầu cuộc kháng chiến cuối cùng. Họ phải đối mặt với những thử thách đáng gờm và đặt cược là tự do của cả thiên hà. Trong cuộc chiến này, họ sẽ phải vượt qua nỗi sợ hãi, hối tiếc và đối mặt với sức mạnh tối tăm của Tổ chức Đệ nhất.Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối mang theo hy vọng và sự đấu tranh. Nó là nơi các huyền thoại mới được sinh ra, các anh hùng nổi lên và truyền cảm hứng cho thế hệ sau. Đây là cuộc chiến cuối cùng để xác định tương lai của thiên hà và tạo nên những kết thúc cho các nhân vật chúng ta yêu thích.Phần kết của Saga Skywalker là một chương trình hoành tráng, nơi câu chuyện được đóng gói và kết thúc một cách thích hợp. Nó đánh dấu một sự kết thúc cho thời đại của các hiệp sĩ Jedi và Sith, và mở ra một trang mới trong lịch sử thiên hà.
-
Không cần phải bàn cãi nhiều, sau thành công của Kingsman: The Secret Service, chắc chắn phần phim thứ hai Kingsman: The Golden Circle sẽ là tâm điểm của mọi sự chú ý và mong chờ của cả các fan hâm mộ và giới phê bình, lướt một vòng các chuyên trang như Metacritc, Rotten Tomatoes, điểm số của Golden thấp tệ hại với những ý kiến trái chiều. Tuy nhiên chỉ sau khi được tận mắt thưởng thức và tận hưởng bộ phim khán giả sẽ nhớ đến một điều, rằng không gì là không thể và bất cứ trường hợp nào cũng có ngoại lệ. Và đối với Kingsman: The Golden Circle thì điểm số của các nhà phê bình là ngoại lệ, Golden Circle là bộ phim giải trí tuyệt vời, hài hước và ý nghĩa.
Nội dung chính của The Golden Circle được bắt đầu ngay sau khi các sự kiện của Kingsman: The Secret kết thúc. Lúc này Eggsy đã trở thành một điệp viên chính thức của tổ chức Kingsman. Trong một lần tình cớ, Eggsy đã đối đầu với Charlie – ứng viên cũ của Kingsman, kẻ bị loại do không đủ tố chất và năng lực. Lúc này Charles trở nên nguy hiểm hơn, hắn còn nhận được sự giúp đỡ từ một nhóm người bí ẩn. Sau một hồi vật lộn, Eggsy đã cắt đuôi được Charlie tuy nhiên cậu không ngờ rằng việc này đã được lên kế hoạch tính toán từ trước. Điều tra các chi tiết và manh mối, tất cả đều dẫn đến một tổ chức tội phạm buôn bán ma túy mang tên The Golden Circle. Tất cả các cơ sở và đại bản doanh của Kingsman đều bị tấn công, các đồng nghiệp của Egsy đều thiệt mạng, chỉ có Eggsy và Merlin may mắn sống sót. Cả hai đã cùng phải đến Mỹ và tìm sự cứu trợ của những người anh em – tổ chức Statesman – tổ chức điệp viên độc lập của Mỹ với mô hình giống Kingsman. Tại đây, Eggsy và Merlin đã gặp lại Harry nhưng lúc này trí nhớ của ông đã bị mất tạm thời, cả 2 cùng vừa phải tìm kiếm manh mối và thông tin về tổ chức Golden Circle, vừa phải tìm cách lấy lại ký ức cho Harry. Hóa ra người đứng sau tất cả mọi chuyện là Poppy – một nữ thiên tài, một kẻ tâm thần – người điều hành tổ chức buôn bán ma túy lớn nhất thế giới. Poppy có một kế hoạch vô cùng nguy hiểm và thâm sâu, ngay cả Tilde – người mà Eggsy yêu thương nhất cũng rơi vào vòng nguy hiểm, lúc này Eggsy phải nhanh chóng tìm ra chân tướng sự việc để cứu lấy Tilde và giải cứu thế giới, cậu phải đối mặt với kẻ thù nguy hiểm, mặt khác phải giúp đỡ Harry mới bình phục – trạng thái cơ thể chưa được hồi phục…
Nhìn qua, thì nội dung của The Golden Circle không khác gì những bộ phim hành động theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân hay các phim có đề tài điệp viên khác. Và đúng như thế, The Golden Circle đi theo một mô típ chung, một cách tiếp cận khá phổ biến với khán giả, tuy nhiên tất cả không chỉ dừng ở đó. Đoạn trailer của bộ phim đã thành công khi chỉ đưa ra những bề nổi của bộ phim, buộc khán giả phải tự đào sâu và tìm hiểu những tình tiết bí ẩn, tự cởi bỏ những nút thắt. Một bộ phim với mô tuýp quen thuộc thì có gì hấp dẫn? Nếu bạn nghĩ The Golden Circle chỉ có nhiêu đó thì bạn đã lầm, chuyến phiêu lưu của Eggsy lần này giống như một con búp bê Matryoshka của Nga vậy, khán giả nghĩ hướng đi của phim như sẽ xảy ra như thế này nhưng không phải nó sẽ đi theo hướng hoàn toàn ngược lại, càng về sau các tình tiết và các thông tin nhiễu càng nhiều khiến khán giả không biết kết cục của cuộc chiến sẽ đi về đâu. Việc suy đoán tình tiết phim cũng giống như việc mở con búp bê Nga kia ra vậy, bên trong một con lớn sẽ có một con nhỏ, và cứ như thế dần dần sẽ dẫn đến con nhỏ nhất. Bộ phim cũng như vậy phát triển với toàn cảnh và bối cảnh lớn nhưng càng đi sâu lại càng bất ngờ khó đoán. Nhìn chung cốt truyện được xây dựng khá tốt. Tuy nhiên vì chọn hướng tiếp cận khán giả quá quen thuộc nên ban đầu sẽ tạo cho khán giả cảm giác khá là nhàm chán và hao hao với vô số các bộ phim khác, việc gây nhiễu thông tin cũng khiến khán giả bị loạn, quá nhiều tình tiết chi tiết thừa thãi và không cần thiết được đưa ra với mục đích đánh lừa khán giả nhưng xem ra lại không thành công với những khán giả tinh ý.
Kịch bản của bộ phim chỉ dừng lại ở mức khá, cốt truyện rành mạch, rõ ràng, có cao trào nhưng cũng có điểm nhấn. Xuyên suốt 2 tiếng 30 phút khán giả không thể nào rời mắt ra khỏi màn hình vì nhịp phim rất nhanh, chỉ cần lơ là cũng có thể bỏ qua những thông tin quan trọng. Đây là điểm cộng dành cho Kingsman: The Golden Circle, sau một mùa hè với những bộ phim hành động bom tấn với chất lượng vô cùng đáng thất vọng thì The Golden Circle chính là món ăn mà những người hâm mộ của thể loại phim hành động mong chờ. Kịch tính, hồi hộp là những gì có thể nhận xét về tình huống phim, các xây dựng tình huống tuy không có gì quá đặc sắc nhưng cũng đủ cuốn khán giả theo bánh lăn của nó. Điểm yếu của kịch bản chính là sự kế nối giữa các chi tiết và tính logic của các tình tiết. Có lẽ do bản phim gốc dài tới gần 4 giờ đồng hồ nên khi ra rạp nhiều tình tiết phải cắt đi nên khá nhiều trường đoạn làm khán giả cảm thấy hơi hẫng. Quá nhiều cốt truyện phụ không cần thiết, ví dụ như sự xuất hiện của chính phủ Mỹ hay lễ hội âm nhạc… Đặc biệt là sau khi Harry lấy lại được trí nhớ và chức năng cơ thể của ông hoàn toàn chưa hồi phục, tại sao khi mất trí nhớ ông lại không có hình ảnh của các con bướm mà sau khi lấy lại trí nhớ ông lại có ảo giác này? Tại sao một trùm tội phạm như Poppy lại tự tung tự tác được mà không ai, không cơ quan nào có một chút đầu mối, rồi sau đó lại sơ suất để lại tọa độ vị trí của mình trong một email? Và tại sao một người như Charlie lại quen được Poppy ở một nới xa xôi tận Capuchia?
Một bộ phim xuất sắc là một bộ phim xây dựng được hệ thống nhân vật xuất sắc. Nếu như ở phần Kingsman: The Secret Service, khán giả phải trầm trồ trước một Galahad điềm tĩnh, lịch thiệp, hào hoa đậm chất Anh Quốc với câu nói :”Manner make it a man” làm bao chị em và thậm chí là cả các khán giả năm phải điêu đứng, hay bị mê hoặc bởi anh chàng Eggsy lém lỉnh, nóng nảy, cảm tính nhưng cũng không kém phần thông minh và dũng cảm, hay ngay cả 2 nhân vật phản diện là Gazelle và Valentine cũng rất thú vị, Gazelle là sát thủ với ánh mắt sắc lạnh, tàn nhẫn và giết người không chớp mắt với những kỹ năng của sát thủ hàng đầu, còn Valentine thì là tay tỷ phú điên rồ với phong cách rất “chất” và “bụi”. Khán giả không thể chọn ra nhân vật nào xuất sắc nhất cả vì tất cả bọn họ đều rât… đỉnh. Tuy nhiên trong phần The Golden Circle thì hệ thống nhân vật lại trở thành một điểm trừ cực lớn, có lẽ là do có quá nhiều nhân vật nên không thể tập trung đi sâu làm nổi bật tất cả được. Các nhân vật được xây dựng khôn có chiều sâu, không có có “back story” (câu chuyện về quá khứ), thậm chí động cơ cũng không rõ ràng, tất cả đều dàn trải, phải chăng có đáng nhớ cũng là nhờ diễn xuất của các diễn viên. Vẫn là Eggsy thông minh, trung thành và can trường, vẫn là Harry lịch thiệp, sâu sắc và “tỉnh đòn” 2 nhân vật này không có gì biến chuyển nhiều. Duy có nhân vật Merlin có nhiều đất diễn hơn, nhân vật đã thoát ra khỏi hình ảnh “an toàn” trong phần phim trước, lần này chúng ta sẽ thấy một Merlin lãng mạn, tinh tế và vô cùng quật cường. Nhân vật phản diện chính là Poppy thì như là phiên bản hơi thiếu muối của Valentine, cũng điên rồ nhưng lại vô cùng tài giỏi, động cơ của cô xuất phát từ việc muốn cả thế giới công nhận năng lực và tên tuổi, tàn nhẫn nhưng rất thú vị. Các đăc vụ của Statesman thì hầu như không có mấy đất diễn trừ Whiskey, nhưng nhân vật này lại là điểm yếu nhất của cả bộ phim. Động cơ hành động rất vô lý, cách xây dựng nhân vật hời hợt và qua loa. Nhân vật Tequilla của Channing Tatum cũng không được xuất hiện nhiều. Có lẽ do quá tập trung vào các phân cảnh hành động nên gần như các diễn biến tâm lý của các nhân vật không được khai thác, chỉ đến tận cao trào phim khán giả mới được thấy sự biến đổi trong quan hệ của Harry – Merlin và Eggsy, lúc này các nhân vật mới được bộc lộ những khía cạnh cảm xúc.
Dù còn một số thiếu sót nhưng không thể phủ nhận The Golden Cirle là bộ phim giải trí tuyệt vời. Nếu những ai yêu thích phần phim đầu tiên vì các phân cảnh hành động đẹp mắt, và sự hài hước duyên dáng đậm chất Anh thì chắc hẳn phần phim này sẽ còn khiến họ phải phát cuồng hơn. Các phân cảnh hành động được nâng lên một tầm cao mới, các cảnh chiến đấu diễn ra rất hoành tráng, ác liệt, với những đoạn kết hợp hiệu ứng Slow motion vô cùng tinh tế và đẹp mắt. Các đoạn đấu tay đôi cực kỳ mãn nhãn, những màn triển khai võ thuật uyển chuyển và độc đáo. Các pha hành động trải dài từ đầu đến cuối phim nhưng không theo kiểu dày đặc mà có lúc cao và lúc trùng xuống sau đó đều được đẩy lên đỉnh điểm ở cuối phim. Cảnh Eggsy dùng một tay đánh bại Charlie hay cảnh Whiskey dùng sợi thong lòng đánh bại đám côn đồ trong quán rượu xứng đáng đạt giải cảnh cận chiến của năm. Bên cạnh đó kỹ xảo, và hiệu ứng hình ảnh cuãng rất đẹp mắt, mượt mà và chân thực. Độ hài hước của phần phim này có tăng lên nhưng vẫn giữ được sự tự nhiên không gượng ép. Các tình tiết gây cười được cài cắm một cách khéo léo, không thô tục nhưng cũng không quá ý nhị. Có lẽ ấn tượng nhất chính là vai diễn Cameo của Elton John, mỗi lần ông xuất hiện là khán giả không thể không bật cười.
Một điểm cộng nữa cho Kingsman: Golden Circle chính là diễn xuất của các diễn viên. Có lẽ vì có đến tận 3 diễn viên dành giải Oscar cùng xuất hiện trong phim nên mọi thứ mới “mượt mà” tới vậy. Dù các nhân vật không được xây dựng tốt nhưng bù lại kỹ năng diễn xuất của họ đã cứu vãn tình thế. Colin Firth và Halle Berry và Jullian Moore đã thể hiện đẳng cấp của mình. Khán giả sẽ được chứng kiến một Harry khù khờ chỉ đam mê “đuổi hoa bắt bướm” thay đổi thành một Harry nghiêm túc, thận trọng mà không có một chút gượng ép nào cả. Khán giả cũng sẽ được thấy một Poppy độc ác, nhẫn tâm nhưng ẩn chứa một tâm hồn ngây thơ, và rất phụ nữ: Yêu cai đẹp. Một Ginger khù khờ nhưng vô cùng thông minh và nhạy bén. Bên cạnh đó phần âm thanh cũng được đánh giá khá tốt, bộ phim dùng các bản nhạc nổi tiếng từ những thập kỷ trước cho những phân cảnh rất hợp lý, dồn dập với Saturday và sâu lắng với Take me home, country road. Tạo hình của các nhân vật thì chắc chắn không phải là điều cần bàn tới, các điệp viên của Kingsman luôn xuất hiện trong những bộ suit sang trọng,và quý phái, Poppy với những bộ trang phục lấy cảm hứng từ thời trang thập niên 50 vô cùng duyên dáng.
Trên hết điều khiến khán giả phải bất ngờ ở Kingsman: The Golden Circle có lẽ chính là chiều sâu và ý nghĩa ẩn sâu của bộ phim. The Golden Circle đề cập tới vấn đề vô cùng nhức nhối của thế giới hiện nay đó là nạn sử dụng ma túy tổng hợp tràn lan, đây tưởng chừng như là vấn nạn rất cũ kỹ nhưng bộ phim lại tái hiện nó vô cùng chân thực đến nỗi khiến ta phải giật mình, trên thế giới vẫn còn hàng triệu người đang sử dụng các loại ma túy mà nhiều nhất có lẽ chính là giới trẻ - chủ nhân của tương lai. Bộ phim cũng là bản tình ca đẹp về tình yêu lứa đôi, tình yêu chân thành có thể khiến con người sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ người mình yêu thương, và không có gì khiến con người thay đổi như tình yêu. The Golden Circle còn là một câu truyện cảm động về tình anh-em, về tình đồng chí, và sự hy sinh cũng như lòng dũng cảm. Sự hy sinh của Merlin ở cuối phim để Eggsy và Harry có thể hoàn thành nhiệm vụ là minh chứng cho đức tính hy sinh ẩn chứa trong mỗi người, cảnh phim này chắc hẳn đã lấy đi không ít nước mắt của các khán giả. Và trên hết cả xuyên suốt bộ phim là tinh thần nhân đạo, dù đúng dù sai thì bản chất con người luôn là tốt đẹp, khi họ khó khăn và nhúng chàm, lúc đó họ cần được sự giúp đỡ, quan tâm và an ủi. Ngoài ra một thông điệp khá thú vị khác cũng được truyển tải qua lời bộc bạch của Harry đó là hãy sống hết mình, tận hưởng tuổi trẻ, hãy yêu và quan tâm đến những người bạn xung quanh mình vì nếu không có họ cuộc đời ta sẽ chỉ là một khoảng không gian trống rỗng và cô đơn.
Tóm lại, dù gây ra nhiều tranh cãi nhưng với những ai muốn giải trí sau giờ làm việc căng thẳng thì Kingsman: The Golden Circle là một lựa chọn hoàn hảo. Và cả với những ai không có ý định tới rạp cũng nên thử vài chắc chắn bạn sẽ không bỏ phí 150 phút của cuộc đời.
-
Thor (2011) có cảm giác khoa học viễn tưởng. Các cảnh trong Asgard trông giống như của Dr. Who hoặc một phiên bản mới hơn của Star Trek. Trên trái đất, đó là một âm mưu “tiếp xúc người ngoài hành tinh” khá quen thuộc, ngoại trừ người ngoài hành tinh là Loki và Thor. Mối quan hệ giữa nhân vật Jane và Thor trông giống như là “bạn gái ngoài hành tinh ngây thơ của tôi đang đi dạo quanh ngực trần” mà bạn có thể thấy trong phim hoạt hình hay phim khoa học viễn tưởng, với giới tính bị đảo ngược.
Loki và Thor là anh em, con trai của Odin. Nhưng dù sao, Thor rõ ràng là nhân vật được yêu thích, và Loki bĩu môi vì ghen tị giống như Scar trong Vua sư tử. Thor, cùng với Loki và những người bạn của anh ấy đến Jotunheim để hỏi những người khổng lồ băng giá về thông tin liên quan đến việc ai đó đi qua bifrost (cây cầu vồng nối thế giới) mà không có kiến thức của Heimdall (thần chịu trách nhiệm về bifrost) giá trị từ Asgard. Hành động này làm rối tung một thỏa thuận ngừng chiến mong manh giữa người Asgardia và người khổng lồ băng giá của Jotunheim. Odin trục xuất Thor đến Trái đất như một hình phạt để xoa dịu những người khổng lồ băng giá. Anh ta gửi Mjölnir, cây búa của Thor, với một lời nguyền nói rằng chỉ có người xứng đáng và sở hữu sức mạnh của Thor mới có thể sử dụng nó.
Natalie Portman đóng vai Jane Foster, một nhà thiên văn học trẻ tuổi trở thành người yêu thích Thor. Không dễ để cô chấp nhận câu chuyện của Thor, nhưng cô tin rằng có những điều chúng ta không thể hiểu được trong vũ trụ. Đương nhiên, sự xuất hiện của một người ngoài hành tinh và cổ vật ngoài hành tinh không được chú ý bởi chính phủ liên bang và SHIELD.
Odin rơi vào một giấc ngủ sâu. Loki đến để nói với Thor rằng Odin đã chết và để Loki trở thành vu. Odin trước khi chết, nói rằng Thor không bao giờ có thể trở về được nữa. Khi các chiến binh Three, bạn của Thor, đến Trái đất từ Asgard, họ nói với anh rằng Loki đã nói dối về việc Odin chết. Thor và bạn bè chiến đấu với một con quái vật, Thor đưa Mjölnir trở lại, và đã đến lúc quay lại Asgard và đá vào mông đứa em trai mình.
Nhưng Heimdall đã bị đóng băng bởi Loki, để cho phép những người khổng lồ băng giá tiếp cận Asgard. Khi Heimdall mở ra, Thor chiến đấu với Loki và nhiều người khổng lồ băng giá với sự giúp đỡ từ Odin, người cuối cùng cũng tỉnh dậy sau giấc ngủ ngắn. Cuối cùng, anh ta đã thổi tung bifrost để ngăn Loki xâm chiếm Trái đất hoặc các thế giới khác. Có một cảnh cảm động khi Loki buông Thor ra, rơi vào khoảng trống. Thor thừa nhận anh ấy vẫn chưa sẵn sàng để trở thành vua và cuối cùng tìm cách quay trở lại Trái đất.
-
Đầu tiên phải khẳng định là Star Wars VIII có phần dễ xem hơn tất cả các phần trước đó khi sở hữu một nội dung đơn giản, dễ hiểu, nhân vật thú vị (gần như tất cả) cùng với đó là những phân đoạn cảm xúc, hài hước hay hành động mãn nhãn hợp thời đại và một vài điều bất ngờ khác được đan xen xuyên suất 2 tiếng 32 phút của phim...
Cá nhân mình sẽ chia ra làm 2 quan điểm cụ thể để đánh giá phần VIII này, đơn giản là HAY và CHƯA HAY chứ không có TỆ hay DỞ TỆ gì cả vì bản thân The Last Jedi vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một bộ phim thị trường.
HAY
Lúc nào Star Wars cũng làm cho người xem cảm thấy bất ngờ trước khả năng thể hiện kỹ sảo của mình, cho dù là từ A New Hope đến tận bây giờ thì phần phim nào cũng lung linh, cũng epic cả. Đồng thời bên cạnh phần kỹ sảo mạnh mẽ đó là sự sáng tạo về mặt hình ảnh, bối cảnh, trang phục cũng như các loài sinh vật, người ngoài hành tinh hay chiến cơ, phi thuyền,... tất cả đều mang những nét đặc trưng của Star Wars và được tái hiện cũng như phát huy trong phần VIII này.
Kế đến là dàn cast thể hiện nhân vật cũng như bản thân nhân vật rất thú vị và có cá tính rõ ràng. Phải nói là xuyên suốt 9 phần phim cho tới tận bây giờ thì lượng nhân vật có tạo hình người ngoài hành tinh hoặc những nhân vật có tạo hình kì quặc - nhìn phát là biết bước ra từ SW, đã giảm hẳn nhưng bù lại chất lượng nhân vật của SW lại tăng lên. Ngoài những Luke và Leia bước từ bộ 3 phim gốc sang vừa có tác dụng làm xúc tác cho hậu truyện với những vai trò vốn có của mình lại vừa là những nhân tố quyết định hậu truyện. Đặc biệt là Luke Skywalker, một huyền thoại Jedi. Ông có một vị trí vô cùng quan trọng ảnh hưởng tới cả phần VIII này. Ông đã vô tình tạo ra Kylo Ren trong phút yếu lòng nhất cũng như trong giây phút lầm lỡ nhất của mình. Điều này lý giải được tại sao ông lại biến mất trong thể giới SW và đồng thời vẫn cho thấy rằng ông là một Jedi huyền thoại như thế nào. Để rồi Luke chết đi theo cách của một người anh hùng khi trở thành một Force Ghost cùng với Anakin, Obi-wan hay Yoda...
Tiếp theo đó là Ben Solo hay còn được gọi là Kylo Ren. Một nhân vật có nội tâm phức tạp và chuyển biến tâm lý khó lường. Nếu như ở phần trước đó, The Force Awakens, nhân vật Kylo được thể hiện ra còn khá trẻ trâu, vội vã thì sang tới phần này hắn đã có suy nghĩ quyết đoán hơn hẳn. Kylo Ren không hẳn đứng về phe bóng tối nhưng cũng không có nghĩa phe ánh sáng sẽ là nơi hắn thuộc về. Dẫu sao thì phe tốt hay phe ác cũng chỉ là một cách gọi tên mà thôi và bản thân thế giới đâu chỉ có mỗi 2 phe như vậy. Hay cũng như bên quân kháng chiến, khi cầu cứu gọi quân đồng minh thì đâu phải đồng minh nào cũng sẵn sàng trợ giúp vào lúc hiểm nghèo như vậy nhưng đâu có nghĩa là họ ở phe ác. Chính Kylo Ren đã gỡ được cái mác của SW khi chỉ gồm 2 phe đấu đá nhau mà thể hiện được bản chất rằng chỉ có những mâu thuẫn làm nên xung đột mà thôi.
Cùng với một Ben Solo suất sắc đó là một Rey cũng không kém phần mạnh mẽ, bí ẩn (??). Rey là một nhân vật mình rất thích =)). Bởi lẽ cô là một nhân vật có khả năng nhìn nhận vấn đề, biết đâu là đúng, đâu là sai, biết đấu tranh cho cái thiện, cái cô tin tưởng mà không chút dè dặt. Cô là một người có tính quyết đoán, thể hiện được những phẩm chất của một nhân vật anh hùng. Cô cũng có những đấu tranh, suy nghĩ tâm lý nhưng rồi giữa những lằn ranh ấy, cô vẫn hướng về những điều đúng đắn, làm những điều phải làm. Cô cũng là một nhân vật có xuất thân bí ẩn (người hùng thường bí ẩn =))) nhưng tới phần phim này thì mình nghĩ là cái xuất thân ấy không còn bí ẩn thế nữa. Cũng như bản thân của Darth Vader vậy, ông vốn được sinh ra từ cát bụi chứ không trong một gia thế nào có tiếng tăm cả. Và tại sao Rey không thể vậy ? Đồng thời có lẽ biên kịch phim cũng gửi gắm điều đó thông qua câu trả lời của Rey về gia đình của mình khi Ben hỏi hay như cảnh kết của phần VIII cũng nêu lên thông điệp đó. Không phải ai cũng có thể sử dụng được thần lực nhưng người sử dụng được thần lực có thể là bất cứ ai. Rey có thể là chính mình mà không phải là vì ai khác. Rey có thể là một anh hùng đi lên từ một nơi mà bản thân cô nhận định rằng nơi đó chẳng là gì cả.
Ngoài ra những diễn viên khác như Finn, Poe hay cả BB-8 hoặc hầu hết dàn phụ khác cũng đều có những phút tỏa sáng và ghi dấu ấn trong lòng người xem chứ không bị lép vế hay đáng quên chút nào. Họ đều có mục đích riêng của mình và đều thực hiện tốt điều đó.
Tiếp theo những phân cảnh hành động đều là ưu điểm của phim. Cảnh ngoài không gian khi những phi thuyền chiến đấu với nhau rất đã mắt cùng với đó là đặc sản của phim, những màn đấu Lightsaber kịch tính. Phần VIII này có 2 màn giao tranh như vậy, cả 2 đều có những góc lia máy khiến những tư thế, dáng đấu trở nên đặc biệt, phô diễn được kỹ năng của nhân vật cũng như sự hoành tráng của bối cảnh. Mặc dù có nhiều lời thất vọng về cảnh giao đấu thứ 2 giữa Kylo và Luke, nhưng theo mình thì đây là một cảnh cần thiết và hợp lý. Nó cho thấy sức mạnh vô hạn của thần lực đồng thời cũng là sự lật ngược thế cờ và khiến cho cái chết của Luke trở nên đặc biệt. Nếu để ý thì cả 2 trận màu chủ đạo lúc đó cũng đều là màu ĐỎ. Đây là màu sắc thể hiện sự khốc liệt, thể hiện sự chết chóc, nó cho thấy sự nguy hiểm, kịch tính và dữ dội của chiến trận. Màu đỏ còn là màu của sự trả thù, màu của máu, màu của sự lạc lối nhưng đồng thời nó cũng là màu của hạnh phúc...
CHƯA HAY
Bao giờ thì việc chê cũng dễ hơn là việc đi khen ngợi. Nhưng cá nhân mình khi xem thấy những điều này rất rõ ràng và làm phim phần nào có những điểm trừ trong lòng người hâm mộ.
Đầu tiên là "sự sắp xếp kịch bản một cách lộ liễu". Dẫu biết là cần phải có sự sắp xếp thì mới hình thành nên một bộ phim nhưng ở The Last Jedi thì dường như các biên kịch hơi bị thẳng tay thành ra là sự xuất hiện của một số cảnh trở nên hơi kịch. Đơn cử như việc Finn và Rose gặp gỡ một người phá mã ở trong phòng giam rồi lại còn đúng người cần thiết đang cần tìm và rồi cuối cùng cái tên phá mã bí ẩn này cũng lặn tăm chả biết đâu mà lần chắc do chết rồi vì biên kịch quên mất. Hoặc như việc Rey lần nào xuất hiện cũng là lúc mọi người đang cần nhất mà chả biết là từ đâu đi ra. Hay như BB-8 trở nên hữu dụng hơn bất cứ nhân vật người nào khi cứu nguy đồng đội kịp lúc. Nó thiếu đi sự việc khiến hình thành sự việc tiếp theo khiến cho các nhân vật cứ như thể nhảy bổ ra bởi có đạo diễn gọi vậy.
Tiếp theo đó là 4 nhân vật sau Snoke, Hux, Phasma và Holdo. Thực ra bản thân Holdo cũng không có vấn đề gì chỉ có điều bà đúng là người cố tỏ ra bí hiểm. Bà đáng lẽ có thể làm mọi chuyện đơn giản hơn nếu như nói thẳng ra kế hoạch của mình cho phiến quân biết. Đằng này thì chả nói gì cứ im ỉm làm và khiến cho nhân vật Poe nghi ngờ rồi làm kế hoạch khác cũng im lặng theo rồi để Finn và Rose bị bắt cùng với đó lộ luôn kế hoạch của cả phiến quân. Còn về Snoke, mang tiếng là một nhân vật tầm cỡ cho câu chuyện phần hậu này. Hắn rất nguy hiểm, có khả năng sử dụng thần lực vô hạn, điều khiển thần lực của đối phương và hơn cả là có khả năng thâu tóm, cẩn trọng. Hắn không giao việc lớn cho Kylo vì vẫn chưa thực sự tin tưởng. Ấy vậy mà lại chết lãng nhách khi bị Kylo giết một cách đơn giản hơn bao giờ hết. Một phần là sự chuyển biến tâm lý của Kylo nhưng lại làm mất đi cái sự đặc biệt của nhân vật phản diện này.
Bên cạnh đó là tướng Hux, một nhân vật phải nói là khả năng lãnh đạo quân sự kém. Hắn chỉ biết phô diễn sức mạnh và chịu sự sai khiến từ Snoke. Điều này làm cho phe quân kháng chiến tuy yếu nhưng vẫn không cảm giác kém cỏi như quân địch. Hux được xây dựng tốt nhưng nhân vật này chưa thực sự nổi bật. Cuối cùng là Phasma - đối trọng của Finn. Thật sự thì Phasma là nhất vật nhạt nhẽo nhất của phim. Được xuất hiện từ phần trước nhưng dường như vai trò khá là thừa thãi. Chẳng tỏa sáng được cũng như chẳng thể làm người xem nhớ nổi. Tới những phút giây cuối cùng khi chiến đấu với Finn, phô diễn kĩ năng thì cũng không khá khẩm hơn và chết ngay sau đó. Đây có lẽ là nhân vật hời hợt và thiếu muối nhất phim.
Sau cùng của phần chưa hay này là cái phong cách làm phim của Disney. Khẳng định là phim cũng vui hơn những phần trước nhưng mà đang hơi có xu hướng vui quá và nó khá giống nhiều phim khác của hãng này. Và đó mới là vấn đề, điều mình lo sợ nhất là SW bị biến thể theo cách của Disney khi dần dần mất chất riêng và đi theo hướng an toàn hơn. Nhưng mong là sẽ không như vậy...
Cuối cùng thì Star Wars: The Last Jedi vẫn là một bộ phim hay và có nhiều điều thú vị. Thế giới SW được mở rộng thêm về sức mạnh tiềm tàng của thần lực. Phe bóng tối hay phe ánh sáng cũng chỉ là một cách gọi. Các nhân vật đa chiều hơn. Mặc dù cho nội dung còn đơn giản nhưng chính sự đơn giản đó mới có thể khai thác được tâm lý của nhân vật và làm câu chuyện của họ tiến xa thêm. Cũng chính từ những nhân vật đó làm nên sức hút của Star Wars nhưng vẫn mong rằng tới phần sau sẽ có nhiều điều bất ngờ hơn nữa và thêm vào đó là nội dung mở rộng chứ có lẽ phần VIII này có thể thỏa mãn nhiều người nhưng chưa thực sự chiều lòng được fan hâm mộ.
-
Phim bắt đầu với sự trở lại của Thor (Chris Hemsworth) và sự tiếp tục cuộc chiến của anh sau sự kiện của "The Avengers" (2012). Để duy trì hòa bình trên các vương quốc, Thor đã phải chiến đấu chống lại các kẻ thù từ các thế giới khác.
Tuy nhiên, một mối nguy hiểm lớn đang nổi lên khi Malekith (Christopher Eccleston), một vị vua của các Dark Elves, tỉnh dậy sau hàng ngàn năm ngủ yên. Malekith có kế hoạch tiêu diệt vũ trụ bằng cách sử dụng Aether, một loại sức mạnh cổ xưa và mạnh mẽ, để đưa mọi thứ về thời kỳ hỗn mang.
Khi Jane Foster (Natalie Portman), người yêu của Thor, tình cờ hấp thụ Aether, cô trở thành mục tiêu của Malekith. Để cứu Jane và ngăn chặn kế hoạch của Malekith, Thor phải tìm sự giúp đỡ từ người anh em nuôi của mình, Loki (Tom Hiddleston), người hiện đang bị giam giữ sau các sự kiện của "The Avengers".
Thor và Loki cùng hợp tác để chiến đấu chống lại Malekith và quân đội của hắn trong một cuộc chiến căng thẳng qua các thế giới khác nhau, bao gồm cả Asgard và London. Họ phải tìm cách tiêu diệt Malekith và phá hủy Aether trước khi hắn có thể thực hiện kế hoạch hủy diệt vũ trụ.
Cuối cùng, Thor thành công trong việc ngăn chặn Malekith và bảo vệ Jane. Loki, trong một khoảnh khắc phản bội, giả vờ chết để bảo vệ Asgard, trong khi thực tế, hắn đã lên kế hoạch trở thành vua của Asgard. Thor quay trở lại Midgard (Trái Đất) và tạm thời từ bỏ ngai vàng, để ở bên Jane.