Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,724 files
-
Phim là một câu chuyện đen tối, phức tạp và đầy bi kịch về lòng tham, sự phản bội và mối quan hệ rạn nứt trong thế giới của những kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Jim Thompson, bộ phim khai thác sâu vào tâm lý nhân vật, đẩy họ vào những tình huống căng thẳng, nguy hiểm.
Nhân vật chính là Roy Dillon (do John Cusack thủ vai), một kẻ lừa đảo nhỏ lẻ với phong cách lạnh lùng, thực dụng. Sau một phi vụ thất bại khiến anh bị thương nặng, Roy được mẹ mình là Lilly Dillon (Anjelica Huston), một phụ nữ sắc sảo và đầy toan tính, đến thăm. Lilly cũng là một kẻ lừa đảo chuyên nghiệp làm việc cho một tổ chức cá cược ngầm. Bà luôn mang theo mình những bí mật và sự lạnh lùng đầy chết chóc.
Câu chuyện trở nên phức tạp khi xuất hiện Myra Langtry (Annette Bening), bạn gái của Roy, một phụ nữ quyến rũ nhưng mưu mô. Myra, cũng là một kẻ lừa đảo, tìm cách kéo Roy vào một phi vụ lớn. Trong khi đó, Lilly, với bản năng bảo vệ con trai nhưng cũng đầy ích kỷ, cảm thấy Myra là một mối đe dọa. Mối quan hệ tay ba này nhanh chóng biến thành một trò chơi tâm lý nguy hiểm, nơi những lời nói dối, âm mưu và tham vọng dẫn đến những hậu quả không thể lường trước.
Bộ phim đạt đến đỉnh điểm khi sự xung đột giữa các nhân vật lên cao, buộc họ phải đối mặt với chính bản thân mình và những lựa chọn khó khăn. The Grifters kết thúc với một loạt cú sốc khiến người xem phải suy ngẫm về giá trị của lòng tin và sự trả giá của lòng tham.
Với diễn xuất xuất sắc của dàn diễn viên chính, đặc biệt là Anjelica Huston và Annette Bening, cùng bầu không khí u ám và căng thẳng, The Grifters không chỉ là một bộ phim tội phạm mà còn là một câu chuyện sâu sắc về bản chất con người. Bộ phim đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng khán giả, trở thành một tác phẩm kinh điển của dòng phim neo-noir.
-
Phim kể câu chuyện về Jackie Brown (Pam Grier), một tiếp viên hàng không trung niên, bị cuốn vào một âm mưu nguy hiểm giữa các băng nhóm tội phạm và lực lượng pháp luật.
Jackie kiếm sống bằng công việc tại một hãng hàng không giá rẻ, nhưng để tăng thêm thu nhập, cô vận chuyển tiền bất hợp pháp cho Ordell Robbie (Samuel L. Jackson), một tay buôn vũ khí nguy hiểm và xảo quyệt. Khi bị cảnh sát bắt tại sân bay với một khoản tiền lớn và ma túy, Jackie đối mặt với nguy cơ bị Ordell thủ tiêu để bịt đầu mối.
Tuy nhiên, Jackie không phải là người dễ bị bắt nạt. Với sự thông minh và gan dạ, cô lập ra một kế hoạch táo bạo nhằm thoát khỏi cả sự đe dọa của Ordell lẫn áp lực từ cảnh sát, đồng thời tự tạo cho mình một cơ hội làm lại cuộc đời. Cô hợp tác với Max Cherry (Robert Forster), một người bảo lãnh tại ngoại có trái tim nhân hậu và trở thành đồng minh bất ngờ của cô trong trò chơi hai mang đầy rủi ro này.
Bộ phim là một mê cung của các âm mưu đan xen, những màn đối thoại sắc sảo và những cú lật bất ngờ. Jackie Brown không chỉ chiến đấu để sống sót mà còn tìm cách lật ngược tình thế, biến mình từ một con tốt thí trở thành người kiểm soát toàn bộ ván cờ.
Với sự tham gia của dàn diễn viên xuất sắc, bao gồm Samuel L. Jackson, Pam Grier, Robert Forster, Michael Keaton và Robert De Niro, Jackie Brown không chỉ là một bộ phim tội phạm thông thường, mà còn là một tác phẩm tôn vinh các nhân vật nữ mạnh mẽ và khả năng vượt lên hoàn cảnh. Bộ phim để lại ấn tượng sâu sắc nhờ lối kể chuyện chậm rãi nhưng đầy sức hút, cùng âm nhạc retro đậm chất Tarantino.
-
Câu chuyện lấy bối cảnh ở London vào cuối thế kỷ 19, khi cả thành phố chìm trong sự sợ hãi trước chuỗi vụ giết người dã man do Jack the Ripper gây ra. Holmes (do Christopher Plummer thủ vai) và cộng sự trung thành, bác sĩ Watson (James Mason), được kêu gọi để điều tra những vụ án tưởng như không có lời giải này.
Ngay từ khi bắt đầu, Holmes nhận ra rằng các vụ giết người này không chỉ là hành động của một kẻ điên loạn. Từng manh mối dẫn ông đến những âm mưu đen tối, nơi quyền lực, chính trị và bí mật của giới thượng lưu đan xen. Holmes phát hiện ra mối liên kết giữa các nạn nhân với một hội kín đầy ảnh hưởng, và thậm chí, những bí mật này có thể liên quan đến Hoàng gia Anh.
Bộ phim không chỉ dừng lại ở một cuộc điều tra đơn thuần. Nó khai thác sâu vào tâm lý nhân vật, đặc biệt là Holmes – một người không chỉ thông minh mà còn mang trong mình sự đồng cảm và tinh thần chính nghĩa mạnh mẽ. Mối quan hệ giữa Holmes và Watson được thể hiện với sự chân thật và hài hước, làm dịu đi bầu không khí căng thẳng của cuộc săn lùng hung thủ.
-
Khi “Her Blue Sky” (tựa Việt: “Bầu trời xanh của em”) ra mắt tại Nhật Bản vào hồi tháng 10 đã lập tức nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của khán giả. Ngay cả đạo diễn Makoto Shinkai – “cha đẻ” của bom tấn anime “Your Name” cũng không tiếc lời khen ngợi dành cho tác phẩm này khi nhận định rằng: “Đó là một bộ phim mà ai xem xong cũng sẽ nghĩ là bộ phim dành riêng cho mình”. Vậy “Her Blue Sky” đã chinh phục khán giả trên những phương diện nào?
“Her Blue Sky” là tác phẩm mới nhất nằm trong “Bộ ba Chichibu” sau “Anohana: Đóa hoa ngày ấy chúng ta cùng ngắm” (2013) và “Tiếng hát từ trái tim” (2015). Ba câu chuyện từ ba tác phẩm anime tuy khác biệt hoàn toàn về tuyến nhân vật và cốt truyện nhưng cùng lấy bối cảnh ở thành phố Chichibu – quê nhà của biên kịch Mari Okada. Tại thành phố được bao quanh bởi rặng núi yên bình, 3 câu chuyện tuổi thanh xuân nhuốm màu kỳ ảo được Okada và các cộng sự kể lại bằng những khung hình lãng mạn và âm nhạc tuyệt diệu.
Một tình cảm thời thanh xuân mang hương vị độc đáo như món cocktail
Xuất hiện cùng lúc với Shinnosuke trong lần trở về Chichibu là Shinno, một thanh niên bí ẩn nhưng thực chất là Shinnosuke 13 năm trước vượt thời gian đến hiện tại. Shinno không phải hồn ma mà là một ảo ảnh tượng trưng cho thời thanh xuân trong sáng quá vãng. Với những ai đã từng trải qua thời tuổi trẻ và đôi lúc ngoái lại băn khoăn “Phiên bản quá khứ của bản thân sẽ nghĩ gì khi chạm trán chính mình của hiện tại?” thì đây sẽ là tác phẩm chắc chắn không thể bỏ qua.
Bản tình ca tiếc nuối nhưng lạc quan gửi tới thanh xuân
Hối tiếc cũng là chủ đề cốt lõi được nhóm Chouheiwa Busters khai thác trong “Her Blue Sky”. Ở thời điểm hiện tại, cô bé Aoi đã là một nhạc công đầy triển vọng còn Shinnosuke lại là một tay guitar không tên tuổi sau nhiều năm lăn lộn ở Tokyo. Chuyến đi trở về Chichibu không chỉ là dịp để Shinnosuke đối diện với những tiếc nuối thanh xuân, mà còn là cơ hội thứ hai dành cho anh để nhìn lại mối tình dang dở với Akane một cách trọn vẹn. Lúc này, phiên bản tuổi trẻ của Shinnosuke xuất hiện cũng giúp Aoi nhận ra rung động đầu đời của mình sau nhiều năm trốn tránh.
“Her Blue Sky” chỉ ra rằng những giấc mơ tuyệt đẹp thời tuổi trẻ có thể sẽ chẳng thành hình khi ta trưởng thành. Tuy nhiên, bộ phim vẫn giữ trọn thái độ lạc quan và gợi mở ý tưởng rằng sẽ luôn có cơ hội thứ hai chỉ cần ta cố gắng không ngừng.
-
Đối với người phụ nữ, những gánh nặng về ngoại hình, về tiêu chuẩn mà xã hội đặt ra cho định nghĩa sắc đẹp không còn mới. Chúng luôn tồn tại trong dòng chảy lịch sử - một trong những ví dụ sớm nhất là bức tượng Vệ nữ Willendorf có niên đại từ hơn 20.000 năm TCN - và giày vò hằng hà sa số thế hệ những người phụ nữ. Chúng đã được khai thác vô vàn lần qua những tác phẩm nghệ thuật.
Vậy nhưng, trong thời đại của phẫu thuật thẩm mỹ và những bài thuốc giảm cân mờ ám, The Substance của đạo diễn Coralie Fargeat - tác phẩm đã giành giải Kịch bản xuất sắc tại LHP Cannes và sẽ ra rạp tại Việt Nam từ ngày 1/11 - vẫn đem đến một góc nhìn mới mẻ qua lăng kính của thể loại kinh dị hình thể.
Ngập tràn trong máu và huyết thanh, phảng phất những sắc điệu của tiểu thuyết Dr. Jekyll and Mr. Hyde và The Picture of Dorian Gray, của các tác phẩm tới từ “cây đại thụ dòng phim kinh dị” David Cronenberg, và của truyền thuyết về Suối nguồn Bất tử, The Substance là một câu chuyện ngụ ngôn kinh tởm về sự khao khát và lòng căm ghét bản thân, về sức tàn phá ghê rợn của tiêu chuẩn sắc đẹp.
Từng là một minh tinh màn bạc, chủ nhân của tượng vàng Oscar, song cũng giống như ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng của mình, sự nghiệp của Elisabeth Sparkle (Demi Moore) đã không còn rạng rỡ như xưa. Cô có một chương trình thể dục nhịp điệu trên sóng truyền hình, nhưng ngay vào ngày sinh nhật tuổi 50, Elisabeth bị sa thải bởi gã giám đốc thô lỗ Harvey (Dennis Quaid) để tìm kiếm một gương mặt trẻ trung hơn.
Đặt trong bất cứ tiêu chuẩn nào, Elisabeth vẫn là một người phụ nữ đẹp. Nhưng những lời lẽ khiếm nhã từ Harvey, kèm theo việc cô luôn bị bao quanh bởi những bức ảnh của bản thân đầy đặn collagen hơn, dần khiến nữ diễn viên tuyệt vọng.
Đó là cho tới khi cô được một người lạ mặt giới thiệu The Substance, thứ thuốc có thể trao trả lại “một phiên bản tốt đẹp hơn của bản thân”. Chỉ với một liều tiêm, từ chiếc lưng bị xé toang của Elisabeth lộ diện một người phụ nữ trẻ mang tên Sue (Margaret Qualley) - hiện thân của vẻ trẻ đẹp mà Elisabeth hằng mong ước.
Nhưng như mọi câu chuyện theo mô-típ khế ước với quỷ dữ, The Substance đi kèm theo những yêu cầu hết sức khắt khe - Elisabeth và Sue chỉ có một tuần trong mỗi cơ thể, và phải chuyển chỗ cho người còn lại mà không được phép “ăn bớt” một giây. “Hãy tôn trọng sự cân bằng” - giọng nói nặc danh đằng sau công ty bí ẩn sản xuất ra The Substance liên tục nhấn mạnh với Elisabeth.
Nhưng, hãy thành thật đi, nếu một ngày bạn tỉnh dậy trong một thân hình hoàn hảo mà mình mơ ước, bạn có dám chắc sẽ không lạm dụng nó không? Và cứ mỗi lần Sue nán lại trong thân hình của mình, cơ thể của Elisabeth sẽ phải hứng chịu hệ quả đầy ghê rợn.
Đầy ắp những phân cảnh ghê tởm tới muốn tuôn trào hết lục phủ ngũ tạng, khi khác lại hài hước một cách mỉa mai, song The Substance thực chất là câu chuyện đượm buồn về cách những người phụ nữ, dưới áp lực phi lý của xã hội, sẵn sàng tự hủy hoại bản thân để theo đuổi thứ “tiêu chuẩn sắc đẹp” mơ hồ.
Giống như hai tác phẩm trước đó là Reality+ và Revenge, đạo diễn kiêm biên kịch Coralie Fargeat xây dựng nên một câu chuyện tối giản, gần như không có những tình tiết phụ. Nhà làm phim người Pháp dành toàn bộ sự tập trung - và sự đồng cảm - cho hai nhân vật chính.
The Substance, do vậy, cũng không bỏ ra nhiều công sức để phủ lên thông điệp của mình những lớp vỏ bọc của sự tế nhị và kín đáo. Phản diện của bộ phim, gã giám đốc khinh bỉ phụ nữ, được đặt tên là Harvey - một phép-ẩn-dụ-mà-ai-cũng-hiểu về Harvey Weinstein - “ông trùm” Hollywood một thời giờ trở thành tội phạm khi bị phanh phui chuyện tấn công tình dục.
Qua nhân vật này, The Substance khắc họa sự bất công đến nực cười trong cách xã hội đánh giá giá trị của người phụ nữ chỉ qua ngoại hình, và một khi người phụ nữ bước qua một mốc tuổi nhất định, “giá trị” đó sẽ lập tức bị hạ xuống.
Nhưng không có nghĩa rằng bộ phim không khéo léo trong cách khiến khán giả phải tự vấn. Qua những góc quay của đạo diễn hình Benjamin Kracun, The Substance “vũ trang hóa” ánh nhìn male gaze, tập trung đặc tả những bộ phận cơ thể của Sue với cường độ “điên đảo”, như thể đang bắt khán giả ngắm nhìn cô qua ánh mắt của Harvey và những tên giám đốc gàn dở, để hiểu được điều đó kinh tởm đến mức nào.
Và cũng qua ống kính của Kracun, Los Angeles - nơi câu chuyện của The Substance diễn ra - sừng sững mọc lên như một sự kết hợp kỳ ảo của chủ nghĩa thô mộc và tân biểu hiện. Từng bối cảnh của bộ phim như thể được “mượn” từ các set quay của Stanley Kubric, tạo cho khán giả một cảm giác bất an kể cả trong những phân cảnh “đỡ” kinh dị nhất.
Kết hợp điều này với những giai điệu đầy hưng phấn của nhà soạn nhạc Raffertie cùng công sức trang điểm và hóa trang của Pierre-Olivier Persin để tạo nên sinh vật gớm ghiếc trong một trường đoạn cao trào có thể sánh ngang (về độ kinh tởm) với những The Fly hay Akira, và The Substance trở thành một hiện thực tồn tại đâu đó giữa kỳ ảo và ác mộng, với mỗi phân cảnh dường như được thiết kế một cách cụ thể để gây ra những phản ứng khó chịu nhất từ người xem.
Song, The Substance có lẽ sẽ chỉ dừng lại ở một tác phẩm kinh dị gây sốc và thiếu mất sự đồng cảm cần thiết nếu không được thổi hồn bởi màn trình diễn của những ngôi sao. Trong vai Harvey, Dennis hóa thân thành bức tranh biếm họa đáng khinh bỉ nhất của những gã đàn ông gàn dở, khinh thường phụ nữ. Trong vai Sue, Margaret Qualley tận dụng vẻ đẹp hồn nhiên để trở thành thứ bản năng độc hại, chỉ quan tâm tới sự thỏa mãn những nhu cầu của bản thân.
Nhưng sau cùng, đây vẫn là “show diễn” của Demi Moore. Nữ diễn viên từng ba lần được đề cử Quả cầu vàng đem tới một màn trình diễn dũng cảm và chứa đầy nội lực của một người phụ nữ vật lộn với lòng căm thù bản thân và những tiêu chuẩn bất công từ xã hội - một trong những vai diễn thử thách nhất cô từng thực hiện.
Dường như toàn bộ sự nghiệp của Demi Moore đã đưa cô tới The Substance. Như Elisabeth, Moore đã từng một thời đứng trên đỉnh cao nhất của danh vọng (cô là nữ diễn viên có thù lao cao nhất mọi thời đại vào năm 1995). Và vì vậy, trong suốt 40 năm hoạt động nghệ thuật, Moore chắc hẳn đã không còn lạ lùng với sự soi mói, với những ánh nhìn đầy đánh giá từ công chúng. Nhìn vào sự nảy lửa trong màn hóa thân thành Elisabeth, không phải một phỏng đoán quá xa vời khi nói rằng The Substance là cách để Demi Moore lên tiếng và giải tỏa những ấm ức đã cất giữ suốt nhiều năm qua.
Phân đoạn Elisabeth đứng trước gương, chuẩn bị cho một buổi hẹn, để rồi liên tục trang điểm lại bởi sự không thỏa mãn với những gì cô đang nhìn thấy, là những giây phút thành thật nhất của bộ phim. Đó là thứ nghi thức không còn xa lạ với nhiều người, tuyệt vọng thêm thắt mọi thứ để tìm được sự thoải mái có thể không thực sự tồn tại trong thân thể của chúng ta.
The Substance không phải một lời mời đầy lịch sử để các khán giả tự nhìn nhận lại vấn đề. Bộ phim là một màn cao trào không ngừng nghỉ, liên tục gây sốc và tạo ra mọi tình huống khó chịu nhất có thể cho tới khi nó gây sang chấn cho tất cả mọi người xem phim. Khi đó, đạo diễn Coralie Fargeat mới có thể chắc chắn rằng khán giả đã thực sự hiểu thông điệp bộ phim muốn truyền tải.
Đây chắc chắn không phải là một bộ phim mà tất cả mọi người sẽ tung hô, không phải một tác phẩm chúng ta có thể rủ gia đình đi xem cùng. Nó kén chọn khán giả, chỉ dành những ai có độ khoan dung nhất định đối với thể loại kinh dị hình thể và sẵn sàng bị “công kích” bởi bộ phim. Nếu có thể chấp nhận được, bạn sẽ được đền đáp với một trong những tác phẩm kinh dị đáng xem nhất của năm 2024.
-
"Smile 2" (tựa Việt: "Cười 2") là phần tiếp theo của bộ phim kinh dị "Smile" ra mắt năm 2022, tiếp tục khai thác lời nguyền "nụ cười" đầy ám ảnh. Trong phần này, câu chuyện xoay quanh Skye Riley (do Naomi Scott thủ vai), một ngôi sao nhạc pop nổi tiếng đang chuẩn bị cho chuyến lưu diễn toàn cầu. Cuộc sống hào nhoáng của cô bị đảo lộn khi chứng kiến người bạn Lewis (Lukas Gage) tự sát với nụ cười quỷ dị trên môi.
Sau sự kiện kinh hoàng đó, Skye bắt đầu trải qua những hiện tượng kỳ lạ, liên tục thấy nụ cười đáng sợ từ những người xung quanh. Áp lực từ sự nổi tiếng cùng nỗi kinh hoàng ngày càng gia tăng buộc cô phải đối mặt với quá khứ đau thương để giành lại quyền kiểm soát cuộc sống trước khi mọi thứ trở nên quá muộn.
-
Sau cuộc thảm sát đẫm máu tại đám cưới ở phần đầu, Kill Bill: Vol. 2 tiếp tục hành trình báo thù đầy kịch tính của Cô Dâu (The Bride), tên thật là Beatrix Kiddo. Bộ phim đào sâu vào quá khứ của cô, từ những ngày còn là sát thủ trong Đội Sát Thủ Rắn Độc (Deadly Viper Assassination Squad) cho đến mối quan hệ phức tạp giữa cô và thủ lĩnh Bill – người tình cũ và kẻ thù lớn nhất của cô.
Beatrix tiếp tục truy lùng những thành viên còn lại trong danh sách báo thù của mình. Cô đối đầu với Budd, em trai của Bill, trong một cuộc phục kích đầy bất ngờ, nhưng bị hắn chôn sống trong chiếc quan tài dưới lòng đất. Nhờ bài huấn luyện khắc nghiệt của sư phụ huyền thoại Pai Mei, cô thoát chết trong gang tấc và quay lại trả thù.
Kế đó, cô chạm trán Elle Driver, một sát thủ nguy hiểm không kém và kẻ đã từng ám hại thầy của cô. Cuộc đấu tay đôi giữa hai người diễn ra tàn bạo và căng thẳng, với chiến thắng cuối cùng thuộc về Beatrix.
Điểm nhấn của phim là cuộc đối mặt đầy cảm xúc giữa Beatrix và Bill. Tại đây, Beatrix phát hiện ra sự thật đau lòng: con gái của cô, mà cô tưởng đã chết trong đám cưới, thực ra vẫn còn sống và được Bill nuôi dưỡng. Căng thẳng dâng cao khi cả hai đối diện nhau trong một trận đấu cuối cùng. Beatrix dùng tuyệt kỹ "Ngũ Chưởng Bóp Tim" (Five Point Palm Exploding Heart Technique) để kết liễu Bill, hoàn tất hành trình báo thù đầy máu và nước mắt.
Kill Bill: Vol. 2 không chỉ gây ấn tượng bởi các cảnh hành động mãn nhãn, mà còn bởi chiều sâu cảm xúc trong mối quan hệ giữa các nhân vật. Bộ phim khép lại một cách trọn vẹn và để lại dư vị mạnh mẽ về tình yêu, sự phản bội và ý chí sinh tồn.
-
Nhân vật chính, được gọi là The Bride (Cô Dâu), do Uma Thurman thủ vai, là thành viên của một tổ chức sát thủ chuyên nghiệp mang tên Deadly Viper Assassination Squad. Trong ngày cưới của mình, cô bị nhóm sát thủ mà cô từng thuộc về, dẫn đầu bởi Bill – người yêu cũ của cô, tấn công dã man. Tất cả mọi người tại buổi lễ đều bị sát hại, còn cô rơi vào trạng thái hôn mê sâu suốt 4 năm.
Khi tỉnh lại, The Bride phát hiện mình đã mất đi đứa con trong bụng và quyết tâm trả thù những kẻ đã phá hủy cuộc đời mình. Bộ phim theo chân hành trình của cô khi lần lượt săn lùng và tiêu diệt các thành viên trong nhóm sát thủ.
Trong tập đầu tiên này, The Bride đối đầu với hai mục tiêu:
O-Ren Ishii (Lucy Liu), giờ đây là thủ lĩnh một băng nhóm yakuza ở Tokyo. Trận đấu đỉnh cao giữa The Bride và O-Ren tại "Ngôi nhà của những chiếc lá xanh" là một trong những phân cảnh nổi bật nhất, đầy máu me và mãn nhãn với phong cách võ thuật đẹp mắt.
Vernita Green (Vivica A. Fox), sống một cuộc đời bình thường dưới tên Nikki Bell. Cuộc đấu tay đôi giữa hai người diễn ra ngay trong căn bếp của Vernita, mang đến không khí nghẹt thở.
Bộ phim là sự kết hợp độc đáo giữa các yếu tố phim võ thuật, phong cách Nhật Bản và phong cách cao bồi miền Tây. Kill Bill: Vol. 1 không chỉ gây ấn tượng với những cảnh hành động bạo lực được dàn dựng công phu mà còn tạo sức hút nhờ âm nhạc, màu sắc, và cách kể chuyện phi tuyến tính – thương hiệu của Tarantino.
Cuối phim, The Bride tiếp tục hành trình truy lùng những kẻ còn lại trong danh sách, đặc biệt là Bill – người đứng đầu mọi chuyện, để hoàn thành cuộc báo thù. Kết thúc mở khiến khán giả không khỏi mong chờ phần tiếp theo.
-
Hoang mạc Mãn Châu Quốc năm 1939, ngay trước thềm Đệ nhị thế chiến, tên sát thủ Park Chang-yi (Ác) được một ông chủ giao nhiệm vụ cướp bản đồ kho báu từ tay một sĩ quan Nhật Bản đang trên đường du lịch bằng tàu hỏa.
Tuy nhiên, Chang-yi bị tên Yoon Tae-goo (Quái) nẫng tay trên. Dù vậy, quân đội Nhật tức tốc tiến hành tàn sát hàng vạn thường dân Mãn Châu để trả đũa bọn bợm. Đồng thời, một phần thưởng vô cùng lớn được ban bố hòng tìm ra kẻ cướp.
Bấy giờ mới xuất hiện tên Park Do-won (Thiện), thợ săn tiền thưởng, nổi tiếng với đôi mắt chim ưng màu xám. Sự kiện cứ thế tiếp diễn với sự dự phần của đám bợm chợ đen và lính Nhật hòng đua nhau tìm ra cái kho báu có khả năng phục hưng Đế quốc Nhật Bản.
Sau nhiều cuộc đấu súng và rượt đuổi, quân đội Nhật, băng cướp Mãn Châu, Do-won, Chang-yi và băng nhóm của hắn đồng loạt đuổi theo Tae-goo. Quân Nhật tiêu diệt gần hết bọn cướp trong khi Do-won giết được nhiều lính Nhật. Chỉ còn lại Tae-goo, Do-won và Chang-yi đến được chỗ kho báu, nhưng phát hiện ra nó chỉ là một cái hố trống rỗng giữa hoang mạc. Cả ba rút súng bắn lẫn nhau rồi ngã gục. Chang-yi đã chết, Tae-goo và Do-won vẫn còn sống. Sau này số tiền thưởng cho việc truy nã Tae-goo đã được tăng lên, Do-won lên đường truy đuổi Tae-goo. Cảnh cuối phim là Tae-goo lái xe môtô băng qua hoang mạc để tẩu thoát.
-
Bối cảnh phim diễn ra tại Paris sau biến động xã hội năm 1968, tập trung vào cuộc sống của Alexandre (do Jean-Pierre Léaud thủ vai) – một chàng trai trẻ thất nghiệp, lãng tử, sống trong sự hỗ trợ tài chính của người tình lớn tuổi hơn là Marie (do Bernadette Lafont thủ vai). Alexandre là một nhân vật mang tinh thần tự do, bất cần, nhưng cũng bị mắc kẹt trong chính những mối quan hệ phức tạp mà anh ta tạo ra.
Mọi thứ trở nên rối ren hơn khi Alexandre gặp và yêu Veronika (do Françoise Lebrun thủ vai), một nữ y tá độc lập nhưng cũng đầy bất ổn nội tâm. Veronika đại diện cho một mẫu phụ nữ hiện đại: tự do về tình dục và cảm xúc, nhưng bên trong lại là một nỗi cô đơn sâu thẳm. Alexandre bắt đầu chia sẻ cuộc sống mình giữa hai người phụ nữ – Marie, với tình yêu trưởng thành, ổn định; và Veronika, với những khát vọng và đam mê mãnh liệt. Bộ phim khắc họa mối tình tay ba đầy nghịch lý này, nơi cả ba nhân vật đều tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và tình yêu nhưng chỉ nhận lại sự tổn thương và trống rỗng.
The Mother and the Whore không chỉ là câu chuyện về tình yêu, mà còn là một bức chân dung tinh tế về thế hệ trẻ Pháp thời hậu chiến, nơi những giá trị cũ kỹ đối đầu với phong trào tự do mới. Từng lời thoại dài và những cảnh quay chân thực, không cắt gọt, đã biến bộ phim thành một tuyên ngôn nghệ thuật độc đáo. Nhịp phim chậm rãi nhưng cuốn hút, từng chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc đối thoại đều phản ánh sự bất an và mất mát của con người.
-
(Ano Hi Mita Hana no Namae wo Bokutachi wa Mada Shiranai) Anohana là bộ anime original gồm 11 tập do A-1 Pictures thực hiện. Nằm tỏng danh sách những anime cảm động nhất, Anohana là một bộ phim nhẹ nhàng, buồn man mác mà vẫn đẹp lung linh và bình yên lạ thường.
Bộ phim mở đầu với sự xuất hiện của cô bé Menma trong phòng của Jintan. Hồn ma Menma ấy luôn bám lấy cậu, và nói rằng mình cần được thực hiện một điều ước – một điều ước cần sự góp sức của tất cả thành viên trong “Biệt Đội Siêu Hoà Bình” năm nào, đó là Poppo, Anaru, Yukiatsu và Tsuruko. Các thành viên của nhóm bạn dần xuất hiện trong cuộc sống hiện tại của Jintan, sau một thời gian dài không nói chuyện hay gặp mặt nhau. Mạch phim nhẹ nhàng, êm đềm nhưng phảng phất nét ảm đạm và u buồn.
Phim đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Theo dòng hồi tưởng của các nhân vật, những kí ức đau buồn của nhóm bạn dần được gợi mở. Khi họ còn bé, Jintan, Menma, Anaru, Tsuruko, Yukiatsu và Poppo chơi thân với nhau. Những tháng ngày vui vẻ, hạnh phúc nhẹ nhàng trôi đi. Một ngày, Menma đột ngột ra đi, 5 người còn lại bị ám ảnh bởi cái chết của cô bé và cứ thế xa nhau dần. Tâm hồn của họ dường như mãi bị giam cầm trong những ám ảnh của quá khứ. Họ trốn tránh thực tại, tự cô lập bản thân. Họ đóng kín cảm xúc thật, cố gắng tỏ ra thờ ơ, xa lạ với những người bạn năm nào. Họ ít gặp nhau, có lẽ bởi họ đều cố quên một người quan trọng, đều cố chôn vùi quá khứ đau thương. Họ tưởng rằng tâm hồn mình đã bình yên, tưởng rằng mình đã quên. Nhưng, khi có ai đó bất giác nhắc đến Menma, họ nhận ra những kí ức năm nào vẫn ùa về, rõ nét và chân thực đến ám ảnh. Cảm giác ấy, kí ức ấy,… tất cả đều vẹn nguyên như chỉ mới xảy ra ngày hôm qua. Họ cứ mãi lạc lối trong khu rừng cảm xúc, nên khi Menma xuất hiện cùng điều ước chưa được hoàn thành, tất cả đều tham gia vì muốn kiếm tìm sự thật, kiếm tìm câu trả lời cho chính mình, cho cảm xúc và trái tim của mình.
Khi điều ước cuối cùng được thực hiện nhưng Menma vẫn chưa siêu thoát, tất cả cảm xúc kìm nén bấy lâu nay của mọi người bắt đầu hiện rõ. Yêu, ghét, sợ hãi, ghen tị, buồn bã, ám ảnh, cô đơn,… Cuối cùng, họ đã có thể thành thật với lòng mình, với cảm xúc của chính mình sau chừng ấy năm. Menma đã cứu rỗi tất cả. Trước đó, tất cả đều chỉ muốn thực hiện điều ước của Menma vì những lí do cho bản thân, vì những ích kỉ nhỏ nhen. Giờ đây, họ quyết tâm thực hiện điều ước là vì Menma, vì muốn Menma được siêu thoát và đầu thai, vì “Tất cả chúng tớ đều yêu Menma”.
Menma là người đưa những người bạn trở lại với nhau, cũng là người hàn gắn lại tình bạn đẹp đẽ ấy bằng chính tấm lòng chân thành của cô bé. Menma là người duy nhất yêu quý tất cả mọi người như nhau. Cô bé muốn được mãi làm bạn với mọi người, muốn đầu thai để được nói chuyện và ở bên mọi người lần nữa. “Đến phút cuối, tớ mong chúng ta vẫn mãi là bạn.” (Menma) Điều ước của Menma, điều ước cuối cùng và đặc biệt ấy, không phải là chơi Nokemon, là Jintan đi học lại, hay là đốt pháo hoa,… Điều ước ấy là Jintan (và tất cả mọi người) có thể vui, buồn, cười, khóc, giận hờn nhiều hơn nữa, có thể thoải mái bộc lộ cảm xúc thay vì cứ kìm nén mãi trong lòng. Điều ước ấy chỉ có thể thành hiện thực khi tất cả mọi người cùng tập hợp lại và làm bạn với nhau, cùng giúp đỡ nhau, cứu rỗi tâm hồn nhau và được linh hồn Menma cứu rỗi. Khi nhóm bạn tìm ra điều ước thực sự cũng là lúc tất cả tìm được những điều quí giá mà cô bé đã trao tặng cho mỗi người, một điều gì đó vô hình nhưng vô giá: Tình bạn. Menma, đến phút cuối cùng, vẫn luôn nghĩ cho người khác, vẫn luôn hết lòng vì bạn bè của mình. Menma là người gắn kết 5 mảnh ghép lại với nhau, tạo thành bức tranh tình bạn ấm áp, chân thành, đẹp đẽ và lung linh diệu kì. Một bức tranh tình bạn khiến bất cứ ai xem Anohana cũng xúc động rơi lệ.
Nhờ sự xuất hiện đặc biệt của Menma, mọi người đã trở nên thành thật với nhau và bắt đầu gọi tên biệt danh từ hồi bé thay vì gượng gạo gọi họ của nhau. Bức tường ngăn cách đã được phá vỡ. Mọi người lại có thể làm bạn, cùng nhau tụ tập đốt pháo hoa, nướng thịt, gọi điện cho nhau tâm sự, cùng chơi Nokemon và đập tay ăn mừng chiến thắng… Những tiếng cười giòn tan lại xuất hiện, vẻ mặt vui vẻ hạnh phúc lại hiện hữu. Dù đã trải qua 10 năm, dù mỗi người đã có một con đường riêng, nhưng tâm hồn họ vẫn luôn hướng về nhau, về Menma và những ký ức tuổi thơ hồn nhiên, đẹp đẽ. Tình bạn chân thành và trong sáng từng bị vùi sâu trong tim mỗi người nay đã trỗi dậy và đẹp đẽ hơn bao giờ hết.
Dù “Biệt Đội Siêu Hoà Bình” là một nhóm bạn thân thiết nhưng mỗi người đều thầm thích một người khác trong nhóm. Những tình cảm đặc biệt ấy chưa thể nói ra đã khiến họ đau khổ và ân hận trong suốt thời gian dài. Jintan ngày bé, khi được Anaru hỏi về tình cảm với Menma, vì ngượng nên đã nói Menma xấu ngoắc, để rồi mãi ân hận không thể nói lời xin lỗi và cảm xúc thật mình dành cho cô. Khi Menma trở lại, Jintan vừa muốn cố hết sức để thực hiện điều ước của Menma, vừa muốn ở bên Menma mãi như thế này, dù cô bé chỉ là hồn ma. Anaru và Tsuruko đều có những khổ tâm riêng khi người cô thích lại hướng tình cảm về Menma. Vì vậy, hai người đã cố gắng giúp Menma siêu thoát để người mình thích quên đi Menma, để mình có cơ hội tiếp cận và thân thiết với người ấy. Những mâu thuẫn trong cảm xúc của Jintan, những ý nghĩ của Anaru và Tsuruko phải chăng chính là những ích kỉ của con người khi chúng ta nghĩ về người mình yêu thương? Yukiatsu có lẽ là người bị ám ảnh nhiều nhất sau khi Menma ra đi. Cậu luôn tự dằn vặt bản thân mình đã hại chết Menma, người cậu luôn yêu quý. Yukiatsu luôn tỏ ra thô lỗ với Jintan, nhưng những lời chế giễu mà cậu nói thực ra lại ám chỉ chính mình, vì cậu cứ mãi nghĩ về chuyện quá khứ… Không chỉ chịu đựng nỗi đau mất đi người mình yêu thương, những người bạn ấy còn phải chịu đựng cảm giác bất lực khi người mình yêu thương ở ngay kề bên nhưng lại không thể chạm tới.
Anohana truyền đi thông điệp sâu sắc về tình bạn và tình yêu. Hãy trân trọng những người quan trọng với bạn khi họ vẫn còn ở bên bạn. Hãy nói những lời yêu thương bạn chưa dám nói khi còn có thể. Hãy nâng niu và gìn giữ những điều nhỏ bé vô giá trong cuộc sống của bạn trước khi quá muộn. Bộ phim cũng khiến chúng ta yêu quý hơn cuộc sống của mình và thành thật với cảm xúc của bản thân.
Anohana giống như một lát cắt của cuộc sống đời thường, nhẹ nhàng, chân thực, đẹp nhưng buồn man mác. Nữ biên kịch của Anohana từng chia sẻ với khán giả rằng: “Những gì các bạn đã xem trong Anohana đều rất đời thường, và rất dễ bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày của mọi người; đôi khi nó đơn giản đến mức người ta không nhận ra…” Bộ phim mang những nét mộc mạc, tự nhiên, sâu lắng và dịu dàng lay động tâm hồn người xem.
Từng hình ảnh, khung hình,… tất cả đều được chăm chút tỉ mỉ và hiện lên vô cùng chân thực gần gũi. Các nhân vật được phác hoạ đơn giản, không cầu kì, nhưng không vì thế mà mất đi nét riêng biệt. Những đoạn cao trào, cảm động trong phim đều được chăm chút, khiến người xem không kìm nén được cảm xúc. Các chi tiết xuyên suốt bộ phim đều ít nhiều mang cảm giác buồn man mác và để lại ấn tượng trong lòng người xem. Âm nhạc trong Anohana rất hay và phù hợp với bộ phim. Hai bài hát Opening và Ending nhẹ nhàng, bay bổng cùng các đoạn nhạc nền trầm lắng, du dương mang cảm giác bình yên đến cho người xem.
Ngoài ra, Anohana còn đi sâu khai thác nội tâm nhân vật. Mỗi nhân vật đều có nét cá tính độc đáo, những mặt tối thẳm sâu trong tâm hồn, những mối quan hệ phức tạp cùng với những cảm xúc đa sắc màu… Các seiyuu đã thể hiện thành công giọng nói, tính cách tâm hồn của các nhân vật: Poppo vui vẻ, láu cá; Yukiatsu lạnh lùng, khó gần; Jintan chân thật, giàu tình cảm; Tsuruko thông minh, nhạy bén; Anaru tốt bụng, tình cảm và Menma trong sáng, tinh nghịch, đáng yêu…
Khi xem Anohana, mọi người thường liên tưởng đến một bộ anime khác của A-1 Pictures là Shigatsu wa Kimi no Uso, và ngược lại. Anohana và Shigatsu wa Kimi no Uso luôn được xếp vào nhóm những anime có sad ending. Mình không biết mọi người định nghĩa một bộ phim có “sad ending” cần có những yếu tố gì, nhưng mình nghĩ nói Anohana có sad ending thì không hoàn toàn chính xác. Cũng như với Shigatsu wa Kimi no Uso cũng vậy, không phải nhân vật chính ra đi hay phim khiến người xem khóc nhiều thì nó sẽ có “sad ending”. Trong Anohana, dù Menma siêu thoát, nhưng tất cả thành viên của “Biệt Đội Siêu Hoà Bình” ấy lại cảm thấy bình yên và được cứu rỗi hơn bao giờ hết. Họ đều dần trưởng thành, tiến về phía trước từng chút một. Kết phim cũng gợi mở về việc Menma sẽ đầu thai và trở lại trần thế. Mình không nghĩ rằng đó là sad ending. Tương tự với Shigatsu wa Kimi no Uso, dù Kaori mất, nhưng Kousei vẫn có Watari và Tsubaki ở bên cạnh, cậu cũng đã tìm lại được đam mê piano của mình. Thế giới rực rỡ sắc màu và tràn ngập ánh sáng đang mở ra với Kousei. Mình cũng không nghĩ đó được gọi là “sad ending”.
Với một kết thúc trọn vẹn, Anohana đưa người xem từ cảm xúc cao trào, hồi hộp đến những giây phút xúc động, sâu lắng. Bộ phim giàu cảm xúc này xứng đáng nằm trong danh sách những bộ anime mà bạn nhất định phải xem một lần trong đời.
-
GHOST: Rite Here Rite Now" là một bộ phim hòa nhạc Mỹ năm 2024, do Tobias Forge và Alex Ross Perry đạo diễn, ghi lại hai buổi biểu diễn của ban nhạc rock Thụy Điển Ghost tại Kia Forum ở Inglewood, California, vào tháng 9 năm 2023.
WIKIPEDIA
Bộ phim kết hợp giữa cảnh biểu diễn trực tiếp và câu chuyện hư cấu về Papa Emeritus IV, thủ lĩnh của Ghost, đang đối mặt với việc bị thay thế. Trong hậu trường, anh trò chuyện với Sister Imperator và hồn ma của Papa Nihil, cha mẹ của anh và là thành viên của Bộ Giáo hội Satan hư cấu của ban nhạc. Những cuộc trò chuyện này giúp Papa Emeritus IV nhận ra vai trò mới của mình và chấp nhận sự thay đổi sắp tới.
NME
Với thời lượng 145 phút, bộ phim mang đến trải nghiệm âm nhạc sống động và câu chuyện hấp dẫn về sự phát triển của ban nhạc. "GHOST: Rite Here Rite Now" được phát hành tại các rạp chiếu phim toàn cầu vào ngày 20 và 22 tháng 6 năm 2024.
-
Câu chuyện bắt đầu khi Francis, một chú mèo nhà thông minh, cùng chủ của mình chuyển đến một khu phố mới. Ngay từ những ngày đầu đặt chân đến đây, Francis phát hiện ra những vụ án mạng bí ẩn liên quan đến các chú mèo trong khu vực. Xác của một chú mèo chết được tìm thấy, và Francis cảm nhận đây không phải chỉ là một sự cố ngẫu nhiên.
Francis, với trí thông minh và sự tò mò, quyết định tìm hiểu sự thật. Trong quá trình điều tra, Francis gặp gỡ nhiều nhân vật khác nhau, từ những chú mèo trong khu vực như Bluebeard, một chú mèo cụt tai luôn hoài nghi, đến Felicitas, một cô mèo bí ẩn và quyến rũ. Càng đào sâu, Francis phát hiện một thế giới ngầm của mèo đang tồn tại với những âm mưu, bí mật kinh hoàng, và một giáo phái tôn thờ lý tưởng ưu sinh học bệnh hoạn.
Điểm nhấn của bộ phim là những giấc mơ kỳ lạ và ám ảnh mà Francis trải qua, hé lộ những manh mối liên quan đến một nhân vật bí ẩn tên Claudandus. Bí ẩn này dần được mở ra với những sự thật tàn khốc về thí nghiệm trên động vật và lòng hận thù sâu sắc đối với con người.
-
Lấy bối cảnh tương lai, nơi các nhà tù được tư nhân hóa và điều hành như một doanh nghiệp, bộ phim kể về Ricky Ho (do Louis Fan thủ vai) – một thanh niên sở hữu sức mạnh siêu phàm cùng kỹ năng võ thuật vượt trội. Anh bị kết án 10 năm tù vì tội giết người để trả thù cho cái chết của bạn gái mình.
Khi vào tù, Ricky phát hiện ra rằng nơi đây không chỉ là một nhà giam bình thường mà còn là trung tâm của tội ác và sự tham nhũng. Các cai ngục và băng nhóm trong tù, được đứng đầu bởi "The Gang of Four" – những thủ lĩnh tàn ác với các kỹ năng chiến đấu quái dị – không ngừng tra tấn và đàn áp tù nhân.
Ricky không chịu khuất phục trước bạo lực và bất công. Anh dùng sức mạnh phi thường để chống lại hệ thống độc tài này, bảo vệ những người yếu thế và dần dần trở thành người hùng của các tù nhân. Cuộc chiến của Ricky dẫn đến những trận chiến đầy máu me và đậm chất siêu thực, nơi anh không chỉ phải đối đầu với kẻ thù mà còn phải đối mặt với quá khứ đau thương của chính mình.
-
Trong không khí đầy bí ẩn của một thị trấn nhỏ miền quê, bộ phim truyền hình Dark Night of the Scarecrow (1981) khéo léo khai thác nỗi sợ hãi, sự bất công và trả thù đầy ám ảnh. Câu chuyện xoay quanh một người đàn ông trí não chậm chạp nhưng hiền lành, Bubba Ritter, và bi kịch xảy đến với anh.
Bubba là bạn thân của một cô bé tên Marylee. Một ngày, khi Marylee gặp tai nạn với một con chó hung hãn, những người trong thị trấn – dẫn đầu bởi gã bưu tá tàn bạo Otis Hazelrigg – đã vội vàng buộc tội Bubba là thủ phạm. Không chờ lời giải thích, nhóm người này truy lùng Bubba. Trong nỗi sợ hãi, Bubba trốn vào cánh đồng trong hình dáng một bù nhìn rơm, nhưng anh vẫn bị phát hiện và bị sát hại tàn nhẫn. Ngay sau đó, sự thật được sáng tỏ: Bubba hoàn toàn vô tội.
Những kẻ sát nhân được tòa án tha bổng, nhưng họ không thoát khỏi sự phán xét khác – sự trả thù từ một thế lực bí ẩn. Lần lượt, những người tham gia vào vụ sát hại Bubba bị ám sát trong những hoàn cảnh đáng sợ, với dấu hiệu là hình ảnh của một bù nhìn rơm xuất hiện tại hiện trường. Không ai biết liệu đó là linh hồn của Bubba trở về hay là một kẻ nào đó đứng sau màn trả thù này.
Bộ phim dẫn dắt khán giả vào một hành trình đầy căng thẳng, khi nỗi sợ hãi và ám ảnh dần bao trùm thị trấn. Với không khí u ám và cách kể chuyện thông minh, Dark Night of the Scarecrow không chỉ là một câu chuyện kinh dị mà còn là lời cảnh tỉnh về hậu quả của sự bất công và định kiến xã hội.
Kết thúc bộ phim để lại một dấu hỏi lớn, khiến người xem không thể rời mắt và cảm nhận được sự rùng rợn kéo dài ngay cả khi màn hình đã tối đen. Dark Night of the Scarecrow là một tác phẩm đáng nhớ của thể loại kinh dị, với cách xây dựng hồi hộp và thông điệp sâu sắc.
-
"Mobile Suit Gundam SEED Freedom" là bộ phim hoạt hình khoa học viễn tưởng quân sự Nhật Bản, ra mắt năm 2024, do Mitsuo Fukuda đạo diễn. Đây là phần tiếp theo của hai loạt phim "Mobile Suit Gundam SEED" và "Mobile Suit Gundam SEED Destiny", lấy bối cảnh một năm sau các sự kiện trong "SEED Destiny".
Trong bối cảnh năm 75 C.E., thế giới vẫn chìm trong xung đột với các phong trào đòi độc lập và sự xâm lược của tổ chức Blue Cosmos. Để lập lại hòa bình, tổ chức giám sát hòa bình thế giới mang tên COMPASS được thành lập, với Lacus Clyne làm chủ tịch đầu tiên. Kira Yamato và các đồng đội gia nhập COMPASS, can thiệp vào các cuộc chiến trên khắp thế giới. Lúc này, quốc gia mới nổi Foundation đề xuất hợp tác với COMPASS để tấn công trụ sở chính của Blue Cosmos.
Bộ phim tập trung vào mối quan hệ giữa Kira Yamato và Lacus Clyne, khám phá sâu hơn tình cảm và thử thách họ đối mặt. Đồng thời, nhân vật Shinn Asuka được phát triển, trở nên đáng mến hơn và mang lại những khoảnh khắc hài hước tự nhiên.
Về mặt kỹ thuật, đạo diễn Mitsuo Fukuda chia sẻ rằng việc sử dụng CGI và số lượng lớn các mecha đã tạo ra không ít khó khăn trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã mang lại các cảnh chiến đấu ấn tượng, kết hợp hài hòa giữa hoạt hình và âm nhạc.
"Mobile Suit Gundam SEED Freedom" đã thu về hơn 36 triệu USD, trở thành bộ phim có doanh thu cao nhất trong loạt phim Gundam. Phim nhận được đánh giá tích cực nhờ vào việc tập trung vào câu chuyện tình yêu, đặc biệt là giữa Kira và Lacus, cùng với các cảnh chiến đấu được đầu tư kỹ lưỡng. Tuy nhiên, một số yếu tố fanservice trong phim có thể gây khó chịu cho một số khán giả nhạy cảm.
Ngoài ra, một phần tiền truyện mang tên "Mobile Suit Gundam SEED Freedom Zero" đã được công bố và đang trong quá trình phát triển, hứa hẹn mở rộng thêm vũ trụ Gundam SEED.
-
Thesis (Tựa gốc: Tesis) là một bộ phim tâm lý kinh dị Tây Ban Nha do Alejandro Amenábar đạo diễn, xoay quanh chủ đề đáng sợ của bạo lực trong truyền thông và mặt tối của con người. Bộ phim vừa kịch tính, vừa lạnh lẽo, cuốn hút khán giả với câu chuyện đầy bí ẩn và những khúc ngoặt bất ngờ.
Câu chuyện bắt đầu khi Ángela, một sinh viên ngành truyền thông tại một trường đại học ở Madrid, đang làm luận văn tốt nghiệp về bạo lực trong phim ảnh. Trong quá trình nghiên cứu, cô tình cờ phát hiện một cuốn băng video đáng sợ tại phòng chiếu phim của trường. Khi mở băng, cô phát hiện nội dung là một "snuff film" – một đoạn phim ghi lại cảnh tra tấn và giết người thật sự. Điều kinh hoàng hơn, nạn nhân trong cuốn băng chính là một nữ sinh đã mất tích bí ẩn trước đó tại trường.
Ángela quyết định điều tra nguồn gốc của cuốn băng, và cô nhận được sự giúp đỡ từ Chema, một người bạn cùng trường với sở thích kỳ lạ về phim kinh dị bạo lực. Trong quá trình đào sâu, Ángela dần phát hiện rằng mọi thứ liên quan đến cuốn băng có mối liên hệ nguy hiểm với chính những người xung quanh cô, bao gồm cả Bosco – một sinh viên điển trai và quyến rũ nhưng đầy bí ẩn.
Bộ phim dẫn dắt người xem qua từng mảng tối của câu chuyện, khi Ángela nhận ra rằng càng tiến gần sự thật, cô càng trở thành mục tiêu của những thế lực ngầm. Kịch tính của Thesis không chỉ đến từ sự căng thẳng và những cảnh quay hồi hộp, mà còn từ việc khắc họa nỗi ám ảnh của xã hội hiện đại với bạo lực, sự vô cảm và những ranh giới đạo đức bị xóa nhòa.
Với diễn xuất ấn tượng, kịch bản sắc sảo và bầu không khí ngột ngạt, Thesis không chỉ là một bộ phim kinh dị thông thường mà còn là một tác phẩm sâu sắc, đầy ý nghĩa. Bộ phim đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có 7 giải Goya, bao gồm Phim xuất sắc nhất, đánh dấu bước khởi đầu thành công rực rỡ trong sự nghiệp của Alejandro Amenábar.
Nếu bạn yêu thích những bộ phim vừa ly kỳ vừa kích thích suy ngẫm, Thesis chắc chắn sẽ là một tác phẩm không thể bỏ qua.
-
Phim bắt đầu khi giáo sư này đang đứng trước bờ vực phá sản vì những khoản nợ chồng chất từ sòng bạc. Anh ta cố gắng duy trì một cuộc sống bình thường, nhưng bóng ma của những con bài luôn ám ảnh và khiến anh ta rơi vào những tình huống nguy hiểm.
Để trả nợ và thoát khỏi vòng xoáy cờ bạc, giáo sư đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách. Anh ta bị những kẻ cho vay nặng lãi truy đuổi, gia đình tan vỡ và sự nghiệp cũng đứng trên bờ vực sụp đổ.
Phim không chỉ là một bộ phim giải trí mà còn mang đến những thông điệp sâu sắc về lòng tham, sự nghiện ngập và những hậu quả khôn lường của nó. Phim nhắc nhở chúng ta về giá trị của gia đình, tình bạn và sự tỉnh táo trong cuộc sống.
-
Ba nhân vật chính – Joe (Châu Nhuận Phát), Jim (Trương Quốc Vinh), và Cherie (Chung Sở Hồng) – là những kẻ trộm nghệ thuật khét tiếng, sống bằng việc thực hiện những phi vụ táo bạo và đầy nguy hiểm. Họ là một "gia đình" bất đắc dĩ, cùng nhau lớn lên trên đường phố sau khi được một tay trùm tội phạm nhận nuôi và đào tạo.
Phi vụ trung tâm của phim là khi bộ ba quyết định đánh cắp một bức tranh quý hiếm, thu hút sự chú ý của nhiều thế lực nguy hiểm. Tuy nhiên, kế hoạch không suôn sẻ khi lòng tham, sự phản bội và những toan tính cá nhân bắt đầu chen ngang.
Khi phi vụ thất bại, Joe bị trúng đạn và tưởng chừng đã mất mạng. Jim và Cherie, tưởng như đã thoát thân, phải đối mặt với những ám ảnh từ quá khứ và sự truy đuổi của tổ chức tội phạm. Những tưởng Joe đã chết, nhưng anh bất ngờ trở lại, khiến cục diện đảo chiều.
Phim từ đây bước vào những pha hành động kịch tính, với những màn đấu súng và rượt đuổi gay cấn. Đồng thời, các nhân vật phải đối diện với câu hỏi: Liệu họ có thể thực sự thoát khỏi con đường tội lỗi để bắt đầu một cuộc sống mới?
Once a Thief không chỉ đơn thuần là một bộ phim hành động. Phim còn chạm đến tình bạn, tình yêu và lòng trung thành, được thể hiện qua diễn xuất xuất sắc của dàn diễn viên. Những khoảnh khắc hài hước đan xen với các cảnh hành động mãn nhãn đã tạo nên một tác phẩm vừa kịch tính vừa giàu cảm xúc.
Phim đặt ra câu hỏi về sự lựa chọn trong cuộc sống: Liệu chúng ta có thể thay đổi số phận, hay quá khứ sẽ mãi là xiềng xích? Dù là những kẻ trộm, nhưng sâu thẳm trong họ vẫn là khát khao được sống tự do và làm lại từ đầu.
Once a Thief là một sự kết hợp hoàn hảo giữa hành động, hài kịch và cảm xúc, xứng đáng là một trong những tác phẩm kinh điển của điện ảnh Hong Kong.
-
Se7en là một bộ phim điện ảnh của đạo diễn nổi tiếng người Mỹ David Fincher, kịch bản được viết bởi Andrew Kevin Walker, ra mắt vào tháng 09 năm 1995. Bộ phim thuộc thể loại tâm lý hình sự và được gắn mác 18+.
Phim kể về hành trình điều tra những vụ giết người kì quái của hai thám tử, được vào vai bởi Morgan Freeman (trong vai William Somerset) và Brad Pitt (trong vai David Mills), xoay quanh việc tên sát nhân hàng loạt John Doe (vào vai bởi Kevin Spacey) đi sát hại những người mà hắn cho là đại diện của 7 tội ác trong Kinh thánh: Tham Ăn (Gluttony), Ganh Tị (Envy), Dâm Dục (Lust), Kiêu Căng (Pride), Lười Biếng (Sloth), Tham Lam (Greed) và Phẫn Nộ (Wrath).
Se7en chắc chắn không phải là tác phẩm đầu tay của đạo diễn David Fincher nhưng đây sẽ là tác phẩm đánh dấu và định hình phong cách làm phim của ông, đưa tài năng của ông đến với người xem. Sở dĩ nó đặc biệt như vậy bởi Se7en đã vượt qua cái ranh giới của một bộ phim thông thường để đưa người xem đến với một trải nghiệm đặc biệt về tâm lý. Một khung cảnh và không gian đen tối đến mức chúng ta khó có thể thấy được ở những bộ phim Hollywood.
Càng xem nhiều phim hay hiểu sâu hơn về nghệ thuật trong điện ảnh hơn là lời thoại và diễn xuất thông thường của diễn viên như bố cục, cách sử dụng ánh sáng, màu sắc, góc máy quay sẽ khiến bạn càng cảm nhận được sự tối tăm, dữ dội đến mức kinh khủng của bộ phim.
Về nội dung phim
Gây ấn tượng mạnh về mặt cảm giác ngay từ đoạn credit mở đầu và xuyên suốt bộ phim cho tới đoạn kết đầy ngỡ ngàng. Mỗi khi đi qua một phần của bộ phim, người xem lại càng cảm nhận được sự u ám, thấy được thông điệp mà David Fincher muốn chuyền tải được đến người xem về một xã hội kinh tởm, tàn khốc mà mỗi một thành phần của xã hội đó đều là một tù nhân không có lối thoát. Bất chấp sự thật rằng bộ phim xoay quanh những vụ án mạng, Se7en hoàn toàn không có cảnh giết người (hay có thể nói là cảnh ra tay của hung thủ). Việc đạo diễn hướng cho người xem chứng kiến những xác chết tại hiện trường vụ án, hoặc trong những bức ảnh, góc quay khuất đã tăng thêm độ ám ảnh cho bộ phim khi buộc khán giả phải tự tưởng tượng ra sự ghê rợn của những tội ác, sự tàn bạo của tên sát nhân tâm thần John Doe.
Và để nói đến sự thành công của Se7en thì nhất quyết không thể bỏ qua John Doe – một trong những tên sát nhân tâm thần có bộ não siêu việt nhất trên màn ảnh. Không giống như những bộ phim phá án thông thường khi mô típ quen thuộc đấy chính là bằng những lập luận thiên tài của một thám tử/thanh tra, kẻ phản diện sẽ bị bắt và bộ phim sẽ có một kết thúc có hậu. Không, điều đó hoàn toàn không xảy ra đối với Se7en. Ngay giữa những bế tắc của cuộc điều tra, John Doe đã tự giao nộp bản thân mình cho cảnh sát, thừa nhận vừa giết nạn nhân thứ năm rồi đồng ý dẫn Mills và Somerset tới nơi gây ra tội ác như là một phần cái kết của vở kịch vĩ đại mà hắn đã dựng nên.
Một cái kết đầy bất ngờ, nhân vật phản diện chết đi nhưng lại khiến cho khán giả không thể phân biệt được rằng đó là sự trừng phạt thích đáng hay phần thưởng mà John Doe luôn muốn nhận. Còn nhân vật chính diện - điều tra viên - cuối cùng lại bất đắc dĩ phải thủ ác. Cái kết bất ngờ phá bỏ mọi logic thông thường khiến bộ phim không còn là phim điều tra thông thường mà trở thành vở kịch về đạo đức.Bộ phim đã xoá bỏ đi cái ranh giới thiện - ác khiến người xem phải thực sự suy ngẫm rằng ai mới thực sự là người vô tội hay có tội trong cuộc sống này.
Cá nhân mình thường hay liên tưởng John Doe như là một sự kết hợp của 2 nhân vật phản diện trên màn ảnh là Hannibal Lecter và Joker. Một trí tuệ siêu phàm, sự tự tin, bình đủ để biến cảnh sát trở thành con rối trong lòng bàn tay, một cơn phẫn nộ, bất mãn đã xúi giục hắn vẽ nên vở kịch kinh khủng nhất trong lịch sử.
Đôi lời bên lề
Mình hay có thói quen xem phim theo diễn viên hoặc đạo diễn, và đối với mình, Se7en và Fight Club là hai bộ phim đáng xem nhất của Brad Pitt. Tyler Durden và Detective Mills là những nhân vật với cá tính đặc biệt đồng thời cũng là 2 vai diễn khiến mình thấy được hết tài năng diễn xuất của Brad. Dù sau này anh vẫn đóng nhiều phim hay nhưng trong thâm tâm mình hình tượng của Brad những năm 90 là một cái gì đấy khó có thể thay đổi được.
-
Năm 2024, màn ảnh rộng một lần nữa chứng kiến sự trở lại của những thước phim lịch sử đầy kịch tính với bộ phim "Quisling: The Final Days". Tác phẩm không chỉ đơn thuần là một thước phim tài liệu, mà còn là một cuộc hành trình sâu sắc vào tâm hồn của một trong những nhân vật gây tranh cãi nhất trong lịch sử Thế chiến II: Vidkun Quisling.
Na Uy, những năm 1940. Khi đất nước bị bóng tối của phát xít Đức bao phủ, Vidkun Quisling, một chính trị gia đầy tham vọng, đã chọn con đường hợp tác với kẻ thù để nắm quyền. Bộ phim tái hiện lại những ngày cuối cùng đầy sóng gió của ông ta, khi đế chế của Hitler sụp đổ và số phận của Quisling cũng dần đi đến hồi kết.
"Quisling: The Final Days" không chỉ là một bản báo cáo lịch sử khô khan. Bộ phim xoáy sâu vào tâm lý của Quisling, khám phá những động cơ sâu xa đằng sau những quyết định sai lầm của ông ta. Chúng ta sẽ được chứng kiến một con người đầy mâu thuẫn: lúc thì tham vọng, lúc thì hối hận, lúc thì tuyệt vọng.
-
Pusher III đưa khán giả trở lại với thế giới ngầm đầy bạo lực và những con người đầy mâu thuẫn. Frank, kẻ buôn ma túy khét tiếng, một lần nữa phải đối mặt với những thử thách cam go. Liệu anh ta có thể thoát khỏi vòng xoáy tội lỗi và tìm được con đường cứu rỗi? Hay quá khứ đen tối sẽ mãi ám ảnh và nhấn chìm anh ta? Với Pusher III, đạo diễn Nicolas Winding Refn tiếp tục mang đến một tác phẩm điện ảnh đầy chất liệu bạo lực, tâm lý, hứa hẹn sẽ khiến người xem không thể rời mắt.
-
Bạn từng nghĩ cuộc sống tội phạm thật hào nhoáng? Pusher II sẽ đưa bạn vào một thực tế tàn khốc và phũ phàng hơn bao giờ hết.
Nicolas Winding Refn, đạo diễn tài năng của điện ảnh Đan Mạch, đã một lần nữa khiến khán giả phải rùng mình với phần tiếp theo của loạt phim Pusher. Ra mắt vào năm 2004, Pusher II tiếp tục theo chân Frank, một kẻ buôn ma túy trẻ tuổi đang cố gắng trả một khoản nợ khổng lồ.
Trong một vòng xoáy tội lỗi, Frank bị cuốn vào những tình huống nguy hiểm, đe dọa tính mạng. Mối quan hệ với những người bạn thân thiết cũng dần rạn nứt. Bộ phim khắc họa chân thực về cuộc sống ngầm, nơi mà lòng tham, bạo lực và sự phản bội luôn chực chờ.
Điểm nhấn của Pusher II chính là diễn xuất xuất sắc của Mads Mikkelsen trong vai Frank. Anh đã hóa thân hoàn hảo vào một nhân vật phức tạp, đầy mâu thuẫn. Bên cạnh đó, phong cách làm phim đặc trưng của Refn với những cảnh quay cận mặt, ánh sáng tối tăm và âm nhạc căng thẳng đã tạo nên một bầu không khí u ám, ám ảnh.
Pusher II không chỉ là một bộ phim hành động đơn thuần mà còn là một bức tranh xã hội đen tối. Phim đặt ra những câu hỏi về lòng trung thành, tình bạn và hậu quả của những lựa chọn sai lầm.
Nếu bạn là fan của dòng phim hình sự, đặc biệt là những bộ phim có nội dung sâu sắc và hình ảnh bạo lực, thì Pusher II chắc chắn là một lựa chọn không thể bỏ qua. Hãy chuẩn bị tinh thần để bước vào một thế giới đầy rẫy tội ác và hiểm nguy.
-
Frank (Kim Bodnia) là một kẻ buôn ma túy nhỏ lẻ sống ở Copenhagen. Hắn hoạt động trong thế giới ngầm cùng với bạn thân của mình, Tonny (Mads Mikkelsen). Frank là người tự tin, gan dạ nhưng đồng thời cũng bốc đồng và dễ phạm sai lầm.
Một ngày nọ, Frank thực hiện một thương vụ lớn để bán ma túy cho một người mua mới. Tuy nhiên, phi vụ này bị cảnh sát phát hiện, và Frank buộc phải vứt bỏ ma túy trước khi bị bắt. Hắn may mắn thoát khỏi nhà tù, nhưng vấn đề lớn hơn xuất hiện: Milo (Zlatko Buric), một tay trùm tội phạm khét tiếng và nhà cung cấp ma túy cho Frank, yêu cầu hắn phải trả lại số tiền lớn cho số hàng đã mất.
Không có tiền để trả nợ, Frank rơi vào tình trạng tuyệt vọng. Hắn cố gắng xoay xở khắp nơi, từ việc ép các con nợ trả tiền cho đến bán mọi thứ có giá trị. Tuy nhiên, mọi nỗ lực của hắn đều thất bại. Áp lực ngày càng gia tăng khi Milo trở nên mất kiên nhẫn và bắt đầu đe dọa mạng sống của Frank.
Khi thời gian cạn dần, Frank nhận ra rằng không thể tin tưởng bất kỳ ai, kể cả Tonny hay bạn gái của mình, Vic. Trong một thế giới tàn nhẫn, nơi tình bạn và tình yêu bị đè nặng bởi lợi ích và bạo lực, Frank phải tìm cách sống sót hoặc đối mặt với hậu quả thảm khốc.
-
Câu chuyện lấy bối cảnh bang Texas sau Nội chiến Hoa Kỳ. Ethan Edwards (John Wayne), một cựu binh lạnh lùng và cô độc, trở về nhà người anh trai sau nhiều năm xa cách. Tuy nhiên, bi kịch xảy ra khi gia đình anh trai bị tấn công bởi bộ tộc Comanche, và cô cháu gái nhỏ Debbie (Natalie Wood) bị bắt cóc.
Ethan cùng Martin Pawley (Jeffrey Hunter), một chàng trai trẻ lai da trắng và da đỏ được gia đình nuôi dưỡng, bắt đầu cuộc hành trình dài để tìm kiếm Debbie. Hành trình này kéo dài nhiều năm, qua những vùng đất khắc nghiệt và đầy nguy hiểm. Trong suốt chuyến đi, Ethan bộc lộ những định kiến sâu sắc và thù hằn với người da đỏ, khiến mối quan hệ giữa anh và Martin trở nên căng thẳng.
Câu chuyện không chỉ tập trung vào việc giải cứu Debbie mà còn khám phá những xung đột nội tâm của Ethan. Đến cuối phim, khi Ethan tìm thấy Debbie, anh phải đối mặt với câu hỏi: liệu cô còn là cháu gái của anh hay đã trở thành "kẻ xa lạ" sau nhiều năm sống với người Comanche?
Phim nổi bật với hình ảnh hoành tráng, bối cảnh miền Tây hùng vĩ và sự phức tạp trong cách xây dựng nhân vật. John Wayne mang đến một vai diễn đầy chiều sâu, vừa mạnh mẽ vừa mâu thuẫn nội tâm.
The Searchers không chỉ là một câu chuyện viễn Tây thông thường mà còn là một tác phẩm đa chiều về tình yêu gia đình, lòng thù hận, và sự tha thứ. Bộ phim được coi là một kiệt tác, ảnh hưởng lớn đến nhiều đạo diễn và phim ảnh sau này.