Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,724 files
-
Trong lúc dòng phim kinh dị đang đi vào lối mòn, đạo diễn Jordan Peele thổi luồng gió mới tới cho khán giả bằng tác phẩm thuộc hàng xuất sắc mang tên “Get Out”.
Lịch sử nước Mỹ chứng kiến nhiều mốc son chói lọi, nhưng cũng gắn liền với vấn nạn phân biệt chủng tộc từng khiến nhiều người Mỹ gốc Phi phải sống trong nỗi sợ hãi. Tuy Công ước quốc tế nhằm xóa bỏ điều đó được thông qua từ năm 1965, nhưng sự kỳ thị về màu da vẫn là nỗi đau nhức nhối tại xứ sở cờ hoa cho tới tận ngày hôm nay.
Điện ảnh Hollywood hiện đại vẫn mang đến rất nhiều bộ phim chứa đựng thông điệp lên án nạn phân biệt chủng tộc mang đậm hơi thở thời sự như The Help (2011), 12 Years a Slave (2012) hay Django Unchained (2012). Năm nay, Get Out trở thành bước đột phá mới khi đưa vấn đề nóng bỏng vào một tác phẩm kinh dị.
Trái với lo lắng ban đầu của Chris, ba mẹ của cô gái hóa ra là những con người rất cởi mở, không hề phản đối mối quan hệ tình cảm của Rose. Song, khu vực hẻo lánh mà gia đình Armitage sinh sống từng xảy ra nhiều vụ mất tích bí ẩn đối với người da màu. Chris dần dà cảm nhận thấy sự nguy hiểm đến từ gia đình của người đẹp mà anh đem lòng yêu bấy lâu nay.Chàng thanh niên người Mỹ gốc Phi Chris Washington (Daniel Kaluuya) đang có quãng thời gian hạnh phúc khi hẹn hò với cô gái da trắng xinh đẹp Rose Armitage (Allison Williams). Tuy khá ngần ngại khi được Rose mời về thăm gia đình cô vào dịp cuối tuần, nhưng Chris rốt cuộc cũng nhận lời đồng ý.
Vấn nạn phân biệt chủng tộc được khai thác tinh tế
Jordan Peele là một nửa của bộ đôi hài Key & Peele từng “gây bão” trên mạng xã hội YouTube suốt nhiều năm qua. Lần đầu tiên ngồi ghế đạo diễn một tác phẩm điện ảnh, anh áp dụng cách kể chuyện châm biếm cho Get Out. Mạch phim lúc nhanh, lúc chậm, nhưng không bao giờ thiếu đi sự cuốn hút đối với người xem.
Tác phẩm được khơi mở từ từ khiến nỗi sợ hãi tăng tiến dần theo thời gian, và được đẩy lên cao trào bằng nút thắt gây sốc. Kết hợp với mạch phim hợp lý là thủ pháp gây sợ hãi đánh mạnh vào tâm lý, được trau chuốt kỹ lưỡng và dựa vào tình tiết thôi miên, thay vì những phân cảnh hù dọa jump-scare vốn đã trở nên nhàm chán đối với dòng kinh dị.
Yếu tố kinh dị của Get Out thực tế mang mục đích làm nổi bật vấn đề phân biệt chủng tộc. Cách tiếp cận vấn đề gây nhức nhối xã hội nhờ đó cũng trở nên mới lạ hơn.
"Get Out" bao trùm nỗi sợ hãi đến từ vấn nạn phân biệt chủng tộc gây nhức nhối cho xã hội Mỹ suốt bao năm qua.
Nỗi sợ hãi mà Get Out mang lại còn là cảm giác lạc lõng, cô lập giữa xã hội gồm toàn những con người cùng chung giống loài. Kinh khủng nhất chính là cách đám người da trắng giàu có, luôn tự hào về giá trị tốt đẹp của bản thân, lại nhìn nhận người da đen như những món đồ vô tri vô giác.Từng ánh mắt, cử chỉ, câu thoại của các nhân vật trong phim dành cho Chris Washington đều nhuốm màu kỳ thị, như cách bà mẹ của Rose xét nét chuyện anh hút thuốc, hay những câu hỏi “đá xoáy” sự hiện diện của người da màu trong xã hội Mỹ ở bữa tiệc ngoài sân vườn.
Tình tiết đắt giá nhất ở Get Out chính là việc người da trắng tự nhận mình vượt trội hơn người da đen, từ thể chất đến tư duy nghệ thuật, qua đó đặt bản thân ở đẳng cấp cao hơn. Họ thoải mái cho rằng người da màu chỉ đơn thuần là công cụ giúp cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn.
Sự cuốn hút đến từ những diễn viên còn ít tên tuổi
Thành công của Get Out đến từ phần kịch bản chắc tay với các tuyến nhân vật được phân bổ chặt chẽ, dù thời lượng của tác phẩm chỉ là 104 phút. Daniel Kaluuya đã thể hiện xuất sắc nhân vật chính Chris Washington.
Tài tử 28 tuổi người Anh đã lăn lộn trong nghiệp diễn xuất hơn 10 năm qua, nhưng chưa để lại nhiều ấn tượng ngoại trừ một tập phim truyền hình Black Mirror. Với Get Out, anh lột tả thuyết phục diễn biến tâm lý của Chris Washington, từ ngập ngừng, lo lắng đến vui sướng rồi chuyển sang lo lắng, sợ hãi tột độ.
Dàn diễn viên của "Get Out" không phải là những gương mặt quá quen thuộc. Nhưng họ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Jordan Peele chọn cho Get Out kết cục ngắn gọn, an toàn. Có lẽ nếu như các cảnh máu me, ghê rợn trong phim được khai thác kỹ càng và triệt để hơn, tính kinh dị sẽ trở nên tương xứng so với bầu không khí căng thẳng về mặt tâm lý mà nhà làm phim đã tạo ra trước đó.Ấn tượng hơn nữa là Betty Gabriel trong vai người hầu gái Georgina. Tuy xuất hiện khá ít ỏi, nhưng cô luôn là tâm điểm của những phân đoạn kinh dị với những biểu cảm kỳ dị, đáng sợ trên gương mặt.
Get Out là cú đánh mạnh vào vấn nạn phân biệt chủng tộc nhức nhối trong xã hội hiện đại nước Mỹ. Với kịch bản chỉn chu cùng cách kể chuyện tài tình của Jordan Peele, bộ phim thực sự là bước đột phá dành cho dòng phim kinh dị tại Hollywood.
-
Phim gangster không bao giờ lụi tàn, bởi bất cứ xã hội nào cũng tồn tại tính hai mặt của nó: Thiên thần và Quỷ dữ. Điều đó lí giải vì sao khán giả luôn yêu thích loại phim này, bất chấp nó không dành cho số đông bởi bạo lực và sự dung tục. Bộ phim “Scarface” (Gã mặt sẹo) của Brian De Palma không những minh chứng cho điều này… mà còn hơn thế nữa!
‘Scarface’ lấy cảm hứng từ bộ phim nguyên tác cùng tên rất nổi tiếng của đạo diễn huyền thoại Howard Hawks năm 1932. Tuy nhiên phiên bản phim “Scarface” 1932 là câu chuyện của tên trùm gangster lẫy lừng người Mỹ Al Capone, thì “Scarface” (1983) là biệt danh của Tony Montana, một di dân từ Cuba đến Florida (Mỹ) rồi trở thành gangster trong bối cảnh bùng nổ ma túy ở thập niên 1980.
Bộ phim là một câu chuyện hư cấu cực kì gai góc và đẫm máu, mô tả quá trình Tony từ một tên du đãng mạt hạng – nhưng đầy tham vọng và lòng ham muốn của hắn sục sôi tới mức dám làm những việc kinh thiên động địa – đã dần leo lên đỉnh vinh quang trong thế giới ngầm tội phạm ở Miami… để rồi phút cuối sụp đổ theo kiểu bi kịch thần thoại Hy Lạp.
Trong ý tưởng ban đầu, bối cảnh xảy ra ở Chicago, nhưng bất khả thi do kinh phí hạn hẹp. Sidney Lumet là lựa chọn đầu tiên cho chiếc ghế đạo diễn. Sau đó ông rút lui, nhưng ý tưởng của Lumet đổi các nhân vật trung tâm của phim thành người Cuba đã được hãng Universal tán thành. Đạo diễn Brian De Palma lúc ấy thích kịch bản “Scarface” tới mức, ông rời bỏ ghế đạo diễn bộ phim Flashdance (1983) để nhận bộ phim này.
Lấy cảm hứng từ bộ phim kinh điển “Scarface”, kết hợp với sự kiện có thật về cuộc di tản Mariel Boatlift bằng đường biển mùa Xuân năm 1980 (khoảng 125.000 người tị nạn hợp pháp, được chính phủ Cuba cho phép nhập cư vào Florida, Mỹ), Oliver Stone đã viết kịch bản này trong thời gian ông đang cai nghiện ma túy.
Sử dụng lại cái tên “Scarface”, Oliver Stone muốn tưởng nhớ tới đạo diễn Howard Hawks và Ben Hecht, nhà biên kịch của nguyên tác điện ảnh năm 1932. Ông đặt tên của “gã mặt sẹo” là Tony Montana, lấy theo tên của Joe Montana, cầu thủ bóng bầu dục mà ông yêu thích.
Chuyện về người Cuba duy nhất Steven Bauer
Ban đầu Universal nghĩ tới Robert De Niro cho vai Tony Montana, nhưng Robert từ chối vì đang kẹt vai gangster trong siêu phẩm Once Upon A Time In America. Al Pacino được mời thế và tỏ ra rất xuất sắc trong việc hóa thân vào nhân vật côn đồ này một cách lạnh lùng nhưng cũng tràn đầy tình cảm gia đình. Sau này chính diễn viên Al Pacino cũng từng công nhận, trong số tất cả những nhân vật mà ông đã đóng, thì Tony Montana là nhân vật mà ông yêu thích nhất.
Hàng loạt các gương mặt sáng giá Rosanna Arquette, Jennifer Jason Leigh, Melanie Griffith, Kim Basinger, Kathleen Turner và Jodie Foster đều từ chối vai nữ chính Elivira Hancock, với lí do vai này quá mờ nhạt so với các nhân vật khác trong phim. Brook Shields cũng được mời vai này, nhưng mẹ cô là Teri Shields đã xúi cô từ chối vì kịch bản quá dữ dội và bạo liệt. Những sắc đẹp khác như Geena Davis, Carrie Fisher, Kelly McGillis và Sharon Stone cũng đến thử vai Elvira Hancock. Cuối cùng người được chọn là Michelle Pfeiffer, và cô đã khiến khán giả phải nhớ đến mình, mặc dù vai này không có nhiều đất diễn.
Vai Manny Ribera – chiến hữu sát cánh vào sinh ra tử với Tony Montana – lúc đầu có thông tin sẽ giao cho ngôi sao John Travolta, lúc ấy đang ở đỉnh cao. Nhưng hãng Universal không kham nổi mức cát-sê mà anh ta đòi hỏi, vả lại đạo diễn Brian De Palma không muốn nhân vật này là một tên tuổi quá nổi tiếng như Travolta.
Lúc ấy Steven Bauer – một diễn viên vô danh với dăm ba vai nhỏ, từng học diễn xuất tại Miami với thầy Stella Adler danh tiếng ở New York, nhưng giờ đang kiếm sống bằng nghề giao tủ bếp ở Manhattan – được mời diễn thử vai Manny. Bauer chẳng cần phải diễn nhiều bởi ngoại hình cao ráo vạm vỡ, gương mặt nam tính, tính cách ngang tàng bướng bỉnh của anh chính là hiện thân của nhân vật Manny.
Steven Bauer là dân nhập cư Cuba thứ thiệt, anh sinh ở Havana với tên khai sinh là Resteban Echevarria. Ban đầu anh lấy nghệ danh là Rocky Echevarria, nhiều năm sau cảm thấy tên này khó nhớ, anh lấy tên thời con gái của mẹ mình, và đổi thành Steven Bauer. Như Bauer diễn giải: “Lúc đó người gốc Mỹ Latin bị chống đối và Hollywood thiếu óc tưởng tượng. Đối mặt với sự kỳ thị đó, bạn chỉ có cách theo quân trộm cướp!”
Vai Manny lập tức đưa cuộc đời Bauer sang ngã rẽ. Không tính vai của Tony Montana, thì Manny là vai được công chúng yêu thích nhất và được đề cử giải Quả Cầu Vàng vai phụ. Sau vai diễn đột phá này của Bauer, anh đã xuất hiện trong hàng chục bộ phim khác, nhưng không bộ phim nào đưa Bauer tới gần với sự công nhận mà anh đã từng có được nhờ “Scarface”.
Ở một mức độ nào đó, chính thành công của “Scarface” đã làm lu mờ các vai diễn sau này của Bauer, nhiều vai diễn anh thừa nhận là những lựa chọn sai lầm. Đó là chưa kể anh thú nhận mình đã bị sa đà quá nhiều vào sự xa hoa, tiệc tùng hào nhoáng của Hollywood, để sự nghiệp lao không phanh xuống dốc lúc nào không hay!
Ba lần bị xếp nhãn X vẫn sống sót!
Khi đạo diễn Brian De Palma đưa bộ phim lên MPAA (Hiệp hội điện ảnh Mỹ) duyệt, họ xếp nó tức thì vào loại X (loại nặng nhất trong hệ thống phân loại phim). Ông về cắt dựng bớt và trình lại lần thứ hai, vẫn là loại X. Không nản chí, ông lại kiên trì cắt dựng tiếp và trình lại lần thứ ba, quan điểm vẫn không thay đổi, vẫn là loại X! Quá giận dữ, De Palma từ chối cắt tiếp nhằm đủ tiêu chuẩn xếp loại R. Ông và nhà sản xuất Martin Bregman sắp xếp một buổi phân xử với MPAA.
Họ đưa một nhóm chuyên gia vào, gồm những quan chức chống ma túy thực sự. Những người này đã nhận xét “Scarface” khắc họa chính xác cuộc sống trong thế giới ngầm ma túy ngoài đời, và nên phổ biến rộng rãi cho mọi người xem để mang tính răn đe cảnh báo. Lời nhận xét này đã thuyết phục 20 thành viên của MPAA, và họ đồng ý xếp loại R cho bản dựng thứ ba với kết quả bỏ phiếu là 18 thuận – 2 chống.
Tuy nhiên, De Palma tham lam ướm hỏi hãng phát hành, nếu bản dựng thứ ba của bộ phim được đánh giá là loại R thì bản dựng đầu tiên cũng nên được xếp loại R, vì nó cũng không khác gì mấy. Hãng phát hành từ chối, nhưng họ lại không biết sự khác biệt giữa các bản dựng khác nhau đã đệ trình. Nên khi phát hành De Palma đã “liều mạng” qua mặt MPAA, giao bản dựng đầu tiên của bộ phim ra rạp. Chỉ tới khi bộ phim đã được phát hành trên băng video nhiều tháng sau đó, ông mới thú nhận mình đã đưa phát hành phiên bản chưa hề bị cắt xén của bộ phim!
Lý do cắt đơn giản là bộ phim quá nhiều bạo lực và ma túy, lời thoại dung tục bẩn thỉu. Có đến 42 xác người gục ngã trong phim. Ghê sợ nhất là cảnh cướp hàng bịt đầu mối bằng cưa máy – cảnh này bị hầu hết các nước phát hành cắt bỏ. Kế đến là cả một trường đoạn “tắm máu” ở cuối phim… Từ “f…” và các từ phái sinh đồng nghĩa của nó, được sử dụng 226 lần, trung bình cứ mỗi phút lại có 1,32 từ chửi thề!
Heroin được dùng suốt các cảnh quay được cho là sữa bột, nhưng thực chất sữa bột lên phim không giống “hàng trắng”. Đạo diễn Brian De Palma từ chối thừa nhận chất gì đã được dùng thay cho cocain trên phim, vì ông e rằng nếu tiết lộ nó sẽ phá cảm giác thực của khán giả. Trong mọi cảnh Tony hít cocain, mặt của Al Pacino đã được nhiều vật thể khác nhau che chắn một cách khéo léo để khán giả không bao giờ thực sự thấy ông đang hít cần sa.
Cộng đồng người Cuba phàn nàn, không chỉ vì cách họ bị mô tả như là những tên tội phạm, mà còn vì việc hầu hết các vai diễn nổi bật trong phim đều được thủ diễn bởi các diễn viên gốc Ý như: Al Pacino, Robert Loggia và Mary Elizabeth Mastrantonio… Nhưng theo Steven Bauer thì diễn viên nước nào không quan trọng. Nếu đây là một bộ phim tài liệu, thì chắc chắn sẽ phải sử dụng các diễn viên Cuba. Vấn đề ở đây đạo diễn đã chọn được những diễn viên giỏi nhất và phù hợp nhất cho các vai diễn.
Ảnh hưởng tới văn hóa đại chúng
“Scarface” ra mắt chính thức vào tháng 12/1983 và lập tức hàng loạt bài phê bình “dội bom” xuống bộ phim. Bất chấp điều này, nó vẫn đạt doanh thu 66 triệu USD khắp thế giới (tương đương với 180 triệu USD theo thời giá năm 2010), thu hút một lượng lớn khán giả hâm mộ và trở thành một biểu tượng văn hóa quan trọng.
Bộ phim đã ảnh hưởng lên văn hóa hip-hop và nhạc rap kể từ cuối thập niên 1980. Nhóm rap Geto Boys đưa một vài câu thoại trong phim vào các bản nhạc rap của họ. Ca sĩ nhạc rap Brad Jordan, đã lấy “Scarface” làm nghệ danh của mình. Nghệ sĩ hip-hop Sean “P. Diddy” Combs thú nhận mình đã xem bộ phim 63 lần. Các ngôi sao nhạc hip-hop đã lấy phong cách “gangsta” hoa mỹ trong cơ ngơi của Montana ở Miami làm mẫu trang trí cho nhà cửa và video của họ. Nhiều diễn viên nổi tiếng hiện nay như Matt Damon và Ben Affleck đã thuộc từng lời thoại, nhớ từng hành động của Tony Montana và Manny. Mười mấy năm đã qua, nhưng hàng loạt vật dụng, quần áo, và nhiều sản phẩm khác gợi nhớ tới “Scarface” vẫn còn được yêu thích. Đặc biệt tấm áp phích trắng đen lốm đốm hạt của bộ phim là một vật trang trí rất được ưa chuộng và hiện vẫn còn được sản xuất.
-
Câu chuyện nối tiếp những sự kiện xảy ra ở Spectre (2015). Điệp viên James Bond (Daniel Craig) yêu bác sĩ tâm thần Madeleine (Léa Seydoux) nhưng nghi ngờ cô phản bội nên quyết định rời bỏ người tình. Năm năm sau, Bond đang nghỉ hưu ở Jamaica thì được đặc vụ CIA Felix Leiter (Jeffrey Wright) nhờ giải cứu một nhà khoa học bị bắt cóc. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Bond gặp lại Madeleine, đồng thời phát hiện nhiều điều liên quan đến Heracles - dự án nghiên cứu vũ khí hủy diệt dựa trên DNA của con người.
Phần phim thứ 25 về Bond, đồng thời đánh dấu lần cuối cùng Daniel Craig hóa thân James Bond trên màn ảnh rộng, mở ra chương mới cho cả thương hiệu. Đây là phần dài nhất (163 phút), được đầu tư nhiều nhất (kinh phí xấp xỉ 300 triệu USD), cũng là phim đầu tiên về Bond do đạo diễn Mỹ (Cary Joji Fukunaga) thực hiện.
Lần thứ năm vào vai James Bond, Daniel Craig sống cùng vai diễn đến từng phút giây. Gương mặt để lộ nhiều dấu vết thời gian, anh mang đến hình ảnh mới cho nhân vật: điềm đạm và thiên về nội tâm hơn. Bond không còn là gã đa tình mà chỉ trung thành với tình yêu duy nhất là Madeleine. Anh dần thoát khỏi lớp áo điệp viên để hướng đến hình ảnh đời thường, khao khát một gia đình hạnh phúc như bao người khác. Nhiều phân đoạn Craig chỉ dùng ánh mắt để lột tả cảm xúc của người đàn ông từng trải, mang nhiều nỗi đau. Dù đứng trước nòng súng kẻ thù hay trong vòng tay người tình, Bond vẫn luôn là kẻ cô độc, chất chứa những bí mật chẳng thể sẻ chia.
Ở tuổi 53, tài tử giữ được phong độ với hình thể săn chắc, không nao núng khi đóng các cảnh bay nhảy, nhào lộn. Trên EW, anh nói bị chấn thương khi phim đóng máy, nhưng luôn sẵn sàng chấp nhận mọi sự cố. Điều khiến Craig thực sự hạnh phúc là được đóng James Bond và làm việc cùng các cộng sự thân thiết suốt bao năm qua.
Trong số các nam diễn viên đảm nhận vai James Bond, Daniel Craig là lựa chọn gây tranh cãi, nhưng cũng là người mang lại nhiều sự mới lạ. Sau 15 năm, tài tử hoàn toàn xóa bỏ mọi hoài nghi ban đầu, trở thành người đóng Bond lâu nhất, trong đó có Skyfall (2012) - bộ phim về Bond ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu hơn 1,1 tỷ USD. Craig từng tuyên bố từ bỏ vai diễn từ Spectre (2015), rồi lại quyết định trở lại thêm lần nữa để đem lại cái kết trọn vẹn cho nhân vật.
Kể từ Dr. No (1962), Hollywood dành sáu thập niên để xây dựng thương hiệu phim về James Bond. Trong bối cảnh rất nhiều tác phẩm thuộc thể loại hành động và đề tài điệp viên xuất hiện, loạt phim không hề lép vế mà vẫn giữ được chỗ đứng nhất định với lượng người hâm mộ đông đảo. Thách thức đặt ra cho các nhà sản xuất là phải liên tục đổi mới để câu chuyện về 007 không bị lỗi thời, thu hút được khán giả mới lẫn cũ.
Bộ đôi biên kịch nổi tiếng Neal Purvis và Robert Wade - từng viết bảy phần phim James Bond kể từ The World Is Not Enough (1999) vẫn tiếp tục đảm nhận phần kịch bản, cùng Phoebe Waller-Bridge và đạo diễn Cary Joji Fukunaga. Để mang lại sự bất ngờ, đội ngũ xây dựng câu chuyện nhiều lớp lang, các sự kiện móc nối với nhau và chỉ được lật mở theo thời gian. Thậm chí, kẻ thù của James Bond không chỉ một mà có đến ba ác nhân, trong đó vai phản diện thực sự chỉ lộ diện ở khi phim đi được phân nửa.
Xuyên suốt tác phẩm, người hâm mộ loạt phim như được trở lại những ký ức xưa. Các yếu tố quen thuộc làm nên thương hiệu 007 đều được giữ nguyên, từ chiếc đồng hồ kiêm vũ khí bí mật, chiếc xế hộp có nhiều chức năng, cho đến phần danh đề mở màn (opening credit) chạy nhạc phim do Billie Eilish trình bày. Một số tình tiết từ các phần trước cũng được lồng ghép, bao gồm hình ảnh nhân vật quá cố Vesper Lynd (Eva Greens) trong Casino Royale (2006) hay sự trở lại của ác nhân Blofeld (Christoph Watltz) trong Spectre (2015).
Những pha hành động nghẹt thở vốn là yếu tố không thể thiếu trong các phim về James Bond. Đạo diễn Cary Joji Fukunaga chiêu đãi khán giả những cảnh cháy nổ, rượt đuổi đúng chất điệp viên 007. Êkíp xây dựng bối cảnh ở những địa điểm thật, hạn chế sử dụng phông xanh và kỹ xảo CGI nhằm tạo cảm giác tự nhiên nhất. Riêng màn ẩu đả ở Italy tiêu tốn 10 ôtô Aston Martin, hàng trăm viên đạn giả và khoảng 38.000 lít soda để thiết lập bối cảnh. Ngay trong nửa tiếng đầu, người xem nhanh chóng được bước vào không khí căng thẳng, hồi hộp khi các nhân vật bị đẩy vào tình huống đối diện sinh tử.
Tác phẩm còn có một số thay đổi mang tính gợi mở, làm bàn đạp để phát triển loạt phim trong tương lai. Chẳng hạn, nhân vật Q (Ben Whishaw) được hé lộ là người đồng tính, đang chuẩn bị hẹn hò bạn trai. Gareth Mallory (Ralph Fiennes) chính thức thay thế Olivia Mansfield (Judi Dench) để trở thành M - người đứng đầu tổ chức MI6. Bên cạnh đó, phim còn có sự xuất hiện của phiên bản 007 nữ do diễn viên da màu Lashana Lynch đảm nhận. Từng chi tiết được cài cắm khiến số phận của thương hiệu James Bond trong tương lai trở thành một ẩn số.
Dàn diễn viên phụ đều làm tròn vai. Tiếp tục đóng cặp Daniel Craig, Léa Seydoux mang đến nhiều cảm xúc với vai Madeleine. Trên Screen Rant, cô cho biết bất ngờ khi được nhà sản xuất mời đóng phim vì nghĩ rằng số phận Madeleine đã hết. Vai diễn xúc động đến nỗi bản thân cô cũng phải khóc khi xem phim. Đảm nhận một trong ba vai phản diện, Rami Malek cũng để lại ấn tượng khi hóa thân thành gã tâm thần có khuôn mặt bị bỏng, luôn ám ảnh với kế hoạch trả thù và mong muốn thống trị thế giới. Ngoài ra, Ana de Armas cũng gây chú ý khi đóng vai điệp vụ CIA Paloma, cộng sự của Bond trong một nhiệm vụ. Nữ diễn viên có ít đất diễn nhưng thể hiện được nét duyên dáng, giảm nhẹ sự căng thẳng cho phim.
-
Bộ phim lấy bối cảnh vài tháng sau các sự kiện trong Spider-Man: No Way Home. Stephen Strange (Benedict Cumberbatch đóng) trở lại cuộc sống bình thường nhưng liên tục gặp những giấc mơ kỳ lạ về một cô bé bí ẩn sở hữu nguồn sức mạnh chính anh cũng chưa từng biết đến.
Một ngày, khi cùng đồng đội Wong (Benedict Wong) làm nhiệm vụ siêu anh hùng, Strange gặp America Chavez (Xochitl Gomez) - cô bé thường xuất hiện trong giấc mơ của anh - đang bị quái vật truy đuổi. America nói có khả năng đặc biệt mở ra cánh cổng liên kết giữa các chiều không gian khác nhau. Tuy nhiên, cô chưa thể sử dụng thuần thục nó và liên tiếp bị kẻ xấu truy đuổi, nhằm chiếm lấy khả năng này. Strange và Wong quyết định bảo vệ America trước những thế lực mạnh hơn họ rất nhiều.
Doctor Strange in the Multiverse of Madness là sự thử nghiệm chất liệu kinh dị của nhà Marvel. Đạo diễn Sam Raimi trở lại với thể loại siêu anh hùng sau thành công của ba phim Spider-Man do Tobey Maguire đóng chính (từ năm 2002-2007). Nhà làm phim người Mỹ cũng nổi tiếng với các thương hiệu giật gân, ma quỷ như The Evil Dead, The Gift, Drag Me To Hell...
Dưới sự chỉ đạo của Raimi, Doctor Strange 2 trở thành một tác phẩm tổng hòa giữa các yếu tố hài, hành động và kinh dị. Khán giả vẫn bắt gặp những câu thoại vui vẻ, các màn hành động giàu yếu tố kỹ xảo mang đậm phong cách của Marvel. Đồng thời, đạo diễn khéo léo thêm thắt những chi tiết jump-scare, hù dọa phù hợp với chủ đề về phù thủy và ma thuật hắc ám của phim.
Khai thác thuyết đa vũ trụ, đạo diễn cùng biên kịch Michael Waldron thỏa sức sáng tạo những chiều không gian mới trong thế giới của Marvel. Họ thêm vào những nhân vật, chi tiết thường thấy trong các bộ phim kinh dị - hài như xác sống, phù thủy, quái vật, phép nhập hồn hay các màn rượt đuổi giữa ma quỷ - con người.
Sam Raimi gia giảm các yếu tố mới này một cách hợp lý để không mất đi bản sắc của thương hiệu Marvel. Khác với trailer vẽ nên một thế giới "hỗn loạn" khi các dòng thời gian va chạm, phim phát triển theo hướng hài và hành động nhiều hơn. Những cảnh hù dọa đủ sức làm khán giả giật mình nhưng nhanh chóng được cân bằng bởi tình tiết gây cười. Các nhân vật không thật sự "mất kiểm soát" khi bước vào đa vũ trụ như lời bật mí của Doctor Strange trong trailer, phù hợp với nhãn dán C13 (dành cho người từ 13 tuổi trở lên) của phim.
Thành công của Doctor Strange in the Multiverse of Madness là kết nối được câu chuyện từ hàng loạt dự án trước đó của Marvel.
Chuẩn bị cho dự án này, hãng phim siêu anh hùng đã "chạy đà" bằng hàng loạt series như WandaVision, What If?... với mục đích giới thiệu cho người xem về ý tưởng đa vũ trụ. Câu chuyện của một số nhân vật trong phim là sự tiếp nối từ chính những dự án đó. Những khán giả không theo dõi dòng chảy của Vũ trụ Điện ảnh Marvel có thể thấy một số chi tiết trong phim khó hiểu. Tuy nhiên, Doctor Strange 2 vẫn mang đến câu chuyện vừa vặn và dễ hiểu với người xem đại chúng.
Ba nhân vật quan trọng của phim là Stephen Strange, America và Wanda (Elizabeth Olsen) đều có đất tỏa sáng. Benedict Cumberbatch tiếp tục duy trì phong độ trong vai phù thủy quyền năng, đã được anh làm tốt trong các phần phim trước. Tài tử người Anh cũng phải biến hóa thành các phiên bản khác của Doctor Strange, mang nhiều đặc điểm tính cách từ hiền lành đến biến chất. Diễn viên 16 tuổi Xochitl Gomez có màn "chào sân" Marvel trong vai siêu anh hùng sở hữu năng lượng đặc biệt nhưng chưa biết cách chế ngự. Trong khi đó, nhân vật Wanda được bộc lộ những tính cách ẩn sâu, kết quả của nhiều ẩn ức và bức xúc từ các phần phim trước đó.
Một đặc điểm khác tạo nên sức hấp dẫn của Doctor Strange in the Multiverse of Madness là dàn diễn viên khách mời đông đảo. Nhờ thuyết đa vũ trụ, êkíp dễ dàng đưa nhiều nhân vật quen thuộc với người hâm mộ vào phim, không cần lo lắng đến tính logic hay ảnh hưởng lớn tới mạch truyện chính của toàn Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Khán giả được gặp nhiều nhân vật cũ và mới của thương hiệu truyện tranh siêu anh hùng nổi tiếng. Tuy nhiên, tương lai của họ với Vũ trụ Điện ảnh Marvel vẫn còn bị bỏ ngỏ, chưa rõ ràng.
Hình ảnh và âm thanh cũng là điểm sáng trong phim. Tác phẩm sử dụng nhiều kỹ xảo điện ảnh để thể hiện ý tưởng về đề tài ma thuật và đa vũ trụ. Các màn hành động được dàn dựng kỹ lưỡng và giàu tính sáng tạo. Phần nhạc phim do Danny Elfman phụ trách trở thành đòn bẩy để đẩy cảm xúc của khán giả lên cao trào.
Điểm trừ của Doctor Strange 2 là kịch bản phim đơn giản và nhiều chi tiết thừa, dành nhiều thời lượng cho các yếu tố "chiều fan". Êkíp đưa ra cách giải quyết các nút thắt trong phim khá hời hợt. Một số nhân vật khách mời xuất hiện hoành tráng, hứa hẹn nhưng ra đi một cách chóng vánh, hụt hẫng. Kịch bản lồng ghép một số thông điệp về tình mẫu tử, sức mạnh của niềm tin vào bản thân nhưng không chú trọng phát triển, tập trung cho các yếu tố giải trí nhiều hơn.
Sau những buổi công chiếu đầu tiên, phim đạt điểm "tươi" 81% từ 145 bài viết của giới phê bình trên Rotten Tomatoes. Đa phần đánh giá cao tính giải trí và cách êkíp chọn lọc, phát triển các mạch truyện có sẵn của Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Trong khi đó, một số cây viết chê nhiều chi tiết trong tác phẩm hời hợt.
-
Lấy cảm hứng từ câu chuyện cổ Công chúa ngủ trong rừng và từ phim hoạt hình Sleeping Beauty năm 1959 của Disney, Maleficent là một kiểu bình cũ rượu mới, cổ tích được thổi vào hơi thở hiện đại nhưng hoàn toàn thuyết phục, không phải kiểu nửa vời. Quả thật, bộ phim khiến mình không lãng phí giấy phút nào vì nó rất tròn trịa, vừa đủ, không thừa, không thiếu, mấy tình tiết khiêng cưỡng khá ít, nằm trong mức chấp nhận được. Và vì không hề trông đợi gì mấy nên mình hoàn toàn enjoy và… thỏa mãn.
Đúng như cái tựa phim: Maleficent – Tiên Hắc Ám, bộ phim gần như được đo ni đóng giày cho Angelina Jolie. Bộ phim đánh dấu sự tái xuất màn bạc từ sau The Tourist (2010) của nàng, với vai trò diễn viên chính, nhà sản xuất…. nên tất nhiên không chỉ là một villain, nàng kiêm luôn… hero của bộ phim, tha hồ mà tung tẩy.
Mình phục nhất phần hóa trang, trang phục của ekip làm phim đã biến hóa cho Angelina quá đạt từ tạo hình cho đến thần thái của một cô tiên lương thiện trong sáng, một nàng tiên dũng mãnh với đôi cánh và cặp sừng ấn tượng bảo vệ xứ Moors, hình ảnh mỏng manh gợi cảm khi yêu, đến ma quái liêu trai khi lang thang trong rừng rậm chờ đợi người tình, hung hãn đau đớn khi biết mình bị bội phản và bạo liệt điên cuồng khi trả thù.
??????????Với tài năng đang độ chín mùi, nhan sắc mặn mà đằm thắm và trải nghiệm cuộc sống khá đủ đầy, Angelina đã hóa thân thành một Maleficent đúng theo từng chữ một của từ này theo đúng phiên âm tiếng Hán: Mã Lệ Phi Xuân (từ này sát nghĩa hơn Tiên Hắc Ám đó nha:P )!
Nhưng trên hết, cô làm tôn lên cái nền phim đầy mới mẻ. Một cốt truyện dẫu hoàn toàn không khó đoán vẫn khiến cho người khác thấy bất ngờ, và hơn hết là khá xúc động. Mình đã khóc một lần và cứ nghèn nghẹn suốt cả phần sau của phim. Maleficent là một bộ phim lấy bối cảnh cổ tích, nhưng những tầng nghĩa trong đó có lẽ không dành cho con nít. Chỉ có những người lớn, như mình, trải qua đủ sự đớn đau của tình yêu và bội phản của cuộc đời thì mới thấm thía rằng đừng bao giờ đặt hết niềm tin vào bất kỳ điều gì, ngoại trừ bản thân mình. Cuộc sống thực này, không phải là cổ tích dù bạn là tiên hay thánh, dù bạn mang lòng bác ái bao la thì bạn vẫn sẽ đau đớn nếu gia cố niềm tin bằng hi vọng kiếm tìm nó từ kẻ khác. Bởi làm tổn thương nhau là bản chất của loài người. Hai thế giới của xứ Moors và Human Kingdom cũng là ẩn dụ cho thế giới mơ mộng thần tiên vẫn thường bị cuộc đời đen tối trần trụi này “xâm lăng” và khiến chúng trở nên đầy nhỏ nhen, vị kỷ lẫn thù hận.
Maleficent chính là minh chứng sống động cho điều đó. Dù là một bà tiên đầy quyền lực nhưng ẩn sau sự độc ác của bà không đơn giản bắt nguồn từ sự ghen tị vì không được mời tới Lễ rửa tội để làm mẹ đỡ đầu cho công chúa như trong truyện, mà đó là nỗi đau bị chính tình yêu lớn nhất cuộc đời phản bội, người tình từ thuở nhỏ phản trắc, bị cướp mất thứ quý giá nhất của một vị tiên là đôi cánh. Một trong những phân đoạn xúc động nhất, là khi Maleficent tỉnh dậy cô độc giữa trời băng giá, đôi vai mất cánh tươm máu và nấc rống lên thống thiết đến tận cùng tâm can và sụp đổ tan nát niềm tin về thứ gọi là “tình yêu đích thực”. Sự ghen tuông bạo liệt này làm cho bộ phim trở nên minh xác và thoáng đãng bởi một cái cớ hoàn toàn dễ chấp nhận. Bị che mờ lí trí giữa yêu và hận, khiến Maleficent trở nên đáng thương hơn đáng giận, dần kéo theo sự đồng cảm hợp tình hợp lý của khán giả vì nhân vật chính không như họ mặc định từ hồi còn con nít.
Mình chỉ hơi tiếc là phim có đôi phần hơi dễ dãi trong chuyển biến nội tâm của Maleficent. Ngay từ đầu, bộ phim xây dựng nên hình ảnh Maleficent là một bà tiên quyền lực, là người bảo vệ cho cả xứ Moors nên bản chất của bà dù tình cảm nhưng buộc phải đủ cứng cỏi và tàn nhẫn để tuân theo lời nguyền của chính mình. Ấy vậy mà không. Dù đã nguyền Aurora sẽ bị mũi nhọn của con xa quay đâm trước đêm sinh nhật 16 tuổi và ngủ giấc ngủ ngàn thu, nhưng từ khi Aurora còn bé, được ba bà tiên đưa đi trốn theo lệnh vua, Maleficent đã lặng lẽ theo dõi cô bé, cho cô bé ăn, bảo vệ cô bé, rồi yêu thương cô bé lúc nào chẳng biết. Chi tiết này vốn dĩ sẽ làm hài lòng rất nhiều khán giả nhưng nó thiếu một bước đệm, lý giải cho câu hỏi tại sao Maleficent lại thay đổi nhanh như vậy. Sự mâu thuẫn nội tâm ở đoạn sau khiến tính cách nhân vật thiếu nhất quán và không còn gì để phát triển-> gây ra một chút thất vọng, ước rằng giá mà bà đừng quá mềm yếu. Vì bà vốn dĩ có trái tim ấm áp, muốn làm một điều gì đó để xoa dịu lương tâm bởi những hành động độc ác vốn không thuộc về thiên lương của bà? Haybà thương cô bé đơn giản vì nó là con… người tình cũ? Nghĩ mãi nhưng dù lý giải theo cách nào mình thấy những lý do này đều hơi khiêng cưỡng vì thực chất, lòng ghen tuông, thù hận vì bị phụ tình của con người ta- nhất là phụ nữ là vô đáy. Sẽ rất hay nếu phim có một sự chuyển biến tâm trạng chận rãi và hợp lý hơn. Bằng không, những phụ nữ nhạy cảm, người từng rơi vào tâm trạng của Maleficent sẽ cảm thấy phim có gì đó hơi gợn gợn, ngắc ngứ. Họ sẽ nửa khó hiểu về hành động của bà, nửa tự hỏi vì họ- không phải là một bà tiên- nên vẫn chưa đủ cao thượng để có thể hành động như thế chăng?
MALEFICENTNhưng những khiêng cưỡng nho nhỏ như thế hoàn toàn có thể cho qua vì diễn xuất xuất thần của Angelina. Đặc biệt là phân đoạn bà khóc vì hối hận bên giường của Aurora khi đã cố mang một chàng hoàng tử đến để hôn Aurora hòng hóa giải lời nguyền độc địa của chính mình nhưng bất thành. Và rồi, khi đã hoàn toàn không còn tin vào thứ gọi là tình yêu đích thực thì chính bà lại làm nên điều kỳ diệu đó. Nụ hôn gần như tình mẫu tử từ một bà tiên ác dành cho chính cô gái của kẻ thù sâu đậm nhất từng bị bà nguyền từ thuở còn nằm nôi, thì nụ hôn ấy chẳng phải là minh chứng cho một tình yêu hơn cả đích thực hay sao? Theo mình, người ta có thể giả vờ yêu, nhưng không thể giả vờ thứ tha. Vì chỉ khi đã thực sự thứ tha, người ta mới có thể quên đi chính nỗi hận thù mà yêu thương kẻ thù ấy lại từ đầu.
Phim nhân văn ở chỗ đã mang một tầng nghĩa mới cho tình yêu đích thực. Đó là thứ không thể nói ra, không thể thấy, mà chỉ có thể cảm nhận trong vài khoảnh khắc của cuộc đời. Tình yêu đích thực trên đời này là có, nhưng không phải từ những tình cảm trai gái đơn thuần, từ một chàng trai cô gái xa lạ, ất ơ nào đó không quen biết. Tình yêu đích thực chỉ có thể đến từ sâu thẳm trong lòng ta khi ta trung thành với bản ngã của chính mình và chấp nhận tha thứ dẫu là những nỗi hận khủng khiếp nhất, thì lúc ấy chính mỗi chúng ta sẽ tạo ra điều kỳ diệu.
Mình cũng thích hình ảnh cuối phim khi Maleficent sải cánh dũng mãnh bay đi cùng chú quạ của mình. Một hình ảnh có nhiều ý nghĩa. Với mình, đó là sự tự do khi con người ta đã vượt lên tất cả những cảm xúc tầm thường của loài người: yêu thương mãnh liệt nhưng cũng tàn nhẫn đến kiệt cùng. Ai đã trải nghiệm đủ những cảm xúc đó và vượt lên được thì đó sẽ là người chiến thắng dẫu đôi khi cái phải trả cái giá là cô đơn cả đời mình.
Hihi, thoai không bàn phim con nít theo cách người lớn nữa, mệt óc quá. Nói chung là thích phim này nói riêng và mọi phim của Disney nói chung. Làm đẹp quá mà. Mình thích khung cảnh cổ tích phim dựng lên, mê hồn và kỳ ảo đến từng khung hình. Một xứ Moors đẹp như tranh vẽ với những sinh vật kỳ diệu, đến cung điện, ngôi nhà đầy hoa cỏ thần tiên mà ma mị, đầy ắp sắc màu rồi dần dà trở nên u ám, rùng rợn với những con quạ đen, cổ thụ đầy gai nhọn. Nói chung là hệt như trong tưởng tượng của lũ trẻ nhỏ khi chìm vào thế giới của anh em nhà Grimm qua bàn tay phù thủy của đạo diễn chỉ đạo nghệ thuật Robert Stromberg- người đã giành hai tượng vàng Oscar với Avatar và Alice in Wonderland!
Ngoài ra, phim cũng có cảnh hành động đánh đấm hoành tráng. Các phân đoạn cao trào, mở nút thắt nút nhịp nhàng, cuốn người xem không rời mắt một giây phút nào cho đến hết phim. Đoạn cuối có hậu, những kẻ đáng trả giá đã phải trả giá theo đúng tinh thần của cổ tích. Ngoài ra, phim cũng rèn cho mấy đứa nhỏ tư duy phản biện, đa chiều rằng cổ tích chưa hẳn đã là thật, phía sau những kẻ xấu luôn là cả một câu chuyện dài để kể. Đừng đánh giá ai qua vẻ ngoài nếu bạn chưa ngồi xuống và lắng nghe câu chuyện của họ. Người lớn cũng học được bài học là đừng bao giờ hứa hẹn trong tình yêu, cũng như đừng bao giờ tin lời… người tình 100%. Đau đấy! Cả thể xác lẫn tinh thần như chị Maleficent luôn! 😛
Phim hay, đáng đồng tiền bát gạo. Các cô nên dẫn người iu đi xem để… dằn mặt mấy chàng. Nhất là khúc cuối có cảnh ông vua phản bội té chết nằm một đống: chắc dzui đó!!! Muaahahahaha.
-
Gremlin là 1 con quái vật nhưng rất dễ thương. Bạn có thể giữ chúng làm vật nuôi trong nhà. Xin chú ý 3 điều : Đừng bao giờ cho nó động đến nước, giữ nó tránh xa khỏi ánh sáng, không bao giờ được quên: nó có khóc lóc, cầu xin bạn cũng không được cho nó ăn sau nửa đêm. Với những lời chú thích kì quái đó, cậu bé Billy Peltzer đã bị ám ảnh bởi con vật cưng mới của mình nhưng cậu đâu biết nếu phạm vào 3 điều kia thì hậu quả sẽ thế nào.
-
Hai tháng trôi qua kể từ khi một dịch bò điên phát triển thành thành “dịch người điên” và sau đó trở thành “dịch thây ma điên” tràn ngập nước Mỹ, biến mọi người thành những thây ma khát máu. Những người còn sống sót sau đại dịch này nhận ra rằng không nên ở gần nhau vì họ có thể bị chết bất cứ lúc nào, nhiều người đã sử dụng tên thành phố họ ở làm biệt danh.
Một sinh viên đại học tên Columbus (Jesse Eisenberg) đang tìm đường từ ký túc xá đại học của mình ở Austin, Texas trở về Columbus, Ohio, để xem cha mẹ mình còn sống hay không. Anh gặp Tallahassee (Woody Harrelson), một người sống sót khác, rất cục súc trong việc tiêu diệt lũ thây ma. Mặc dù trông có vẻ không hòa đồng, nhưng Tallahassee vẫn miễn cưỡng cho phép Columbus quá giang cùng. Tallahassee đề cập đến việc anh nhớ chú chó con của mình đã bị thây ma giết chết, cũng như nguyện vọng được ăn thật nhiều bánh Twinkie, thứ mà anh luôn cố tìm kiếm.
Cặp đôi gặp gỡ hai chị em xinh đẹp Wichita (Emma Stone) và Little Rock (Abigail Breslin) trong một cửa hàng tạp hóa. Cả hai là những kẻ lừa đảo, khiến Tallahassee và Columbus phải giao nộp vũ khí của họ bằng cách giả vờ rằng Little Rock bị nhiễm bệnh, sau đó đánh cắp chiếc Escalade của Tallahassee và bỏ đi. Hai thanh niên đi lang thang và vô tình thấy một chiếc Hummer H2 màu vàng chứa đầy vũ khí, Tallahassee quyết định đuổi theo hai chị em kia. Tuy nhiên, một cái bẫy đã được giăng sẵn bởi các cô gái và hai thanh niên bị bắt làm con tin. Trên xe, Tallahassee bất ngờ cướp khẩu súng từ tay Little Rock và có một cuộc đối đầu với Wichita, sau đó Columbus nổi giận và bảo rằng họ còn những vấn đề lớn hơn để lo lắng, cuối cùng tất cả làm hòa và tiếp tục hành trình.
Hai chị em tiết lộ rằng họ sẽ đến công viên giải trí Pacific Playland ở Los Angeles, một khu vực được cho là không có thây ma. Sau khi biết quê nhà của mình đã bị phá hủy cũng như cha mẹ anh khả năng cao đã bị giết, Columbus quyết định đi cùng 3 người kia đến California. Trong suốt chuyến đi, Columbus vẫn cố gắng gây ấn tượng và tán tỉnh Wichita.
Khi nhóm đến Hollywood, Tallahassee hướng họ đến biệt thự của Bill Murray. Tallahassee và Wichita được gặp Murray, ông không bị nhiễm bệnh nhưng đã ngụy trang thành một thây ma để có thể đi bộ an toàn quanh thị trấn. Murray bị Columbus giết khi anh bắn ông do nhầm Murray với một thây ma thực sự trong một trò đùa thực tế trong khi xem Ghostbuster với Little Rock. Columbus nhận ra khi chơi trò Monopoly rằng Tallahassee không đau buồn cho chú chó con của minh mà vì đứa con trai nhỏ của anh ta. Wichita ngày càng bị thu hút bởi Columbus và Tallahassee liên kết với Little Rock mặc dù cả hai luôn bất hòa trước nay. Tuy bị thu hút bởi Columbus, Wichita lo sợ về sự liên kết này và quyết định rời đi cùng Little Rock đến Pacific Playland vào sáng hôm sau. Columbus quyết định theo đuổi Wichita và thuyết phục Tallahassee tham gia cùng anh ta.
Tại Pacific Playland, hai chị em kích hoạt tất cả các trò chơi và ánh sáng để họ có thể tận hưởng công viên, vô tình điều này thu hút sự chú ý của một số thây ma trong khu vực xung quanh. Một cuộc rượt đuổi bắt đầu, và ngay khi hai chị em bị mắc kẹt trên đỉnh của trò tháp thả, Tallahassee và Columbus xuất hiện. Tallahassee dụ các thây ma đuổi theo mình, tạo cơ hội cho Columbus trèo lên tháp giải cứu hai chị em. Cuối cùng Tallahassee tự nhốt mình trong một bốt trò chơi, dụ thây mà đến gần rồi bắn chúng. Columbus thoát khỏi đám thây ma và bắn xuyên qua nhiều thây ma đang trèo lên tháp để giải cứu các cô gái. Như một lời cảm ơn, Wichita hôn Columbus và tiết lộ tên thật của cô: Krista. Khi nhóm rời Pacific Playland, Columbus nhận ra rằng nếu không liên kết cùng những người bạn này, anh đã có thể là trở thành thây ma, và giờ đây Columbus đã có thứ mà anh luôn mong muốn – một gia đình.
Review
Khác với bộ phim cùng thể loại là Doghouse cùng năm là theo kiểu kinh dị-châm biếm, thì đối với Zombieland theo kiểu kinh dị-hài hước nên sẽ ít nhiều không có độ phần kịch tính, nhưng không vì lẽ thiếu độ kịch tính mà thiếu độ kinh dị và máu me. Thậm chí mình còn nhận thấy Zombieland đầu tư khá mạnh cho việc chi tiết hóa về đồ họa, máu me và font của bộ phim, âm nhạc.
Đối với bộ phim I am Legend là một bộ phim nói về sự đơn độc với hai cái kết trong thế giới Zombie, thì đối với Zombieland sẽ không như vậy, mà là nói về tình cảm hóa giữa nhóm 4 người, câu nói của hai chị em Wichita đã giao kèo với nhau là chỉ tin tưởng nhau.
Tuy nhiên sau khi vào công viên Pacific Playland và bị kẹt, rồi họ được cứu bởi hai gã đã bị hai chị em lừa thì nay phải thừa nhận rằng nếu không có họ thì sẽ không làm gì được nên đã trở thành một gia đình. Vì vậy sự khác biệt với I am Legend là ở bộ phim đẩy tình cảm lên hàng đầu làm trọng tâm và phim còn lại lại mang ý nghĩa sự đơn độc trong thế giới tưởng chừng ta là duy nhất.
Hóa trang và đồ họa
Rất khác biệt với Doghouse, nếu bạn đã xem Doghouse sẽ nhận thấy mức độ hóa trang rất khác xa với Zombieland, ở đây Doghouse đã tập trung hóa vào vấn đề châm biếm xã hội, vì vậy ít nhiều bộ phim sẽ hạ xuống các điều khoản vốn có xuống thấp nhất vốn là đặc trưng của dòng phim zombie. Ít nhiều vấn đề đồ họa và hóa trang cũng liên quan đến kinh phí của đoàn phim nữa, nhưng mình nhận ra là điều đó sẽ không là gì nếu bạn quyết tâm đầu tư cho hoành tráng về đồ họa.
Đối với Zombieland, không đi theo hướng châm biếm đó, theo kiểu hài hước trong thể loại kinh dị zombie, nên hầu hết các bạn sẽ thấy hơi tởm tởm nhưng do mức độ hài hước của nó cũng như về mặt tình cảm nữa nên thành ra các bạn sẽ không thấy kinh dị về mặt lối hóa trang như các bộ phim khác. Đó không phải là phương châm của bộ phim Zombieland, chính vì lẽ này mà mức điểm trên imdb rất cao là 7.6 cùng với 507 ngàn đánh giá.
Đây có thể nói là mức khá thành công với bộ phim thể loại zombie mà hầu hết đặc trưng là sinh tử sống còn, nên mình nghĩ rằng thành công không ở mức về tình cảm, triết lý sống và gây hài hước mà còn ở mức mặt đồ họa và hóa trang rất chi tiết không đến nỗi tệ như Doghouse.
Âm thanh và âm nhạc
Mình không phải là một chuyên gia về âm nhạc nên sẽ đánh giá thiển cận, Zombieland đã dùng nhạc rock để tạo ra phong cách khác biệt, nhưng không vì thế mà không tạo ra ấn tượng người nghe. Mạnh mẽ với đàn guitar và trống, hầu hết tone chủ đạo của Zombieland là hơi “rùn rợn” và sợ hãi, khoang, không phải là âm nhạc horror đâu nhé, mà kiểu người nghe hơi ấn tượng vì khi nghe cũng liên tưởng đến việc kinh dị chứ không phải nó là một âm nhạc kinh dị. Cũng không vì hơi hướng hồi hộp mà thiếu đi cái nền âm nhạc nghệ thuật. Phải không nào?
Tuy là tone nền hơi hướng hồi hộp hầu hết các bài hát, có một số bài rất hay như: Grocery Store, Girls Abandon Boys, Smash The Van v.v…
Sau khi mình hết các bài hát, quả thực mình cảm thấy rất hay, mình ít khi nghe nhạc hầu hết các phim đâu, nhưng mình phải thừa nhận rằng nghệ sĩ David Sardy đã sáng tác ra các bài nhạc rất hay, thậm chí có số bài nhạc tuy hơi rùng mình tí nhưng lại khá hay. Mình đã tìm hiểu về David Sardy, mới vỡ lẽ ra là ông từng là thủ lĩnh ban nhạc Rock Barkmarket nên thầm nghĩ rằng hèn chi hầu hết các bài cho Zombieland điều là nhạc rock, không ít thì nhiều. Ngả ngũ bái phục ông.
Kịch tính
À thật ra mà nói, về phần kịch tính và hồi hộp trong thể loại Zombie phần lớn luôn chiếm ưu thế, kèm theo với mức độ kinh dị nữa là tay đôi không thể tách rời, thế nhưng đối với Zombieland đã tạo ra phần kinh dị, nhưng nó ở mức độ khá nhẹ, chỉ có thể nhìn ghê ghê vì máu me với việc bị đánh cho dầm bập tan nát cái xác, tiếp là ăn xác và rơi từ cao xuống đất thêm chút máu me là như không có gì để nói là kinh dị nữa,
Đây có thể là điểm yếu của bộ phim Zombielan, nhưng bản chất của Zombieland không nhắm đến khán giả ưa thích kịch tính và kinh dị sẵn có, mà đến với khán giả thích xem kinh dị ở mức độ nhẹ nhàng đúng nghĩa mà không cần phải quá buồn nôn hay là gây ra hiện tượng căng thẳn sau khi xem. Thay vào đó là chút nhẹ nhàng cùng với tiếng cười, đôi chút tình cảm nữa.
Vì vậy, có thể là vừa điểm yếu, có thể là điểm mạnh vì bộ phim tách hai luồng khán ra làm hai, một phía là kinh dị thuần thúy và một phía là kinh dị nhẹ nhàng chút biến tấu hài hước, do đó mình thấy Zombieland đã mang lại cho mình rất nhẹ nhàng và cảm thấy hạnh phúc sau khi xem xong bộ phim. Không phải do cặp đôi Columbus và Wichita chính thức yêu nhau sau khi giải cứu được Wichita, mà chính là việc thế giới đã chết gần hết người và họ – bốn con người còn lại – cạnh kề bên nhau trong một dãy núi zombie. Đơn độc là điều khó tránh khỏi trong thế giới zombie này nên sau khi xem xong mình thấy vui và ấn tượng với bộ phim hơn là với quan niệm phải kịch tính hay thấy dở sau khi xem xong.
Nhân Vật
Cả bốn người điều có ấn tượng sâu sắc với mình, nhất là anh chàng Tallahassee đã khiến cho mình mến mộ hơn với lối diễn một gã trai bụi bặm, trông ba trợn nhưng lại tốt bụng, nhất là Columbus đã u mê bà chị Wichita đến nỗi bị lừa hai lần mà vẫn cứ đi tìm chị ta, thế nhưng thằng bé thì kiểu còn chưa trải đời nên lái con xe đi chưa được vài bước đã ngã khiến cho Tallahassee phải phì cười và đành chịu với sự ngốc nghếch.
Về Columbus kiểu dạng ngốc nghếch hơn cả con bé Little Rock, vụn về, làm cái gì cũng không xong, nhát gan thỏ đế, được cái là sống dai trong thời đại này, nhất là cu cậu khá giống anh Mark Fai bờ bút, tóc xoăn má cao. Được cái là gây hài hước.
Về bà chị Wichita, có lẽ là một cô gái lừa đảo khá chuyên nghiệp cùng với đứa em Little Rock trước thảm họa, thế nhưng sau thảm họa thì vẫn cứ chứng nào tật ấy, tuy nhiên cũng không phải là người vô tình khi được hai chàng trai Tallahassee và Columbus cứu lần thứ 3. Chính vì thế mà hai bà chị mới chấp thuận cùng đồng hành và trở thành một gia đình trên hành trình sống sót.
Về cô em Little Rock thì quả thực tới phần 2 là nhìn phát tướng (trổ má) mà ai nhìn vào cũng phát thèm, tuy nhiên tương lai mình sẽ review Zombieland 2. Quay trở lại về cô em Little Rock khá là hợp vai trong bộ phim này, mặc dù không làm gì nhiều lắm, được cái là nếu không có cô em thì cũng không có chuyện cô chị làm theo phải không?
Tóm lại
Đây làm một bộ phim đáng coi nhất trong số các bộ phim thuộc thể loại kinh dị-zombie và kể cả phim thuộc thể loại hài hước, trước đó mình có review Quý Cô Lừa Đảo là một trong bộ phim hài hước, nếu so sánh mức độ hài hước thì tất nhiên Zombieland không thể đọ lại vì bản chất của Zombieland là giữa hai thể loại kinh dị-hài hước. Thế nhưng nếu mình lựa chọn độ hài mà có nội dung chất hơn thì có lẽ Zombieland lại làm tốt hơn nhiều so với Quý Cô Lừa Đảo về phần nội dung.
Tóm lại nếu như bạn sợ máu me, kinh dị, căng thẳng này nọ, thay vào đó là kiểu một thể loại kinh dị-chứa giai thoại tình cảm lẫn hài hước thì quả nhiên, thì có lẽ Zombieland là một trong lựa chọn hàng đầu nhất thay cho các bộ phim kinh dị thuần thúy máu me, bạo lực, hóa trang kinh dị đến nôn mửa và đặc biệt là không hề có kiểu jumpscare.
Nếu như bạn cần một bộ phim zombie châm biếm hài khác thì có thể kham thảo bộ phim Doghouse (2009), còn không thì có thể tìm đến bộ phim Extinction (2015), đây là một bộ xem khá được, gay cấn có, nghiêm túc có, và tất nhiên là zombie không ngu và khá thông minh theo kiểu bầy đàn, một bộ phim khác nữa là I am Legend 2009 cũng tương tự như vậy. Còn nếu không vừa lòng, bạn có thể vào tag zombie để tìm kiếm một bộ phim ưng cho mình nhé.
-
Mười năm sau sự kiện trong phần phim trước, những người sống sót Tallahassee, Columbus, Wichita và Little Rock trở thành chuyên gia nhận dạng và tiêu diệt nhiều loại thây ma vào ẩn náu trong Nhà Trắng bị bỏ hoang. Columbus cầu hôn Wichita bằng viên kim cương Hope. Sáng hôm sau, hai chị em Wichita và Little Rock rời đi vì Little Rock cảm thấy Tallahassee vẫn đối xử với cô như đứa trẻ và Wichita sợ mình quá gắn bó với Columbus.
Một tháng sau, Columbus gặp cô gái tóc vàng tên Madison, người sống sót trong đại dịch thây ma bằng cách trốn trong kho lạnh của cửa hàng Pinkberry. Columbus mời cô về Nhà Trắng và cả hai quan hệ tình dục. Wichita quay về thấy Columbus đã ngủ với Madison, cô giải thích rằng Little Rock đang đi đến Graceland cùng với một chàng trai từ Berkeley, và cho cả nhóm biết về một loại siêu thây ma mạnh mẽ đang ở ngoài kia. Lo cho sự an toàn của Little Rock, cả nhóm lên đường đến Graceland.
Trên đường đi, cả nhóm chạm trán một đám thây ma, trong đó có con siêu thây ma phải bắn nhiều phát mới giết được nó. Madison cho thấy dấu hiệu sắp biến thành thây ma, buộc Columbus phải đưa cô vào rừng để bắn cô. Cả nhóm đến Graceland nhưng thấy nó đã trở nên hoang tàn, sau đó ghé vào một nhà nghỉ mang phong cách tưởng niệm Elvis Presley. Họ gặp Nevada, Albuquerque và Flagstaff, biết được rằng do cạn nguồn thức ăn nên bọn thây ma đang di chuyển về hướng đông. Albuquerque và Flagstaff ra ngoài giết một nhóm thây ma, không may bị cắn rồi biến thành thây ma, để rồi cả hai bị tiêu diệt. Cả nhóm lên đường đến Babylon để tìm Little Rock.
Cả nhóm bất ngờ phát hiện Madison vẫn còn sống và đang lái chiếc xe bán kem. Tái hợp với nhóm, cô giải thích rằng mình bị dị ứng hạt cây nhưng trông giống sắp biến thành thây ma. Lúc đó thay vì bắn cô, Columbus đã tha mạng cho cô. Cả nhóm đến Babylon, giao nộp vũ khí và tìm thấy Little Rock. Tallahassee tạm biệt mọi người để ra đi một mình, anh thấy đám đông thây ma đang kéo đến tòa nhà của cộng đồng người sống sót, anh quay lại để cảnh báo mọi người. Mặc dù không còn súng đạn nhưng Tallahassee có kế hoạch khác để giết bọn thây ma.
Tallahassee làm mồi nhử dụ bọn thây ma đuổi theo lên sân thượng, anh đu trên một cọng dây trong khi những người khác khiến bọn thây ma rơi khỏi tòa nhà. Trong phút chốc bọn thây ma đều bị tiêu diệt, Wichita chấp nhận lời cầu hôn của Columbus. Berkeley và Madison ở lại với cộng đồng người sống sót, nhóm của Tallahassee cùng với Nevada rời khỏi Babylon.
Trong phần cảnh hậu danh đề cho thấy mười năm trước, khi đại dịch thây ma bắt đầu bùng nổ, Bill Murray đang được phỏng vấn trong đài truyền hình thì bọn thây ma tấn công vào, nhưng ông đã giết nhiều thây ma và chạy thoát thành công.
-
15 năm kể từ ngày ra mắt, Pan’s Labyrinth vẫn được biết đến như một tác phẩm bất hủ, đánh dấu sự nghiệp lẫn phong cách của đạo diễn Mexico, Guillermo Del Toro.
Năm 2017, khi Viện Hàn Lâm xướng tên ông cho giải Đạo diễn xuất sắc và The Shape Of Water cho giải Phim xuất sắc, tôi vừa cảm thấy hạnh phúc cho vị đạo diễn mình yêu thích, vừa cảm thấy tiếc cho Pan’s Labyrinth.
Với những người chưa biết về Del Toro, ông là một người mê đắm với quái vật và thần thoại, với những tạo hình nghịch dị đặt giữa những câu chuyện giàu chất thơ một cách kỳ lạ. Với sự ám ảnh đó, Del Toro hoàn toàn có thể theo đuổi những bom tấn tầm cỡ như cách ông đã phù phép cho Hellboy và Pacific Rim.
Song trước đây, ông đã từ chối lời mời làm đạo diễn cho The Chronicles Of Narnia: The Lion, The Witch And The Wardrobe — một trong những bộ phim thần thoại nổi tiếng nhất mọi thời đại — để theo đuổi dự án Pan’s Labyrinth mà ông chắp bút và ấp ủ. Del Toro đã và luôn là một cái tên độc lập, nằm ngoài danh sách đạo diễn cộm cán thương mại của Hollywood.
Sự độc lập này đã giúp Del Toro giữ vững được phong cách điện ảnh và kể chuyện của mình, với Pan’s Labyrinth và The Shape Of Water là hai tác phẩm ấn tượng nhất. Dẫu khiêm tốn hơn về giải thưởng lẫn độ phủ, với tôi Pan’s Labyrinth là bộ phim đã đặt những viên gạch đầu tiên cho chiến thắng vinh quang sau này của ông.
Bài viết này về Pan's Labyrinth là một lời mời gọi đến những ai chưa xem, và lời tri ân hoài niệm cho những ai đã từng. Bởi đối với tôi, Pan’s Labyrinth đại diện cho những gì Guillermo Del Toro muốn theo đuổi ở trường phái hiện thực huyền ảo — magical realism.
Câu chuyện cổ tích không dành cho trẻ em
Mang tựa gốc là El Laberinto Del Fauno (Mê cung của Thần Nông), Pan’s Labyrinth kể về Ofelia (Ivana Baquero) và hành trình để trở về của cô sau khi được một vị thần tiết lộ rằng cô là công chúa bị thất lạc của vương quốc người chết.
Với mở đầu đúng chất “ngày xửa ngày xưa”, khán giả được nghe câu chuyện về công chúa Moanna của Âm phủ. Vì tò mò nhân thế, nàng rời bỏ vua cha để lên mặt đất. Bị ánh sáng mặt trời làm mù đôi mắt, nàng mất sạch ký ức và sống cuộc đời như người phàm. Vua Âm phủ đã xây một mê cung đóng vai trò như cánh cổng giữa hai thế giới, với niềm tin một ngày nào đó con gái sẽ trở về.
Khi câu chuyện kết thúc, nhân vật chính ngay lập tức được giới thiệu. Bộ phim theo gót chân Ofelia khi cô bé và mẹ được chuyển đến doanh trại quân sự của Vidal (Sergi López), cha dượng của cô, cũng là một sĩ quan tàn ác dưới chế độ độc tài Franco ở Tây Ban Nha. Bà Carmen (Ariadna Gil), mẹ của cô được Vidal giao cho một trọng trách to lớn: hạ sinh cho hắn đứa con trai nối dõi.
Trước môi trường sống phúc tạp cùng bầu không khí tàn khốc của chiến tranh, Ofelia tìm niềm vui trong cuốn truyện cổ tích của mình. Để rồi một đêm nọ, một tiểu tiên (faery) dẫn lối cô vào một mê cung bí hiểm trong khuôn viên doanh trại và gặp Thần Nông.
Thần cho Ofelia biết rằng cô chính là công chúa Moanna bị thất lạc năm xưa, và rằng cô cần vượt qua ba thử thách để chứng minh sự “thanh khiết” của mình và trở về Âm phủ.
Với lối kể song hành đó, Del Toro vẽ ra hai con đường, cùng hai bản ngã của Ofelia, từ đó dẫn dắt người xem qua một bộ phim đan xen thực-ảo. Ofelia lao vào hành trình của một nữ anh hùng, với một kẻ chỉ đường thông thái và phải đối diện với thế lực hắc ám.
Nhưng mọi thứ cô trải qua đều có sự đối xứng giữa thế giới cổ tích đầy phép màu và thế giới con người đầy tàn khốc. Từ đó chúng ta thấy Del Toro chia bộ phim mình thành hai nửa hoàn hảo: nửa kỳ ảo (magical) và nửa hiện thực (realism).
Ta thường nghĩ cổ tích là một thứ gì đó đẹp đẽ, màu hồng. Đó là cách văn hoá đại chúng đã phủ lên những gì nhẹ nhàng nhất cho tâm lý của trẻ em. Nhưng nếu ai thật sự biết về truyện cổ gốc của Andersen hay anh em nhà Grimm, cũng như hiểu về thuyết phân tâm học của Sigmund Freud, họ sẽ thấy cổ tích là một vùng đất của sự cấm kỵ và đầy tăm tối.
Chắc chắn không ít người đã từng đọc các phiên bản rợn người của Lọ Lem, khi mẹ kế dùng dao gọt gót chân để hai cô con gái có thể mang vừa chiếc hài thuỷ tinh. Hay công chúa ngủ trong rừng bị vị hoàng tử cưỡng bức.
Còn với Freud, cổ tích là nơi chứa những ẩn ức của con người, nơi gieo mầm những dục vọng sâu kín nhất. Đó là một toà tháp nơi một cô gái bị giam cầm, mũi kim đâm vào tay một công chúa, sự vắng bóng của người đàn ông trong nhiều câu chuyện hay ba giọt máu rơi xuống tuyết. Tất cả đều là lớp phủ tiềm thức chúng ta tự tạo nên để che đi những biểu tượng tính dục ẩn đằng sau.
Thế giới cổ tích của Pan’s Labyrinth cũng tương tự. Đó không phải là câu chuyện dễ thương dành cho những đứa trẻ. Đi theo đúng quy chuẩn của thể loại dark fantasy, Pan’s Labyrinth dùng cổ tích và ba thử thách tưởng như đơn giản nhưng lại là tấm gương soi chiếu hiện thực tàn khốc mà không phải ai cũng nhận ra ở lần đầu xem phim.
Ba thử thách, một kẻ xấu và sự giao thoa thực-ảo
Ba thử thách đó lần lượt là: lấy chiếc chìa khoá trong bụng con cóc khổng lồ dưới gốc cây mục rữa, lấy con dao găm từ Kẻ Tái Nhợt (The Pale Man, một con quái vật chuyên ăn thịt trẻ em), và cuối cùng là hiến tế mạng sống của một tâm hồn trong sáng.
Theo Hành trình anh hùng của Joseph Campbell, mọi thử thách mà người hùng trải qua đều phải có một thế lực xung khắc. Đó là một ác nhân, một kẻ phản diện, một con quái vật. Mỗi khi thắng được thế lực đó, người hùng sẽ phát triển một bản dạng mới, với những nhận thức và bài học mới.
Trong Pan’s Labyrinth, ở cả thực tại và cổ tích, Ofelia đều gặp những thế lực xung khắc, và kẻ xấu lớn nhất không ai khác chính là đại tá Vidal.
Vidal là một tên độc tài tàn ác, giết người không gớm tay. Hắn khinh thường phụ nữ với những tư tưởng bệnh hoạn. Vidal có niềm tin tuyệt đối rằng đứa con sắp chào đời của hắn là con trai, đe doạ tất cả những ai dám đặt câu hỏi.
Đối với hắn, cái thai của Carmen là quan trọng nhất, còn cô và Ofelia chỉ là hai cái gai trong mắt. Carmen đã khẳng định rằng nếu có bất trắc lúc lâm bồn, bằng mọi cách phải cứu đứa bé và không cần quan tâm đến người mẹ.
Trên đường chinh phục ba thử thách, Ofelia gặp phải hai quái vật kinh tởm: một con cóc khổng lồ và một kẻ khát thịt trẻ nhỏ. Trên bề mặt, chúng là những thực thể trong thế giới đầy nghịch dị và kỳ quái của Ofelia. Nhưng nếu để ý cách đặt để những biểu tượng, chúng thật ra đều là những biến thể khác của đại tá Vidal.
Trong thử thách đầu tiên, Ofelia phải chui vào một gốc cây mục rữa và lấy chiếc chìa khoá trong bụng một con cóc khổng lồ. Nếu tinh ý quan sát kĩ, ta sẽ nhận ra gốc cây chính là hình dáng của tử cung: hai đường cong giao nhau tại một khoảng trống ở giữa là âm đạo. Đó là một biểu tượng thiêng liêng của người phụ nữ, là dấu ấn của sự khởi đầu, của sự sống.
Theo quyển sách cổ tích, đó từng là một cái cây đầy sức sống. Nhưng con cóc đã làm tổ trong gốc cây, kìm hãm và hút cạn sự sống của nó, khiến cho mọi thứ trở nên héo mòn. Điều này có làm bạn liên tưởng đến cặp nhân vật nào trong thực tế của Ofelia không?
Con cóc và gốc cây là một ẩn dụ cho mối quan hệ độc hại mà Vidal đang trói buộc Carmen. Hắn không coi trọng phụ nữ, càng không hiểu về sự thiêng liêng của tính nữ, bởi đối với hắn, đó chỉ là một nơi để hắn gieo mầm cái xấu xí của mình mà hắn gọi là “giọt máu.”
Ở thử thách thứ hai, Ofelia phải dẫn theo ba tiểu tiên để tiến vào sào huyệt của Kẻ Tái Nhợt và đánh cắp con dao của hắn. Trong sào huyệt, hắn ngồi bất động bên một bàn tiệc thịnh soạn. Thần Nông đã dặn Ofelia tuyệt nhiên không được động vào bất cứ món ăn nào. Nhưng cô đã bất tuân lời dặn, đánh thức Kẻ Tái Nhợt. Dù thoát chết trong gang tấc, hai tiểu tiên dẫn dắt cô đã bị ăn thịt.
Ta có thể thấy sự tương đồng giữa vị trí đầu bàn tiệc của Kẻ Tái Nhợt và Vidal. Đó là một vị trí thể hiện sự kiểm soát và đầy uy quyền, Đó là vị trí có thể thấy tất cả, và mọi chú ý cũng đổ dồn.
Sự thoi thóp về thời gian trong thử thách này cũng là biểu tượng cho sự ám ảnh của Vidal với thời gian, bởi ông luôn mang bên mình chiếc đồng hồ quả quýt. Chi tiết này gợi nhắc đến một kẻ độc ác trong thần thoại Hy Lạp là Kronos, Titan của thời gian (từ chronological được lấy từ tên của vị Titan này, có nghĩa là “theo trình tự thời gian”).
Kronos đứng đầu các Titan, là cha của sáu vị thần Hestia, Demeter, Hera, Hades, Poseidon và Zeus. Khi nhận được lời tiên tri rằng mình sẽ bị lật đổ, Kronos đã ăn thịt các con mình, trừ Zeus may mắn thoát chết.
Kronos và Kẻ Tái Nhợt có chung sở thích ăn thịt trẻ con, cũng chính là mối liên kết với Vidal, tên độc tài sẵn sàng giết người vô tội để thực hiện mục tiêu của mình.
Ở thử thách thứ ba, Ofelia phải dùng con dao vừa lấy được để hiến tế sinh mạng của một linh hồn trong sáng, chính là em trai mình. Trong những phút cao trào nhất phim, hai thế giới của Ofelia như hoà làm một khi mọi thứ đưa cô đến mê cung của Thần Nông, sẵn sàng mở cánh cửa về Âm phủ.
Không còn quái vật nào nữa, kẻ thù trong thử thách này chính là Vidal bằng xương bằng thịt. Từ những biến thể trong hành trình cổ tích của Ofelia, kẻ xấu lớn nhất mà cô phải vượt qua giờ đây đứng trước mắt và dọa lấy đi mạng sống của cô.
Trong thời khắc sinh tử ấy, Ofelia một lần nữa bất tuân mệnh lệnh của Thần Nông. Cô lãnh viên đạn chí mạng, kết thúc cuộc đời mình vào ngay giây phút Vidal bị quân khởi nghĩa bắn chết.
Nhưng điều hoang mang nhất là trước khi hạ sát Ofelia, Vidal không hề nhìn thấy Thần Nông. Trong mắt hắn, cô bé đang nói chuyện với thinh không.
Vậy, liệu hành trình cổ tích của Ofelia có tồn tại? Và liệu cô có thật sự trở về Âm phủ để đoàn tụ gia đình, hay tất cả chỉ là một thứ huyễn hoặc trong tâm trí của một đứa trẻ?
Khi cái chết là sự giải thoát đẹp nhất của tuổi thơ
Có nhiều cách để diễn giải kết thúc đầy biểu tượng của Ofelia trong phim.
Nếu đi theo cách tiếp cận đơn giản nhất, chúng ta sẽ xem bộ phim này là một bộ phim thuần tuý fantasy, tức thần thoại, viễn tưởng. Tất cả các thử thách là có thật, được đặt ra để dẫn dắt Ofelia trở về nhà.
Ofelia đã chứng minh được sự thuần khiết của mình, bởi cô không chọn giết người vô tội vì lợi ích cá nhân. Chính Ofelia là người mang giọt máu của tâm hồn trong sáng. Khi hoàn thành mọi thử thách, Ofelia trở về nhà dưới hình hài công chúa Moanna, diện kiến vua cha và mẹ của mình.
Nếu diễn giải theo trường phái hiện thực kỳ ảo, chúng ta sẽ phải nhìn bộ phim dưới lăng kính tối tăm hơn để chấp nhận rằng: cái chết của Ofelia là một sự giải thoát.
Khi phim đặt người xem ở góc nhìn của Ofelia, mọi thứ thể hiện trên từng khung hình chính là thế giới do trí tưởng tượng hiếu động của cô tạo nên. Thế giới cổ tích của Ofelia không có thật. Những thử thách mà cô trải qua không chỉ là một cách thoát ly khỏi hiện thực mà còn có thể được xem là một cơ chế phòng vệ, giúp cô dễ dàng đối diện với những khắc nghiệt xung quanh.
Cô bé biến Vidal thành những con quái vật, và việc chiến thắng chúng giúp cô có thêm niềm tin vào thực tại. Khi sắp sửa giã từ cõi đời, cô dùng trí tưởng tượng của mình để vẽ nên một viễn cảnh tươi đẹp: được trở về nhà, được sống trong huyễn tưởng êm ái và quên đi thực tại đầy bi thương.
Nếu hiểu theo hướng này, Pan’s Labyrinth là hành trình tâm lý của một cô bé, một sự trong sáng thật nhỏ bé bị kiềm cặp bởi những bất hạnh mà chế độ Phát-xít mang lại. Và để tuổi thơ êm đềm đó mãi thuần khiết, cái chết chính là lựa chọn của cô.
Nếu nhìn bộ phim dưới hướng tiếp cận của nữ quyền luận (feminism), ta có thể thấy được đề tài về sự bất tuân (disobedience) là kim chỉ nam cho hành trình của Ofelia. Cô bỏ ngoài tai những mệnh lệnh từ người lớn, và cả những gì Thần Nông yêu cầu.
Việc chinh phục từng thử thách cũng là từng bước để Ofelia đến với thế giới người lớn. Cô đã đối diện với những vấn đề dục tính tuổi dậy thì và chứng minh rằng tâm hồn mình không bị vấy bẩn bởi những tư tưởng nam quyền độc hại của Vidal.
Những hình ảnh như trang sách đẫm máu, gốc cây mục rữa, củ nhân sâm và nỗi đau đớn của người mẹ mang thai đều là những biểu tượng đặc sắc thể hiện cho tính nữ của bộ phim này.
Để viết về Pan’s Labyrinth một cách đầy đủ nhất thật sự không dễ, khi chính bản thân tác phẩm này đã là đề tài cho rất nhiều nghiên cứu khoa học điện ảnh và truyền thông trên thế giới. Điều tôi mong muốn truyền tải qua bài viết này chỉ là một vài cách tiếp cận để hiểu hơn một tác phẩm mà tôi cho là vô cùng kinh điển.
Thăm lại từng khung hình của Pan’s Labyrinth, tôi nhìn thấy tất cả những gì mà giới phê bình và khán giả đã khen ở The Shape Of Water nhưng được truyền tải tối giản, tinh tế và đầy tính biểu tượng hơn.
Song, tác phẩm điện ảnh nào cũng có “thời” của nó. Thành công của cả hai bộ phim là không thể so sánh được bởi chúng sinh ra ở hai thời điểm khác nhau. Các yếu tố văn hoá, xã hội, chính trị cũng khác nhau. Ta không thể chỉ đánh giá qua tài năng của riêng người đạo diễn.
Nếu áp dụng những hướng tiếp cận này cho The Shape Of Water, bạn sẽ có những góc nhìn tương tự, bởi hành trình tìm về Âm phủ của công chúa Ofelia không hề khác hành trình tìm về đại dương của công chúa Elisa (Sally Hawkins).
Nhưng với tôi, Pan’s Labyrinth vẫn là một bộ phim tốt hơn bởi tính nguyên bản của nó, cũng như đánh dấu tầm nhìn của một nhà làm phim có phong cách rất riêng biệt.
-
Tác phẩm thứ 23 trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel, diễn ra sau sự kiện trong Avengers: Endgame. Những người chết do cú búng tay của Thanos hồi sinh, thế giới quay lại cuộc sống bình thường và tưởng nhớ người hùng Iron Man.
Peter Parker (tức Spider-Man, Tom Holland đóng) tiếp tục học ở trường trung học tại New York (Mỹ). Cậu tái ngộ bạn thân Ned Leeds (Jacob Batalon đóng) và Michelle Jones (thường gọi là MJ, Zendaya đóng) - cô gái trong mộng. Cũng bị tan biến trong sự kiện ở Avengers: Infinity War, hai người này vẫn cùng độ tuổi với Peter.
Khi lớp Peter đi nghỉ ở Venice (Italy), một quái vật khổng lồ tấn công khiến cậu phải giao chiến. Sau đó, Peter được Nick Fury (Samuel L. Jackson) mời tham gia chiến dịch chống các sinh vật này (được gọi là nhóm Elementals). Một siêu nhân có phép thuật tên Mysterio (Jake Gyllenhaal) cho biết chúng đến từ thế giới của anh - thuộc chiều không gian song song với vũ trụ của Người Nhện.
Ở Spider-Man: Far From Home, đạo diễn Jon Watts pha trộn thể loại phim tình cảm học đường và siêu anh hùng. Ngoài chuyện hành hiệp, Người Nhện mang nỗi bận tâm đời thường của chàng trai 16 tuổi. Nửa đầu phim, cậu dành phần lớn tâm trí cho việc tán tỉnh MJ. Ngay cả khi hiểm họa xuất hiện, Peter vẫn xao lãng chuyện cứu thế giới vì người đẹp, thậm chí muốn nhường nhiệm vụ cho các người hùng dày dạn như Thor, Doctor Strange hay Captain Marvel. Loạt tình tiết hài quen thuộc của Marvel được đan cài trong hành trình này, khi Peter vừa cố che giấu thân phận với bạn học, vừa cố gây ấn tượng với MJ.
Tác phẩm cũng đánh dấu hành trình trưởng thành của Spider-Man. Đầu phim, cậu chưa sẵn sàng cho những vấn đề của người lớn lẫn sứ mệnh trở thành "Iron Man mới" của nhân loại. Cái chết của Người Sắt để lại khoảng trống lớn, khiến Peter hoang mang khi mất đi người hướng dẫn. Tuy nhiên, theo diễn biến phim, cậu dần ý thức trách nhiệm của người hùng, đồng thời nhận ra không cần "gồng mình" để tiếp quản vai trò của người khác. Ở hồi kết, phim nêu thông điệp về sự chênh vênh giữa điều thật - giả trong truyền thông, cách dư luận dễ dàng bị những kẻ có công nghệ cao lừa gạt.
So với hai loạt phim trước về Spider-Man (do Tobey Maguire và Andrew Garfield đóng chính), Far From Home mang không khí nhẹ nhàng hơn. Sau nửa đầu, nhịp phim được đẩy cao với tình tiết bất ngờ xoay chuyển câu chuyện theo hướng mới. Lúc này, bom tấn có kinh phí 160 triệu USD phô diễn nhiều cảnh chiến đấu được dựng bằng kỹ xảo. Lối đánh linh hoạt, di chuyển nhanh bằng tơ bám của Người Nhện được thể hiện rõ nhất ở cao trào.
Tuy nhiên, kịch bản vẫn có một số điểm chưa hợp lý, nhất là việc Iron Man dễ dàng giao lại công nghệ có sức mạnh hủy diệt cho cậu bé như Spider-Man. Thiết bị nguy hiểm này cũng dễ dàng chuyển giao qua tay người khác chỉ với ít hiệu lệnh.
Trong vai chính, Tom Holland tiếp tục mang đến sức trẻ cho nhân vật. Kiểu nói chuyện nhanh và dí dỏm xen lẫn các động tác hình thể là điểm nhấn trong lối diễn của ngôi sao 23 tuổi. Còn Zendaya mang đến hình tượng mới cho vai bạn gái Người Nhện với phong cách lạnh lùng, hơi bất cần. Gần đây, sao nữ sinh năm 1996 còn được chú ý khi đóng chính Euphoria - series có nhiều cảnh "nóng" xoay quanh các học sinh.
Điểm sáng về diễn xuất thuộc về Jake Gyllenhaal - ngôi sao thực lực của Hollywood. Sau nhiều năm đóng phim tâm lý, tài tử góp mặt trong bom tấn hè và gây ấn tượng với biểu cảm đa dạng. Càng về cuối, nhân vật Mysterio càng có nhiều đất diễn với những đoạn thoại kéo dài. Ngoài ra, các "cựu binh" của Vũ trụ Điện ảnh Marvel như Samuel L. Jackson, Marisa Tomei (vai bác May của Peter) vẫn giữ phong độ.
Cũng như đa phần tác phẩm của Vũ trụ Điện ảnh Marvel, Spider-Man: Far From Home có hai đoạn phim sau khi câu chuyện chính kết thúc. Một mở ra hướng mới cho phần tiếp về Người Nhện, một gây bất ngờ cho khán giả và kết nối với phim Captain Marvel.
-
I.TỔNG QUAN
Theo mình, đây là một trong những bộ phim kinh dị tâm lý, tình cảm gia đình có tiết tấu chậm và buồn ngủ một cách kinh ngạc, thậm chí là ở những phút gần cuối của bộ phim, mình đã phải tua nó lên ở tốc độ 1.12x để có thể cố gắng xem nốt. Phim có một cốt truyện đơn giản, được kể chậm rãi và không hề có những màn jump scare hay hù dọa dồn dập nào như các phim trước đây mình từng xem và thậm chí trình tự thời gian được ghi chú trên phim một cách lạ lùng nhất có thể. Nhưng sự đáng sợ của nó không phải ánh sáng, kĩ xảo hay các nhân vật “ghost” đen tối, mà nằm ở tâm lý của từng nhân vật và những dấu hiệu mà ta nhận được từ đầu cho đến khi kết thúc hành trình hơn 2 giờ của phim.
II.NỘI DUNG
Nội dung phim dựa theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn nổi tiếng Stephen Str….à nhầm King. Câu chuyện xoay quanh gia đình 3 người nhà Torrance là Jack (bố), Wendy (mẹ) và Danny (con trai) có một quá khứ không được nhắc đến nhiều mà chỉ được xác nhận qua lời kể của chính đạo diễn. Jack là một giáo viên nhưng chỉ để kiếm tiền nuôi sống gia đình cũng như theo đuổi ước mơ viết lách, công việc khó khăn mà ông vẫn chưa có được thành công. Ông có tiền sử nghiện rượu cũng như đã từng có hành vi bạo lực và khiến con mình bị thương. Sau đó, may mắn đến với ông khi ông tìm được công việc trông coi khách sạn Overlook (một khách sạn nằm trên ngọn núi cao cách thị trấn gần nhất gần 25 dặm và hoàn toàn biệt lập) vào mùa đông bởi vì với khí hậu lạnh và tuyết dày đặc thì mùa đông khách sạn không thể đón khách. Khi cả gia đình Torrance chuyển đến Overlook và ông cho rằng ông sẽ có thể hoàn thành được cuốn tiểu thuyết của mình nhưng Jack không hề biết rằng khi đặt chân đến Overlook thì chính là lúc bi kịch bắt đầu.
Những giây phút tiếp theo chỉ là câu chuyện về các hoạt động hằng ngày của nhà Torrance diễn ra một cách bình thường nếu như loại trừ đi hành vi nổi nóng, bạo lực của Jack; sự lo âu, sợ sệt của Wendy và cuối cùng là sự vô cảm, năng lực “Shining” của Danny. À mà như vậy thì liệu có bình thường không nhỉ?
Rồi những giấc mơ kì lạ, hành vi bất thường tăm tối của cả gia đình thậm chí còn át đi cả không gian và màu sắc tươi tắn của khách sạn. Đến khi cả ba người không còn sự kết nối với nhau, đó là lúc bóng ma hiện ra để thao túng Jack, đẩy bộ phim lên cao trào mà chẳng cần bất kì một sự sợ hãi nào từ bản thân mình trước đó. Mà cảm giác đó, được truyền trực tiếp từ các nhân vật trong phim đến với người xem. Vì mình ấn tưởng với các nhân vật trong “The Shining” nên tiếp theo mình sẽ nhận xét về 3 nhân vật chính trong phim.
III. NHÂN VẬT
Gia đình Torrance có lẽ đã chẳng kết nối được với nhau, ngay từ đầu phim chúng ta đã cảm nhận được sự kì lạ của gia đình này. Dù tất cả mọi lời nói, hành động đều có vẻ rất bình thường nhưng đâu đó trong mối quan hệ này là sự xa cách, rạn nứt mà ta có thể cảm nhận. Một sự vô cảm đến rợn người được đưa vào nhẹ nhàng và tinh tế, truyền tải vào từng câu thoại. Sự giao tiếp hời hợt, những câu chuyện chẳng đi đến đâu và không có lấy một lời thăm hỏi. Ngay cả cái cách Wendy để mặc cho Danny nói chuyện với Tony ( người bạn tưởng tượng của Danny), hút thuốc, thể trạng mệt mỏi gầy gò và cả câu chuyện về nhóm Donner phải ăn thịt lẫn nhau để sống sót được kể lại không chút suy nghĩ và thận trọng của người cha kèm theo đó là một nụ cười độc ác. Tất cả những chi tiết đó, ghép nối lại để chỉ ra rằng gia đình này thật ra đã tan vỡ từ sâu thẳm bên trong mỗi người. Và lý do của sự tan vỡ đó, được chính đạo diễn xác nhận là do hành vi bạo lực của Jack trong quá khứ diễn ra không chỉ một lần.
Theo dõi Danny từ đầu tới cuối bộ phim, chúng ta sẽ thấy đó là một cậu bé kì lạ. Đoạn hội thoại đầu tiên của Danny với người “bạn” Tony đã cho chúng ta được phần nào con người cậu bé. Danny nói chuyện với mọi người không một chút cảm xúc, không vui vẻ hồn nhiên như nhiều đứa trẻ đồng trang lứa, thậm chí cả lúc nhìn thấy các dấu hiệu “shining”, đôi chị em song sinh quái gở, Danny cũng chẳng hề khiếp sợ kể lại với bố mẹ. Cách cậu lặng lẽ đạp xe đi quanh nhà, qua các căn phòng, tiếp xúc với Hallorann ( người có khả năng “shining” giống cậu) cũng chẳng thể hiện một chút cảm xúc nào khác. Khi nhắc chứng loạn thần, đúng vậy là mình đang nhắc đến Tony, dù là một nhân vật tưởng tượng nhưng nhân vật này luôn khiến người xem có một cảm giác sợ hãi khó hiểu, lúc xem phim, mình cũng không biết Tony là một chứng bệnh tự kỉ hay đó là dấu hiện quỷ ám và trao cho Danny khả năng “shining”. Tony có thể biết khi nào Jack gọi về và chính Tony cũng là người chiếm hữu Danny và liên tục lặp đi lặp lại chữ “Redrum”. Và bằng cách nào đó, chính Tony là người đã cảnh báo và cứu sống mẹ con Danny, điều đó đáng sợ nhưng không thể phủ nhận Tony đã giúp Wendy và Danny sống sót.
Khuôn mặt gầy gò, nghiện thuốc lá và đôi mắt to. Trong Wendy tồn tại một cảm giác bất lực, một điều bất an mà cô không thể hiểu được. Việc cô đốt những điếu thuốc trong suốt bộ phim cũng chỉ ra rằng cô là người luôn phải đối mặt với lo lắng và sợ hãi. Có lẽ sự lo lắng và sợ hãi đó bắt nguồn từ quá khứ, có điều gì đó ám ảnh cô nhiều đến mức làm cô trở nên suy kiệt. Wendy và Danny từng bị Jack bạo hành, nhưng khi bị Jack quát nạt, cô lại không thể hiện một hành động phản kháng nào. Cô chỉ biết sợ hãi bỏ đi, đó cũng chính là lúc mình nhận ra bi kịch đang chờ đợi gia đình này ở phía trước. Một gia đình mà người vợ không thể lắng nghe và hiểu con, không thể gắn kết và khuyên nhủ người chồng thì gia đình đó đã không thể bền vững được nữa.
Chúng ta ai cũng biết lý do Jack đến với Overlook là để tìm một chỗ yên tĩnh để viết nốt cuốn sách của mình. Thực tế không hẳn như vậy, Jack đến Overlook một thời gian thì mới bắt tay vào viết sách, bằng chứng là tập bản thảo điên rồ toàn chỉ một dòng “ All work and no play makes Jack a dull boy” dịch ra “Đâm đầu vào công việc và không vui chơi biến Jack thành kẻ ngốc”. Đó là sản phẩm của một con người đang chìm sâu vào khủng hoảng và điên loạn. Ấn tượng đầu tiên của mình về Jack thể hiện đúng bản chất của con người này, trong anh có 1 sự vô cảm với gia đình, đôi mắt ác độc, hung dữ và cơ mặt nhăn nhó “gầm gầm” khiến mình nghĩ ngay tới một vai phản diện đỉnh cao như Hannibal Lecter, một kẻ điên chỉ làm chuyện ác bởi vì hắn thích như vậy. Mình chưa bao giờ cho rằng Jack là người bố cũng như là người chồng tốt, cái vẻ thiếu thân thiện và có vẻ đầy bạo lực đó luôn khiến Jack trở nên đáng sợ, phải chăng tạo hình nhân vật như vậy là để đúng với tính cách của hắn?
IV. ÂM THANH VÀ KĨ XẢO
Âm thanh của phim cũng là một phần khác biệt với phim kinh dị mà ta biết. Không có tiếng cót két, tiếng cửa kêu, không có tiếng ván gỗ hay những âm thanh to bất chợt khiến người xem giật mình. Tất cả đều rất nhẹ nhàng, bản nhạc đầu phim là một quãng dài các nốt đơn điệu của tiếng kèn, thiếu âm sắc và ghê rợn. Những tiếng hú, tiếng rên, tiếng chim chóc được bóp méo làm ta có cảm tưởng như đang lạc vào thế giới của các bộ phim “Ngày xửa ngày xưa” cũ kĩ. Nhạc phim đã tự thân nó khiến ta khó chịu. Trong suốt thời gian còn lại, nhạc phim không để lại ấn tượng quá nhiều cho mình ngoài một cảm giác khó chịu.
Ngoài ra, phim cũng chẳng có nhiều kĩ xảo, không cần phải hóa trang như một bữa tiệc Halloween, các “bóng ma” cũng chẳng xấu xí hay gai góc, à trừ con quỷ già ở phòng 237 nhé =)))) Đoạn đó hơi tởm. Cách trang hoàng của khách sạn cũng rất tươi sáng và đẹp, và khách sạn cũng đông nữa nên chắc là không đáng sợ lắm đâu =))) Đùa đấy, nhưng cả khách sạn to tổ bố chảng mà có 3 người thì cũng nể cho sự gan dạ của 2 cô chú nhà Torrance thật. Đoạn này hết biết nói gì rồi, ngoài mấy pha flashback tầm 0.3s mỗi lần ra thì chắc cũng chả có gì nhiều. Đơn giản nhưng đủ tạo điểm nhấn, nhẩy?
V. CÁC CHI TIẾT ẤN TƯỢNG
Có 3 chi tiết trong phim khiến mình sởn gai ốc thật sự và đánh tan sự buồn ngủ trong chính mình, khiến mình phải thốt lên: “Thời địu, ra là vậy, kinh vail**”. Nhắc lại là nếu bạn nào chưa coi phim thì hãy đi coi đi và ngưng đọc đoạn này vì nó spoil nặng lắm đó.
Chi tiết đầu tiên là câu nói được lặp lại bởi 2 chị em song sinh đã chết đang dụ dỗ trẻ dưới vị thành niên là Danny “ Come and play with us forever and ever and ever” . Tiếng 2 chị em bị thay đổi kèm theo đó là những pha flashback nhanh khiến người xem hơi thoáng giật mình. Nhưng mình thật sự hoảng hồn đó là khi Jack nói với Danny : “I wish we can stay here forever and ever and ever” . Trong khoảng khắc đó, mình biết Jack không còn bình thường nữa và Jack đã bị các thế lực siêu nhiên chi phối hòa vào làm một với khách sản quỷ quái kia.
Chi tiết thứ hai là lúc Wendy nhìn thấy bản thảo của Jack, mình đã hoàn toàn sụp đổ, mình nhận ra ngay từ đầu, “Mr. Torrance” đã bị thao túng bởi thế lực siêu nhiên. Một bản thảo hoàn toàn không có nội dung, ngoại trừ dòng chữ: “ All work and no play makes Jack a dull boy”. Ngay lúc đó mình đã đứng hình 3s, đó là cú lừa lớn nhất kể từ lúc mình bắt đầu xem phim. Chẳng cần thế lực ma cỏ nào giúp đỡ, bản thân Jack đã là một thế lực hắc ám rồi.
Chi tiết thứ ba đó là màn chơi chữ “Redrum” của Tony a.k.a Iron… à lộn “Danny’s friend”. Mình đã tưởng rằng ý tác giả nói đó là “Red room” ( vì phát âm 2 từ gần giống nhau, một kiểu chơi chữ) ý là dấu hiệu cảnh báo cho một vụ thảm sát nào đấy trong quá khứ phù hợp với chi tiết máu đổ từ thang máy và căn phòng toàn xương người mà chúng ta đã thấy. Nhưng, ôi thật bất ngờ đó chính là chữ “Murder” hay “kẻ sát nhân” viết ngược. Đó là cú twist khá bự mà mình không đoán ra được =))
VI. KẾT
The Shining với mình là một phim khá đáng xem. Nó khác biệt với phần lớn các phim kinh dị bây giờ và đó là một trải nghiệm mới lạ. Phim khác nhiều với tiểu thuyết nên bạn cũng đừng mong chờ hiểu thêm thứ gì từ tiểu thuyết nhé. Phim khá là chậm và có nhiều đoạn khá là buồn ngủ ( thậm chí mình mở lên 1.25x mà vẫn có thể hiểu được mấy ổng nói gì dù trình tiếng anh mình thuộc dạng bét bảng). Vậy nên hãy kiên nhẫn và trải nghiệm hết bộ phim thì bạn sẽ thấy 2 giờ 23 phút đó không phí phạm chút nào.
-
"The Doors" (1991) là một bộ phim tiểu sử của đạo diễn Oliver Stone, kể về cuộc đời và sự nghiệp của Jim Morrison, ca sĩ chính của ban nhạc rock nổi tiếng The Doors. Bộ phim không chỉ tập trung vào cuộc sống của Morrison mà còn khám phá sự phát triển của The Doors và ảnh hưởng của họ trong nền âm nhạc rock. Bộ phim bắt đầu với cuộc gặp gỡ giữa Jim Morrison (do Val Kilmer thủ vai) và Robby Krieger (do Kyle MacLachlan thủ vai) tại Đại học UCLA, nơi họ gặp nhau và quyết định thành lập một ban nhạc.
-
Phim của hãng DC tạo nhiều tiếng cười khi nhân vật tuổi teen bỗng được trao thân thể cơ bắp của người trưởng thành cùng siêu năng lực.
Tác phẩm do David F. Sandberg đạo diễn, là phim thứ bảy trong Vũ trụ Điện ảnh DC. Nhân vật chính là Billy Batson (Asher Angel đóng) - cậu bé 14 tuổi bị lạc mẹ từ nhỏ. Billy được một cặp vợ chồng tốt bụng nhận nuôi, sống cùng nhiều đứa trẻ khác. Tuy nhiên, cậu vẫn khát khao tìm lại mẹ ruột.
Một ngày nọ, Billy bỗng bị đưa đến một ngôi đền bí ẩn. Tại đây, cậu được một pháp sư sắp qua đời trao cho năng lực. Chỉ cần hô "Shazam!", Billy sẽ hóa thành siêu anh hùng với vóc dáng người trưởng thành vạm vỡ (Zachary Levi đóng). Trong khi đó, ác nhân Thaddeus Sivana (Mark Strong đóng) bắt đầu gieo rắc kinh hoàng. Hắn mang năng lực đại diện cho các mặt tối trong tính cách con người.
Đạo diễn David F. Sandberg được James Wan dìu dắt vài năm qua, giúp anh có cơ hội làm phim ở Hollywood với Lights Out, Annabelle: Creation rồi Shazam!. Vì thế, tác phẩm mới có lối kể mang nhiều điểm tương đồng với Aquaman (do Wan đạo diễn). Kịch bản đơn giản, có nhiều tình huống hài được cài cắm rải rác. Nhân vật chính có khuôn mặt thân thiện, còn tổng thể phim tươi sáng, không có những thông điệp lớn về chính trị, xã hội như các phim giai đoạn trước của DC.
Trong Shazam!, yếu tố hài xoay quanh hoàn cảnh bất đắc dĩ của Billy. Vốn không có thiện cảm với các siêu anh hùng, cậu lại được ban siêu năng lực. Đối mặt các thay đổi lớn về thể chất, nhân vật không hiểu rõ mình có những kỹ năng gì và mức độ ra sao. Nhiều tiếng cười được tạo ra khi Billy tìm hiểu sức mạnh mới có cùng bạn thân Freddy (Jack Dylan Grazer) - vốn là người mê siêu anh hùng. Do thiếu kinh nghiệm, họ thử nghiệm đủ trò để xem Billy mạnh đến đâu.
Với vai chính là kẻ to xác vốn là trẻ con, biên kịch dễ khai triển các tình huống dí dỏm liên quan đến sự ngớ ngẩn của nhân vật mà không phản cảm. Tiếng cười trong tác phẩm tương đối nhẹ nhàng, khác với kiểu nói chuyện mỉa mai trong các phim Iron Man hay phong cách gây cười nhiều yếu tố nhạy cảm của loạt Deadpool. Ngoài ra, một số cảnh chiến đấu trong Shazam! cũng được dàn dựng theo lối hài khi Billy chưa làm chủ kỹ năng.
Dù vậy, kịch bản vẫn không quên đường dây tâm lý nhân vật chính. Billy vốn có số phận bất hạnh, không nhận được sự giáo dục đầy đủ từ cha mẹ. Chính vì thế, khi thành siêu nhân, cậu tỏ ra bất cần, sử dụng quyền năng cho các trò mua vui. Chỉ khi người thân bị đe dọa, nhân vật mới nhận ra trách nhiệm khi có năng lực lớn lao. Ý tưởng này khá tương đồng với bom tấn Spider-Man (2002). Nhưng tác phẩm mới không có nhiều bi kịch, mất mát như trong phim của đạo diễn Sam Raimi. Lối xử lý ở cao trào của Shazam! gây phấn khích và hướng đến việc mở rộng câu chuyện hơn là làm dày thêm mâu thuẫn nội tâm nhân vật chính.
Zachary Levi là lựa chọn tròn trịa cho vai chính. Nét mặt tếu táo, giống như lúc nào cũng đùa giỡn của anh hợp với người có tâm hồn trẻ thơ. Tài tử sinh năm 1980 từng hóa thân chiến binh Fandral trong hai phần phim về Thor, thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Shazam! là lần đầu tiên anh có cơ hội đóng chính bom tấn. Với phản hồi tích cực của khán giả, Levi nhiều khả năng gắn bó lâu dài với nhân vật. Trong khi đó, nhóm diễn viên nhí như Asher Angel, Jack Dylan Grazer, Faithe Herman (vai em gái nuôi của Billy) cũng ghi dấu ấn với vẻ lém lỉnh.
Với ánh mắt toát lên sự nguy hiểm, thần thái lạnh lùng, Mark Strong không khó thể hiện nhân vật Thaddeus Sivana. Vai này được xây dựng khá tốt về câu chuyện quá khứ, giúp khán giả hiểu nỗi bức bách khiến hắn thành tội phạm. Tuy nhiên, càng về cuối nhân vật càng trở thành kiểu phản diện một chiều.
Có kinh phí chỉ 100 triệu USD (thấp nhất Vũ trụ Điện ảnh DC), Shazam! không gây ấn tượng về kỹ xảo. Dù nhân vật chính rất mạnh, yếu tố hành động ít gây choáng ngợp như Aquaman - tác phẩm gây sốt năm ngoái. Ở cao trào, các pha chiến đấu hơi rời rạc, lê thê nhưng được bù đắp bằng một tình tiết bất ngờ ở cuối, có thể khiến các fan thỏa lòng.
-
Bộ phim diễn ra trong bối cảnh của Chiến tranh thế giới thứ nhất, tại mặt trận phía Tây ở Pháp. Câu chuyện diễn ra trong một đơn vị quân đội Pháp vào năm 1916. Bộ phim xoay quanh một trận chiến mà quân đội Pháp đang cố gắng chiếm lĩnh một vị trí chiến lược. Sự tiến công này được xem là rất quan trọng nhưng có vẻ như không khả thi và quá mạo hiểm. Tướng Mireau (do George Macready thủ vai) ra lệnh cho quân đội của mình tấn công vào vị trí mà không thể nào chiếm được. Khi cuộc tấn công thất bại, tướng Mireau yêu cầu phải có sự trừng phạt nghiêm khắc. Để xoa dịu dư luận và tìm một "kẻ chịu tội," ba binh sĩ từ đơn vị của Đại úy Dax (do Kirk Douglas thủ vai) bị buộc tội phản bội và bị đưa ra xét xử quân sự.
-
Khách Sạn Huyền Bí 3: Kỳ Nghỉ Ma Cà Rồng, một bộ phim hoạt hình dành cho trẻ nhỏ đúng nghĩa.
Sau tất cả thì nỗ lực tái hiện lại cơn sốt từ phần 1 của tựa phim Hotel Transylvania vẫn chưa thành công. Sau phần 2 “vừa xem vừa ngủ” thì các nhà sản xuất đã cố gắng tìm lại giá trị cho các nhân vật đầy tiềm năng của họ bằng việc ra mắt phần thứ 3 mang tên Hotel Transylvania 3: Summer Vacation - Khách Sạn Huyền Bí 3: Kỳ Nghỉ Ma Cà Rồng với bối cảnh hoàn toàn mới, thoát ra khỏi cái khách sạn cũ kỹ đã quá quen thuộc bằng một chuyến du lịch đến thành phố Atlantis. Hài hước có, cảm động có, nhưng gần như phim không để lại ấn tượng cho người xem sau khi rời rạp, mọi thứ trôi tuột đi một cách dễ dàng.
Khi con gái đã yên bề gia thất và bạn bè cũng đang rục rịch kết hôn thì chủ nhân của tòa khách sạn “sang chảnh”, bá tước Dracula chợt nhận ra mình đang cô đơn và bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị hôn phu mới bằng những cách mà ông có thể nghĩ ra. Cùng lúc đó thì Mavis chợt nảy ra ý tưởng cùng mọi người làm một chuyến du lịch thư giãn và tại đây, trái tim của Dracula lại một lần nữa rung động.
Như thường lệ, nhân vật Dracula vẫn chiếm phần lớn sự chú ý của khán giả bằng sự bẩn bựa đầy duyên dáng của mình, và đối với phần phim gần như dành riêng cho ông thì yếu đó còn được khai thác nhiều hơn nữa nhưng không hề bị lố. Anh chàng con rể Johnny vốn cũng là một nhân vật để khai thác sự hài hước nhưng trong đây anh lại quá mờ nhạt hay phải nói là gần như tàng hình cho đến tận cuối phim mới có cơ hội tỏa sáng. Cô bé Mavis nay đã trở thành người phụ nữ của gia đình luôn lo lắng cho người thân của cô. Các nhân vật phụ còn lại như gia đình đình ma sói, vợ chồng Frankenstein, Murray,… đều chỉ có nhiệm vụ góp tiếng cười để cố giữ cho phim không một lần nữa trở nên bị nhàm chán trong trong giai đoạn giữa phim. Phản diện lần này thật sự rất chìm và có vẻ như chỉ được thêm vào để tạo độ kịch tính và hoàn thành cốt truyện cho phim chứ không để lại bất kỳ ấn tượng nào từ tạo hình nào cho đến tính cách và độ nham hiểm.
Phim cố gắng đem lại sự vui tươi nhiều nhất có thể nên có khá nhiều cảnh hài rất rời rạc so với mạch phim. Thỉnh thoảng lại một cảnh nào đó “lẽ ra là phải cười” và rất không liên quan xuất hiện chen vào khiến người xem cười theo quán tính chứ không phải là vì nó vui thật sự. Vì nội dung xoay quanh chủ yếu vào mối tình chớm nở giữa Dracula và Ericka, thế nên nhân vật này đáng lẽ cần được đưa lên khai thác nhiều hơn, và đất diễn của cô có thể ngang hoặc ít hơn một chút so với vị bá tước thì sẽ hay hơn rất nhiều. Nhưng đáng tiếc là thời lượng xuất hiện của cô ta lại quá ít mà chất lượng thì cũng không khá hơn là bao, thậm chí đôi lúc phải nói là lãng nhách.
Tuy nhiên, phim lại làm rất tốt trong khoản âm thanh và hình ảnh khi xuyên suốt phim có nhiều cảnh hoành tráng kết hợp rất ăn ý cùng những giai điệu đa dạng tạo nên một cảm giác rất đã. Đặc biệt nhất phải kể đến màn đấu âm nhạc giữa 2 DJ cực chất vào cuối phim. Phải nói đây là cảnh người viết ưng ý nhất. Mọi thứ như được kìm nén chờ đến phút cuối cùng để thật sự bùng nổ. Dù phim không có gì quá nổi bật nhưng lại sở hữu một cao trào cực kỳ hấp dẫn, rất đáng xem.
Phim cũng không quên lồng vào một thông điệp về tình cảm gia đình dù không mới nhưng cũng chưa bao giờ cũ, nói lên nỗi lòng của rất nhiều cha mẹ đơn thân hiện nay. Còn nhớ phần đầu khi Dracula tỏ ra vô cùng bất an và cấm đoán cô con gái Mavis yêu một con người thì nay tâm trạng của hai người họ lại hoán đổi cho nhau. Mavis giống như cha mình trước kia, giờ tỏ ra dè chừng khi ông bắt đầu yêu Ericka. Điều này cũng giống với thực tế khi nhiều người cha hoặc mẹ đơn thân vì cô đơn nên muốn tiến thêm bước nữa nhưng lại vấp sự ngăn cản từ con cái nên lỡ mất tình yêu của mình. Những người con cần thông cảm cho hoàn cảnh của cha mẹ, hãy để cho họ được tự do quyết định và bản thân chỉ là người tư vấn thật sáng suốt. Hơi tiếc một chút là thông điệp ấy bị đưa hơi nhanh nên thiếu mất chiều sâu và sự lắng đọng cần thiết.
Nhìn chung thì phim chưa có gì gọi là đột phá vì nội dung còn đơn điệu, sự hài hước vốn là yếu tố chính đưa khán giả đến với Hotel Transylvania cũng chỉ là tái sử dụng từ những phần trước nên không có gì nổi bật. Phim dù không như mong đợi nhưng vẫn phù hợp để giải trí trong dịp hè năm nay.
-
Bộ phim theo chân Cobra, một tên cướp không gian nổi tiếng và mạnh mẽ. Cobra có một quá khứ bí ẩn và một khả năng chiến đấu vượt trội. Sau khi bị mất trí nhớ và sống một cuộc sống bình thường trong một thời gian, Cobra quyết định trở lại với cuộc sống phiêu lưu của mình khi bị kéo vào một cuộc chiến chống lại một kẻ thù đáng gờm.
-
Shadow (Ảnh) là tác phẩm đánh dấu sự trở lại của một trong những đạo diễn tên tuổi hàng đầu Trung Quốc - Trương Nghệ Mưu. Ông là người đứng sau sự thành công của một loạt phim nổi tiếng như Cúc Đậu, Đèn Lồng Đỏ Treo Cao, Thập Diện Mai Phục, Anh Hùng,… Không lạ khi Ảnh từ khi khai máy đã là trung tâm chú ý của nhiều khán giả mê điện ảnh nói chung và phim Trương Nghệ Mưu nói riêng.
Đạo diễn lừng danh trở lại với dòng phim võ hiệp sau hơn một thập kỉ. Đáng nói là không giống như Anh Hùng (2002) hay Thập Diện Mai Phục (2004) - những bộ phim võ hiệp mang nhiều màu sắc ấn tượng trong từng khuôn hình, lần này Trương Nghệ Mưu thực hiện Ảnh với cảm hứng được lấy từ dòng tranh thủy mặc nổi tiếng của Trung Hoa.
Do vậy, khác với nhiều tác phẩm điện ảnh, Ảnh mang lại phần nhìn đầy sự mới mẻ và độc đáo, tựa như thưởng thức một bức tranh với hai màu chủ đạo là đen và trắng. Hai màu sắc tối giản đưa khán giả đi hết những tinh túy của nền văn hóa Trung Hoa tiêu biểu là nghệ thuật thư pháp, tranh thủy mặc và thái cực đồ.
Việc sử dụng màu chủ đạo đen – trắng không hề làm phim nhạt nhòa và đơn điệu, ngược lại, gam màu trung tính mang lại cho Ảnh sự nghệ thuật và hoàn mỹ mà ít phim điện ảnh nào có được. Từng hình ảnh như bút lông vẩy trên màn hình, tạo thành bức tranh thủy mặc chuyển động.
Ảnh lấy bối cảnh Trung Quốc cổ đại, kể về kẻ thế thân cho người quyền quý trong thời loạn lạc. Phim có sự tham gia diễn xuất của nhiều cái tên nổi tiếng đã quen mặt với khán giả như Đặng Siêu, Tôn Lệ, Hồ Quân, Trịnh Khải và cả gương mặt trẻ như Ngô Lỗi, Quan Hiểu Đồng.
Đặng Siêu đảm nhiệm hai vai là Đô đốc Tử Ngu – Chân Thân, một người bệnh tật gầy gò ốm yếu và nham hiểm, và vai còn lại là Cảnh Châu - Ảnh tử, hiểu nôm na là cái bóng, người thế thân cho chủ nhân, một nam nhân có ngoại hình y hệt Tử Ngu nhưng phóng khoáng và khỏe mạnh.
Anh đã hi sinh rất nhiều cho vai diễn này, nam diễn viên có quá trình tăng - giảm cân chóng mặt, hai tháng để tăng 10 kg cùng rèn luyện cơ bắp vào vai Cảnh Châu và gần một tháng để giảm 20 kg, thành một bệnh phu với vai Tử Ngu. Chắc trình độ thay đổi cân nặng này không thua kém nam tài tử Christian Bale của Hollywood là bao.
Tôn Lệ vào vai một cô nương tên Tiểu Ngải, phu nhân của Tử Ngu và nắm rõ kế hoạch dùng thế thân của hắn. Nhiều khán giả cho rằng Tôn Lệ chỉ nổi bật ở mảng phim truyền hình nhưng Ảnh đã chứng minh mảng điện ảnh cũng không làm khó được nữ diễn viên thực lực này.
Tiểu Ngải xinh đẹp, kiên cường, thông minh nhưng cũng không kìm chế được ham muốn dục vọng; những chuyển biến tâm lí của nhân vật được Tôn Lệ diễn rất mượt mà và thần thái. Nữ diễn viên cũng rất đầu tư cho những màn võ thuật, màn múa võ cùng Cảnh Châu (Đặng Siêu) là một trong những phân cảnh ấn tượng nhất của Ảnh.
Nam diễn viên kì cựu Hồ Quân đảm nhiệm vai Dương tướng quân, người sống chết bảo vệ thành Cảnh Châu, nam diễn viên trẻ Ngô Lỗi với vai Dương Bình- con trai Dương tướng quân, thiếu niên thiện chiến và dũng cảm. Sự kết hợp của hai thế hệ diễn viên để lại nhiều ấn tượng với khán giả.
Tài tử Trịnh Khải trong vai Chúa công Bái Lương – tưởng là một hôn quân ham mê tửu sắc hóa ra mưu sâu kế hiểm chẳng kém ai. Diễn viên trẻ Quan Hiểu Đồng vào vai trưởng công chúa Thanh Bình xinh đẹp và dũng cảm. Nhân vật này cùng Dương Bình (Ngô Lỗi) có màn hành động mãn nhãn khán giả nửa cuối phim.
Quá trình làm phim giờ đây đã đỡ tốn công hơn trước rất nhiều bởi có sự hỗ trợ từ các công cụ hiện đại. Tuy nhiên, đạo diễn Trương Nghệ Mưu làm Ảnh với cách truyền thống và nói không với việc dùng kỹ xảo. Ông kiên trì quay người thật, cảnh thật, không sử dụng công nghệ mô phỏng hình ảnh bằng máy tính.
Trương Nghệ Mưu từng nói điện ảnh là nơi thể hiện tinh thần của những người thợ và ông dùng Ảnh như một lời khẳng định đây là một phim hành động võ thuật nhưng đậm chất nghệ, chắc chắn đem lại trải nghiệm thị giác chân thực nhất đến với khán giả. Ảnh là kết quả của sự can đảm dám thoát ra khỏi vòng xoáy của công nghệ làm phim kỹ xảo để tìm về giá trị chân thực trong thế giới điện ảnh mà Trương Nghệ Mưu đã xây dựng từ lâu.
Phim có cảnh đấu võ bảy ngày trong mưa, đạo cụ được sử dụng là những chiếc ô bằng thép tưởng mạnh mẽ cứng cáp nhưng lại vô cùng uyển chuyển mềm mại, đây là vũ khí quan trọng góp phần vào thắng lợi của Cảnh Châu.
Độ dài của Ảnh gần 2 tiếng và quá nửa các phân cảnh được quay dưới trời mưa, và đây là mưa thật, ekip sản xuất không hề dùng máy tạo mưa nên mất hơn một tháng để hoàn tất cảnh hành động mãn nhãn này.
Phần nhìn tốt, phần nghe của Ảnh cũng xuất sắc khi sự đối kháng của các nhân vật luôn được đẩy đến cao trào trên nền nhạc đàn tam thập lục, âm thanh lúc nhẹ nhàng đong đưa lúc lại dồn dập mạnh mẽ là thứ gia vị không thể thiếu trong món ăn nghệ thuật tinh gọn này.
Ảnh không chỉ là phim cổ trang võ thuật thông thường mà còn bao hàm nhiều giá trị quan và triết lí cuộc đời. Là câu chuyện về một cái bóng, thế thân cho chủ nhân, cuộc đời tùy người khác sắp đặt, thế nhưng khi cái bóng ngày càng lớn dần lên, đến mức chính Tử Ngu phải lên tiếng cảnh báo vợ mình rằng: “Tiểu Ngải có vẻ không còn phân biệt đâu thật đâu giả nữa”, thì “Không còn chân thân, cũng vẫn có ảnh tử”!
Hình ảnh cái ô cửa xuất hiện dàn trải nửa cuối phim cũng là một dụng tâm của đạo diễn. Nó đại diện cho ham muốn tình dục của người phụ nữ; chứng minh sự mê đắm vương quyền của người đàn ông có thể khiến anh ta nhẫn nhịn đến nhường nào và là kết quả của sự chấp nhận thực tại dấu nhẹm sự thật để sống một cuộc đời dối trá nhưng mãn nguyện.
Ảnh là một trò chơi với âm mưu và quyền lực được đặt trong bối cảnh thủy mặc giang sơn. Phim mang đậm nét văn hóa phương Đông, với triết lý âm dương, bát quái. Tiểu Ngải mềm mại nữ tính cầm chiếc ô cạnh bóng - Cảnh Châu như một tinh thần lấy nhu khắc cương không hề lạ lẫm với văn hóa Trung Hoa, cũng như hình ảnh vòng tròn Âm – Dương xuất hiện xuyên suốt tác phẩm.
Cuối cùng không phải những món cao lương mỹ vị hay những hình ảnh ngồn ngộn đầy màu sắc, chính thứ nghệ thuật tinh giản mới là nhân tố đem lại sự thành công cho lần trở lại sau 2 năm vắng bóng của Trương Nghệ Mưu. Khi điện ảnh làm ra để tiếp cận cái đẹp và sự nguyên thủy mới chính là điều nên có giữa thời đại công nghệ đang lấn át tất cả.
-
Bộ phim kể về câu chuyện truyền kỳ của Na Tra, một cậu bé đã đứng lên chống lại số phận bị áp đặt và những định kiến xã hội, nơi con người không chịu chung sống hòa bình với những người bị coi là dị loại. Bên cạnh đó phim cũng đề cập đến vấn đề phân biệt chủng tộc và cuộc đấu tranh giành quyền được sống tự do của họ.
-
Phim diễn ra trong bối cảnh Nội chiến Mỹ (1861-1865), khi các lực lượng miền Bắc (Liên bang) chiến đấu chống lại miền Nam (Liên minh). Bộ phim tập trung vào Trung đoàn 54 Massachusetts, một trong những đơn vị quân đội đầu tiên được thành lập từ những người Mỹ gốc Phi. Trung đoàn này do Đại úy Robert Gould Shaw (do Matthew Broderick thủ vai) chỉ huy. Shaw là một sĩ quan trẻ tuổi từ gia đình giàu có và đã tình nguyện dẫn dắt đơn vị này. Bộ phim mô tả những khó khăn mà trung đoàn phải đối mặt, từ việc nhận được sự coi thường và phân biệt đối xử từ các đơn vị khác trong quân đội, cho đến những trận chiến khốc liệt mà họ tham gia.
-
Pixar luôn được coi là một "đại gia" trong thế giới phim hoạt hình. Được sáng lập từ năm 1986, cho đến nay Pixar đã tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị làm thay đổi cả nền công nghiệp làm phim. Từ Monsters Inc, Finding Nemo, The Icredibles hay gần đây là Wall-E, Up - tất cả đều trở thành những bộ phim hoạt hình đi vào lịch sử của điện ảnh thế giới. 22 giải Oscar và hàng chục giải thưởng lớn nhỏ khác là những phần thưởng hoàn toàn xứng đáng cho những nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ của đội ngũ Pixar. Góp phần không nhỏ trong việc tạo nên tên tuổi cho "đại gia" phim hoạt hình danh tiếng này chính là Toy Story - "kỳ quan" đầu tiên của Pixar.
Năm 1995, sự ra đời của Toy Story trở thành một hiện tượng lớn trên toàn cầu bởi đây là bộ phim hoạt hình dài đầu tiên trong lịch sử được thực hiện hoàn toàn bằng kỹ thuật đồ họa vi tính. Toy Story không chỉ thay đổi hoàn toàn bộ mặt của phim hoạt hình mà còn đưa toàn bộ nền công nghiệp làm phim bước sang một trang sử mới. Câu chuyện về cậu bé Andy với những món đồ chơi có linh hồn và cảm xúc y chang con người đã chinh phục không chỉ trẻ em mà còn khiến cả người lớn cũng bị thu hút. Sau 15 năm, Pixar quyết định thực hiện phần cuối cho "kỳ quan" đầu tiên của họ.
Toy Story 3 được mở đầu với những hình ảnh quá khứ của Andy khi cậu còn bé và đang vui đùa bên những món đồ chơi rực rỡ màu sắc. Trải qua bao năm tháng, Andy đã trưởng thành và chuẩn bị trở thành một sinh viên đại học. Những món đồ chơi gắn bó với tuổi thơ của cậu như anh chàng cao bồi Woody, phi hành gia Buzz Lightyear, chú chó lò xo Slinky... thì vẫn như ngày nào. Giờ đây chúng trở thành những món đồ cũ bị cất sâu trong hòm. Một tình huống hiểu lầm đã đưa những món đồ chơi lạc vào nhà trẻ tư Sunnyside. Tại đây, chúng gặp gỡ với những người bạn mới như gấu bông thơm mùi dâu tây Lotso, Ken - một búp bê nam điệu đà... và bắt đầu một cuộc sống mới mà không có Andy.
Chàng cao bồi Woody tìm mọi cách để trở về với chủ nhưng đám đồ chơi cho rằng Andy không còn cần chúng nữa và quyết định ở lại Sunnyside. Tuy nhiên, mọi việc trở nên đảo lộn khi đám đồ chơi rơi vào tay những đứa trẻ nghịch ngợm với bàn tay thô bạo và phá phách. Một kế hoạch được lập ra và cả nhóm phải tìm mọi cách qua mặt được những thế lực đen tối đang thống lĩnh nhà trẻ Sunnyside để có thể trở về với Andy. Một cuộc phiêu lưu mới thực sự bắt đầu với Buzz Lightyear, Woody và những người bạn của mình.
Hình ảnh rực rỡ màu sắc được thực hiện ở môi trường 3D khiến hầu hết khán giả, đặc biệt là trẻ em vô cùng thích thú. Phần 3 tiếp tục đưa vào câu chuyện nhiều món đồ chơi mới sinh động và đẹp mắt hơn. Tình tiết của phim được xây dựng lôi cuốn khiến người xem không thể rời mắt khỏi màn ảnh rộng cho dù chỉ vài giây. Các sự kiện liên tiếp diễn ra đưa đẩy cuộc hành trình của những nhân vật đồ chơi tới nhiều chặng đường mới với nhiều bất ngờ mà ít người có thể đoán trước được.
Toy Story 3 dẫn dắt tâm lý người xem một cách tài tình. Bằng hiệu ứng hình ảnh, âm thanh cũng như lối kể chuyện thu hút, mỗi khán giả như được trải nghiệm cuộc hành trình với chính các nhân vật trong phim. Từ khoảnh khắc hiểu lầm dẫn đến sự ra đi của đám đồ chơi, niềm háo hức biến thành nỗi thất vọng khi ở nhà trẻ Sunnyside... cho tới những xung đột, mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm và cách mở những nút thắt - tất cả đều được người xem nhận thức một cách rõ rệt trong từng chi tiết.
Pixar chưa bao giờ thực hiện những tác phẩm hoạt hình mà chỉ đơn thuần mang tính giải trí. Mỗi một tác phẩm do "đại gia hoạt hình 3D" đem tới trong suốt bao năm qua đều ẩn chứa những ý nghĩa sâu sắc, những thông điệp có giá trị và nhiều bài học quý giá không chỉ dành riêng cho trẻ em. Với Toy Story 3 cũng vậy, Pixar đã đưa vào cuộc phiêu lưu mới của đám đồ chơi những câu chuyện giàu tính nhân văn về sự trung thành, lòng trắc ẩn trong mỗi con người, tình bạn keo sơn không thể tách rời trong những giây phút hiểm nguy nhất, niềm hy vọng và sự lạc quan khi phải thích nghi với cuộc sống mới... Tất cả được truyền tải trong hơn 100 phút của phim.
Toy Story 3 cũng muốn truyền đi thông điệp nếu thử một lần quan sát, chúng ta sẽ thấy cuộc sống này có biết bao điều kỳ diệu mà mình chưa hề khám phá ra, rằng những thứ đồ vật tưởng như vô tri, vô giác cũng có một sự sống tiềm ẩn bên trong. Bao nhiêu điều sống dậy trong lòng khi bất chợt tìm lại được một đồ vật tưởng đã mất từ lâu. Hay một ngày tình cờ quay trở lại căn nhà xưa, ta lại có cảm giác bồi hồi, xao xuyến. Đó là bởi vì vạn vật khi được sinh ra đều có một linh hồn cũng như cảm xúc, chỉ có cách nhận biết và thể hiện nó luôn luôn khác nhau.
Tình cảm mà Andy dành cho đám đồ chơi của cậu bé dường như cũng chạm sâu tới cảm xúc của mỗi khán giả khi theo dõi. Ai trong số chúng ta cũng đều có trong mình một tuổi thơ với nhiều ký ức trong trẻo, hồn nhiên. Đó có thể là những món đồ chơi đáng yêu, những câu chuyện cổ tích với bao điều tuyệt duyệt hay đơn giản chỉ là một tấm ảnh bên người yêu thương nhất. Tuy nhiên, những kỷ niệm đẹp của quá khứ không thể theo ta mãi trong suốt cuộc đời này. Ai rồi cũng sẽ phải lớn lên và đón nhận những chặng đường mới cùng bao sự thay đổi mà dường như chẳng người nào có thể cảm thấy được. Đến khi trưởng thành và nhìn lại, tuổi thơ sẽ chỉ còn là một thứ gì đó hiện hữu bất chợt trong tâm trí ta. Tương lai là cái mà con người luôn phải hướng đến, nhưng đừng bao giờ bỏ quên quá khứ.
Khoảnh khắc mà Andy tạm chia tay với đám đồ chơi để trở thành "người lớn" khiến người xem gần như vỡ òa trong cảm xúc mãnh liệt. Sẽ có một ngày nào đó Andy trở về bên những món đồ chơi của mình, nhưng lúc đó cậu sẽ không còn là Andy bé bỏng, hiếu động của ngày nào nữa. Woody, Buzz Lightyear cũng như những đồ chơi khác không thể đi tiếp cùng Andy trong hành trình mới của cậu và tất cả phải học cách chấp nhận chuyện đó dù cho muốn hay không. Nhưng chắc chắn chúng sẽ vẫn mãi là những người bạn quý giá nhất mà Andy không bao giờ quên được trong cuộc đời. Pixar đã đem tới cho Toy Story một cái kết không thể hoàn hảo hơn.
Mặc dù được thực hiện ở môi trường 3D nhưng Toy Story 3 không có sự tương tác nhiều với khán giả như ở những bộ phim 3D khác. Tuy nhiên, chính điều đó lại khiến phim trở nên xứng đáng hơn bao giờ hết với danh hiệu "kỳ quan thứ 11 của Pixar". Toy Story 3 mang đến nhiều hơn thế nữa, không chỉ sự mãn nhãn về mặt thị giác mà còn là những cảm xúc đa chiều và sự hoài niệm về tuổi thơ của riêng mỗi người.
-
Vào một đêm muộn, Albus Dumbledore và Minerva McGonagall, các giáo sư tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts, cùng với người gác cổng Rubeus Hagrid, giao một đứa trẻ mồ côi tên là Harry Potter cho dì và chú của cậu, Petunia và Vernon Dursley, những người thân còn sống duy nhất của cậu.
Mười năm sau, ngay trước sinh nhật lần thứ mười một của Harry, những con cú bắt đầu chuyển những bức thư được gửi cho cậu. Khi nhà Dursley ngược đãi không cho phép Harry mở bất cứ lá thư nào và chạy trốn đến một túp lều trên đảo, Hagrid đến để đích thân đưa lá thư chấp nhận của Harry cho trường Hogwarts. Hagrid cũng tiết lộ rằng cha mẹ của Harry, James và Lily, đã bị giết bởi một phù thủy hắc ám tên là Chúa tể Voldemort. Lời nguyền Giết chóc mà Voldemort đã tạo ra đã phản lại, phá hủy cơ thể của Voldemort và tạo cho Harry vết sẹo hình tia chớp. Hagrid sau đó đưa Harry đến Hẻm Xéo để lấy đồ dùng học tập và đưa cho cậu một con cú tuyết cưng mà cậu đặt tên là Hedwig. Harry mua một cây đũa phép được kết nối với cây đũa phép của chính Voldemort.
Tại nhà ga Ngã tư Vua, Harry lên chuyến tàu tốc hành Hogwarts. Cậu gặp Ron Weasley và Hermione Granger, một phù thủy gốc Muggle. Đến Hogwarts, Harry cũng gặp Draco Malfoy, người xuất thân từ một gia đình phù thủy giàu có, thuần huyết. Hai người ngay lập tức trở thành đối thủ. Các học sinh tập trung tại Đại sảnh nơi chiếc Mũ phân loại sắp xếp các học sinh năm đầu tiên trong bốn Nhà tương ứng: Gryffindor, Hufflepuff, Ravenclaw và Slytherin. Harry được xếp vào Nhà Gryffindor cùng với Ron và Hermione, trong khi Draco được xếp vào Nhà Slytherin, một Nhà dành cho các phù thủy hắc ám.
Khi Harry học phép thuật, cậu biết thêm về cha mẹ mình và Voldemort. Tài năng bay chổi của Harry đã giúp Harry được tuyển chọn làm Tầm thủ trẻ tuổi nhất cho đội Quidditch của Gryffindor trong một thế kỷ. Trong khi quay trở lại phòng sinh hoạt chung của Gryffindor, cầu thang đổi lối, dẫn Harry, Ron và Hermione lên tầng ba, nơi bị hạn chế. Ở đó, họ phát hiện ra một con chó ba đầu khổng lồ tên là Fluffy. Vào Halloween, Ron xúc phạm Hermione sau khi cô bé thể hiện trong lớp học Bùa chú. Cảm thấy bực bội, Hermione dành cả buổi chiều để khóc trong phòng tắm nữ. Đêm đó, một con Quỷ lùn khổng lồ đi cướp bóc vào đó, nhưng Harry và Ron đã cứu Hermione, và cả ba làm lành và trở thành bạn thân sau khi Hermione nhận lỗi bằng cách tuyên bố rằng cô ấy đã đi tìm con Quỷ lùn.
Bộ ba phát hiện ra rằng Fluffy đang canh giữ Hòn đá Phù thủy, một vật thể ma thuật có thể biến kim loại thành vàng và tạo ra một loại thuốc trường sinh bất tử. Harry nghi ngờ rằng giáo viên Độc dược và là người đứng đầu Nhà Slytherin, Severus Snape, muốn cướp viên đá để đưa Voldemort trở lại dạng vật chất. Khi Hagrid tình cờ tiết lộ rằng âm nhạc khiến Fluffy ngủ say, Harry, Ron và Hermione quyết định đi tìm viên đá trước Snape. Fluffy đã ngủ, nhưng bộ ba phải đối mặt với những rào cản khác, bao gồm một loài thực vật chết người tên là Tấm lưới Sa tăng, một căn phòng chứa đầy những phím bay hung hãn và một trò chơi cờ vua khổng lồ đánh gục Ron.
Sau khi vượt qua các chướng ngại, Harry phát hiện ra rằng giáo viên môn Phòng chống lại Nghệ thuật Hắc ám, Quirinus Quirrell muốn có viên đá; Snape đã hiểu ra điều đó và đang bảo vệ Harry. Quirrell cởi bỏ khăn xếp và để lộ một Voldemort suy yếu sống ở phía sau đầu của hắn ta. Bùa hộ mệnh của cụ Dumbledore đặt viên đá vào quyền sở hữu của Harry. Voldemort cố gắng mặc cả viên đá từ Harry để đổi lấy cha mẹ của mình hồi sinh, nhưng Harry đã nhìn thấu được mánh khóe của hắn và từ chối. Quirrell định giết Harry. Khi Harry chạm vào da của Quirrell, nó sẽ đốt cháy Quirrell, biến hắn thành tro. Linh hồn của Voldemort trỗi dậy từ đống tro và trốn thoát, hạ gục Harry khi nó đi qua cậu.
Harry hồi phục trong bệnh xá của trường. Cụ Dumbledore nói rằng viên đá đã được phá hủy để tránh bị lạm dụng, và Ron và Hermione vẫn an toàn. Cụ Dumbledore tiết lộ cách Harry đánh bại Quirrell: Khi Lily chết để cứu Harry, một sự bảo vệ dựa trên tình yêu chống lại Voldemort đã được đặt lên anh. Harry, Ron và Hermione được thưởng điểm cho tính anh hùng của họ, giúp họ giành vị trí đầu tiên với Slytherin. Sau đó, cụ Dumbledore thưởng mười điểm cho người bạn cùng nhà Neville Longbottom vì đã can đảm đứng lên đấu tranh với bộ ba, trao Cúp Nhà cho Nhà Gryffindor. Harry trở lại nhà Dursley vào kỳ nghỉ hè hè, hạnh phúc vì cuối cùng đã có một ngôi nhà thực sự ở Hogwarts.
-
Câu chuyện bắt đầu với một người bán rong cưỡi lạc đà, hát bài "Arabian Night" và kể câu chuyện của Aladdin. Vào một đêm tối, khi mà Jafar - Tể tướng đáng kính của Agrabah - đang thử tìm cách vào Hang động Kỳ lạ - một hang động ma thuật giữ nhiều của cải kho báu, trên hết là cây đèn thần ẩn chứa Thần đèn bên trong. Jafar và con vẹt biết nói của lão ta - Iago, biết rằng chỉ có một người (như một viên kim cương chưa được gọt giũa) có thể vào được Hang động Kỳ lạ.
Trong khi đó, ở cung điện Agrabah, Jasmine - cô công chúa xinh đẹp của Đức vua - sẽ phải lấy chồng trước sinh nhật sắp tới của nàng, nhưng nàng từ chối tất cả hoàng tử mà nàng gặp vì nàng muốn cưới người mà mình thực sự yêu và không chỉ đơn thuần bởi sự giàu có. Sau đó Jasmine trèo qua tường thành và - lần đầu tiên - đi đến khu chợ, nơi mà nàng gặp chàng trai sống lang thang ngoài đường phố Aladdin với chú khỉ tri kỷ của anh - Abu. Chàng trai và cô gái dường như đã có tình cảm với nhau. Khi đó, Jafar sử dụng một cái máy đặc biệt để tìm "viên kim cương chưa được gọt giũa" - đó chính là Aladdin. Jafar bèn cho một đội lính đến bắt Aladdin trong lúc Jasmine đang ở đó cùng anh. Jasmine nói Jafar thả Aladdin ra, nhưng lão nói dối là anh đã chết.
Jafar, giả dạng làm một lão già, hứa sẽ tặng Aladdin nhiều của cải nếu anh giúp ông ta lấy chiếc đèn thần. Lão già giúp Aladdin trốn khỏi nhà tù và đưa anh đến Hang động Kỳ lạ. Cửa hang - 1 đầu hổ khổng lồ - nói rằng vào trong chỉ được lấy chiếc đèn và không được đụng tới thứ gì khác. Aladdin vào trong và gặp 1 tấm thảm thần. Khi Aladdin tìm được cây đèn, khỉ Abu bị mê hoặc bởi 1 viên hồng ngọc khổng lồ và cố gắng lấy trộm nó, khiến cho cả hang động bắt đầu sụp xuống, nhưng may mắn là thảm thần đã giúp họ thoát chết. Tới cửa hang, Jafar lấy chiếc đèn và cố gắng giết họ nhưng chú khỉ đã nhanh tay lấy lại đèn thần và cắn vào tay lão, khiến lão vô tình ấn họ xuống lại hang đúng lúc nó sập xuống.
Khi Aladdin tỉnh lại, Abu đưa anh cây đèn và sau khi anh xoa vào nó, 1 Thần đèn vui tính hiện ra. Thần đèn nói ông sẽ cho anh ba điều ước. Aladdin khôn khéo lừa Thần đèn giúp họ ra khỏi hang động mà không mất một điều ước. Trong khi suy tính về những điều ước của mình, Aladdin hỏi ý kiến của Thần đèn. Thần đèn thú thật là ông sẽ ước được tự do, vì từ khi bị giam giữ bởi cây đèn, ông phải làm theo những gì mà chủ nhân cây đèn yêu cầu. Aladdin hứa anh sẽ ước cho Thần đèn được tự do trong điều ước cuối của mình và Thần đèn rất vui mừng. Rồi Thần đèn thực hiện điều ước đầu tiên của Aladdin: biến anh thành hoàng tử để anh có thể lấy công chúa Jasmine. Sau đó họ diễu hành đến cung điện của Đức vua. Lúc ấy Jafar đang dùng ma thuật dụ dỗ nhà vua cho lão lấy công chúa, nhưng tiếng động từ cuộc diễu hành nhộn nhịp vui vẻ làm vua tỉnh lại. Nhà vua rất thích thú và mến 'hoàng tử Ali' nhưng công chúa Jasmine từ chối anh vì nghĩ anh cũng như bao kẻ đến cầu hôn trước đây. Tối hôm đó, Aladdin gặp Jasmine, đưa nàng du ngoạn trên tấm thảm thần. Nàng nhận ra anh chính là người mà nàng đã gặp trên phố và biết anh đã nói dối. Aladdin đành nói dối rằng đôi khi anh ăn mặc như một thường dân để bớt những áp lực của cuộc sống hoàng gia và Jasmine tin anh. Sau đó Aladdin đưa nàng trở về cung điện và họ trao nhau nụ hôn.
Jafar cho một đội lính đến đánh ngất Aladdin rồi trói lại và ném anh xuống biển. Cây đèn thần rơi từ chiếc mũ vào bàn tay mềm rũ của anh. Thần đèn hiện ra, hốt hoảng vì không thể giúp Aladdin khi điều ước chưa được nói ra. Thần đèn lay vai anh, khiến Aladdin như đang gật đầu. Coi đó như là điều ước thứ 2, Thần đèn cứu Aladdin thoát chết. Họ càng mến nhau hơn. Sau đó, Aladdin trở lại cung điện, đập vỡ cây quyền trượng của Jafar - vật lão hay dùng để thôi miên Đức vua - và lật bộ mặt xấu xa của lão. Jafar bỗng nhận ra Aladdin, và lão chạy trốn. Nhà vua rất vui mừng khi biết công chúa muốn lấy Aladdin, quyết định anh sẽ là phò mã và sau này sẽ trở thành vua. Điều này khiến cho Aladdin rơi vào tình cảnh khó xử vì anh biết mình có được tất cả vì nhờ có Thần đèn, và anh sẽ không thể thực hiện lời hứa là ước cho Thần đèn được tự do. Họ giận nhau. Con vẹt Iago nhân cơ hội lẻn vào lấy cắp chiếc đèn thần và mang đến cho Jafar và lão ta trở thành chủ nhân mới của cây đèn. Điều đầu tiên lão ước là trở thành Đức vua, sau đó lão ước mình là một phù thủy đầy quyền lực. Lão giam cầm nhà vua và công chúa, biến Aladdin trở lại bộ quần áo rách rưới, và ném anh cùng khỉ Abu và thảm thần đến vùng đất xa tít đầy bão tuyết.
Aladdin dùng thảm thần để quay trở lại kinh đô Agrabah, nơi Jafar đang giam giữ nhà vua, thần đèn và Jasmine để làm nô lệ cho hắn. Hắn đề nghị Jasmine trở thành vợ mình và làm hoàng hậu, nhưng cô từ chối. Ngay sau đó Jasmine trông thấy Aladdin đang lẻn vào trong lâu đài, chuẩn bị lấy lại chiếc đèn. Cô đánh lạc hướng Jafar bằng cách khiến cho hắn tưởng rằng cô đã yêu hắn say đắm. Jasmine trao một nụ hôn cho Jafar, nhưng hắn đã thấy bóng Aladdin phản chiếu trên vương miện của cô công chúa. Aladdin đánh nhau với Jafar lúc hắn đã biến thành con rắn hổ mang khổng lồ. Khi Jafar nói rằng hắn là kẻ "Quyền lực nhất thế gian", Aladdin nói hắn không thể quyền lực được bằng thần đèn. Jafar dùng điều ước cuối để biến mình thành thần đèn và điều khiển cả vũ trụ. Nhưng hắn quên rằng thần đèn bị trói buộc cùng cây đèn của mình và mắc lại trong chiếc đèn màu đen cùng với Iago. Thần đèn ngay sau đó đã ném cây đèn về Hang động Kỳ lạ.
Aladdin nói lời tạm biệt với Jasmine vì giờ anh không phải hoàng tử và họ không thể cưới nhau. Aladdin đã ước cho thần đèn được tự do, khiến ông vô cùng ngạc nhiên và sung sướng. Vì Jasmine yêu Aladdin, nhà vua đã thay đổi luật lệ, Jasmine có thể lấy người cô chọn và người đó là Aladdin. Thần đèn đi khám phá thế giới trong khi Aladdin và Jasmine tổ chức lễ đính hôn của mình.
-
Anna (Sasha Luss) là cô gái trẻ xinh đẹp, nhưng lại có cuộc sống cơ cực dưới đáy xã hội từ sau cái chết bất ngờ của cha mẹ. Khi đang ở độ tuổi đẹp nhất của đời người, cô bế tắc trong mối quan hệ với gã bạn trai bê tha, tệ hại.
Rồi Anna quyết định đâm đơn xin gia nhập lực lượng hải quân. Tuy nhiên, cô gái trẻ lại được tổ chức KGB để ý và đào tạo thành sát thủ chuyên nghiệp. Từ đây, Anna chuyên tiếp quản những phi vụ khó nhằn, cũng được cấp trên hứa trả tự do sau 5 năm phục vụ.
Thời gian thấm thoát trôi qua. Song, KGB không muốn để mất một cá nhân kiệt xuất như Anna nên tìm cách “phản bội” lời hứa trước đó. Điều này đẩy cô gái bước vào một chuyến hành trình nguy hiểm nhằm tìm lại tự do cho bản thân.
Cách kể chuyện phi tuyến tính đẩy cao nhịp độ phim
Anna có nhịp phim rất nhanh khi mở đầu tác phẩm lập tức là một trường đoạn thanh trừng khiến người xem sững sờ. Xuyên suốt sau đó, nội dung phim được triển khai theo lối kể phi tuyến tính. Quá khứ, hiện tại, tương lai cứ thế đan xen. Chính lối kể chuyện này giúp Anna dễ tạo ra những nút thắt bất ngờ.
Trong phim, Anna phải đối mặt với ba mối nguy hiểm: mục tiêu triệt hạ của cô, tổ chức KGB, và sự giám sát của CIA. Chỉ có một thân một mình, hành trình của Anna cực kỳ gai góc, và đả nữ không ít lần chỉ thoát chết trong gang tấc. Bộ phim cũng nhờ đó trở nên kịch tính và giữ được độ hấp dẫn xuyên suốt.
Tuy nhiên, có một điều hơi đáng tiếc rằng Anna quá… hoàn hảo. Dù trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc trước kẻ thù hay bị chính cấp trên phản bội, cô vẫn thoát chết bằng những kế hoạch được vạch ra trót lọt đến khó tin.
Tác phẩm xây dựng hình ảnh tổ chức KGB với chính sách tối thượng là phục vụ cho đất nước, nhưng có lúc lại đối xử đầy cảm tính với Anna. Còn CIA lại quá cả tin và không hề có sự cẩn trọng trong kế hoạch với nhân vật chính. Do đó, tổng thể tác phẩm thiếu đi một điểm nhấn đáng nhớ.
Phái đẹp lấn át phái mạnh
Đạo diễn Luc Besson sở hữu nhiều kinh nghiệm trong việc tạo ra các nhân vật đả nữ, mà điển hình là Lucy trong bộ phim cùng tên của Scarlett Johansson cách đây vài năm.
Thế mạnh ấy lại được phát huy ở Anna. Lần này, nhà làm phim người Pháp cộng tác với Sasha Luss - người mẫu mới chỉ có 5 năm kinh nghiệm đóng phim. Dưới sự chỉ đạo của Besson, Luss mang đến thần thái rất tốt cho Anna. Nhân vật có cảm xúc đa chiều và tâm lý phức tạp của một gián điệp hai mang.
Các cảnh chiến đấu có sự góp mặt của Anna là tâm điểm của bộ phim, nhất là phân đoạn hỗn chiến trong nhà hàng dài gần 10 phút. Trong trường đoạn, Anna phải đối đầu với hơn 10 vệ sĩ được trang bị vũ khí đến tận răng, trong khi bản thân cô hoàn toàn tay không.
Phong cách chiến đấu của Anna nhanh gọn, không hoa mỹ mà đầy thực dụng với những ngón đòn tất sát. Cô luôn tận dụng đồ vật xung quanh để làm vũ khí, và điều này giúp tăng cường tính bạo lực cho phần nhìn của tác phẩm.
Ấn tượng không kém Anna là nhân vật Olga do nữ diễn viên gạo cội Helen Mirren thủ vai. Chỉ với những câu thoại ngắn gọn, lạnh lùng có phần nhát gừng, bà đã thể hiện rõ nét sự sắc sảo, mưu mô, và có phần quỷ quyệt của một vị sếp tại KGB.
Tuy nhiên, có lẽ do quá ưu ái phái đẹp, đạo diễn Luc Besson đã “bỏ sót” các nhân vật phái mạnh. Đáng tiếc nhất là hai mật vụ hàng đầu của CIA và KGB do Cillian Murphy và Luke Evans thể hiện lại không tham gia vào bất cứ cảnh hành động nào.
Họ đơn thuần là những gã đàn ông ngu ngơ, bị cuốn theo “trò chơi đuổi bắt” mà Anna và Olga vạch ra. Ngay cả vị lãnh đạo cao cấp nhất của KGB cũng bị chính hai người phụ nữ này xỏ mũi mà không hề có sự cảnh giác nào.
Bộ phim không tạo ra được đối thủ nào ngang tài ngang sức với nữ sát thủ để tạo ra một trận so găng dài hơi như trong cuối John Wick 3. Các kẻ thù đối đầu với Anna đều bị đánh bại dễ dàng và nhanh chóng.
Nhìn chung, Anna là một tác phẩm hành động thuần túy. Khán giả tìm kiếm yếu tố giải trí mà không đặt nặng tính nội dung có thể cảm thấy hài lòng với những gì bộ phim đem lại.
-
Ra mắt vào năm 1990, bộ manga Gunnm (hay còn được biết đến với cái tên Battle Angel Alita ở bản nước ngoài), được sáng tác dưới ngòi bút của Yukito Kishiro. Trải qua 9 tập truyện trong vòng 5 năm, Gunnm đã gây được tiếng vang lớn không chỉ ở Nhật Bản mà còn ở trên thị trường quốc tế. Yukito Kishiro đã vẽ ra một thế giới giả tưởng rộng lớn đậm chất cyberpunk trong tương lai hậu tận thế, nơi những con robot đã phát triển đến một trình độ không thể tưởng tượng nổi, chúng có nhận thức, cảm xúc và sống bình đẳng cùng với con người. Là người có niềm đam mê mãnh liệt với chủ đề khoa học viễn tưởng và những con robot có trái tim, dễ hiểu khi James Cameroon đã nhanh chóng trở thành fan của loạt truyện này ngay từ lần đọc đầu tiên và luôn ấp ủ dự định chuyển thể nó lên màn ảnh rộng trong suốt 20 năm qua.
Khi bắt tay vào quá trình thực hiện, Robert Rodriguez là cái tên được James Cameroon “chọn mặt gửi vàng” để tiếp quản vị trí đạo diễn, một cái tên phần nào đã ghi được dấu ấn của mình ở Hollywood với những bộ phim kinh phí thấp như El Mariachi, Sin City, Spy Kids, From Dust Till Dawn… Kịch bản phim được chắp bút bởi chính James Cameroon và biên kịch Laeta Kalogridis, người đứng sau thành công của siêu phẩm Altered Carboon được sản xuất bởi Netflix trong năm vừa qua. Phim có sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viễn vừa đầy tiềm năng và giàu kinh nghiệm: Rosa Salazar, Christopher Waltz, Keean Johnson, Mahershala Ali, Jennifer Connelly,…
Nội dung phim là sự tổng hợp của bốn tập truyện đầu tiên trong nguyên tác. Tiến sĩ Ido, vào một lần đi ngang qua bãi phế liệu trung tâm thành phố, đã phát hiện ra cơ thể bị hư hỏng nặng của một cô bé người máy. Ông đem cô bé về, phục sinh và đặt cho cô cái tên Alita – tên người con gái đã mất của ông. Xuyên suốt bộ phim là hành trình tìm lại quá khứ đã mất của Alita, song song với đó là việc cô phải tập làm quen để thích nghi với cuộc sống mới. Qua thời gian, cô dần phát hiện ra những âm mưu đen tối trong thể giới nơi cô đang sống và khám phá ra những năng lực bí ẩn của bản thân.
Việc trung thành với nguyên tác giúp cho fan của bộ truyện gốc rất dễ tiếp cận với phim. Ngoài ra, cách kể chuyện tuyến tính, tường minh, những nhân vật được giới thiệu nhanh chóng, rõ ràng cùng với một cốt truyện đơn giản, không cao siêu phần nào giúp cho mọi đối tượng khán giả đều có thể theo dõi một cách dễ dàng. Tuy nhiên việc ôm đồm quá nhiều nội dung vào một kịch bản với thời lượng chỉ có 122 phút khiến nhịp phim diễn ra nhanh và chóng vánh, những vấn đề chính được giải quyết theo những cách thức khá khiên cưỡng, hời hợt và phim đã không thành công trong việc gửi đến người xem một thông điệp chủ đề nhất định.
Về phần xây dựng nhân vật, có thể thấy rõ đội ngũ biên kịch đã quá tập trung vào tuyến nhân vật chính diện mà lơ là đi tuyến phản diện, một tuyến nhân vật mà mình luôn cho là rất quan trọng nếu được xây dựng kĩ lưỡng, để từ đó chiến thắng của phe thiện mới có thể đạt được sự thuyết phục. Trong phim, âm mưu của phe ác được tiết lộ rất máy móc và không rõ ràng, những hành động của họ cũng tỏ ra khá thiếu thuyết phục. Rất nhiều người xem đến cuối phim mới mập mờ biết được động cơ của họ là gì. Mahershala Ali đã có một màn thể hiện tốt trong vai Vector – trùm chính của bộ phim, rất đúng với đẳng cấp của diễn viên từng đạt giải Oscars, tuy vậy diễn xuất của anh vẫn là không đủ để vớt vát được một nhân vật nhạt nhòa vốn được tạo ra để làm cầu nối đến với phần sau. Nhân vật Chiren, vợ cũ của tiến sĩ Ido và hiện là trợ thủ của Vector, do Jennifer Connelly thủ vai, chỉ được giới thiệu sơ qua và cũng không để lại một ấn tượng đặc biệt gì đến cuối phim. Cuối cùng là Grewishka được đóng bởi James Earle Haley, hmm…, đơn giản chỉ là một tên cyborg biết đập phá.
Kép chính của phim – Alita, tất nhiên là nhân vật được chăm chút nhất, câu chuyện về nữ chiến binh bị mất trí nhớ đi tìm lại quá khứ đã mất và phải đương đầu với những thế lực xấu xa hẳn đã được giới thiệu rất rõ ràng đến với khán giả ngay từ những trailer đầu tiên. Quá trình phát triển của nhân vật Alita trong phim cũng được thể hiện mạch lạc cho dù vẫn còn một vài vết gợn như yếu tố khoảng cách thời gian giữa các sự kiện gần như là không có, hay đôi lúc nhân vật chính của chúng ta tỏ ra quá bá đạo khiến một vài phân cảnh trở nên rất gượng ép… Nhân vật tiến sĩ Ido cũng là một điểm sáng của phim, với lối diễn xuất dí dỏm và tinh tế của mình, Chritopher Waltz đã đem đến một tiến sĩ Ido rất đáng mến, khi ông vừa là một nhà khoa học tận tụy hướng thiện, vừa là một thợ săn tiền thưởng đầy trách nhiệm cũng như vừa là một người cha ân cần, giàu tình thương của Alita.
Mối quan hệ tình cảm giữa Alita và Hugo (do Keeana Johnson thủ vai) cũng được ưu ái với thời lượng xuất hiện khá nhiều trong phim, tuy nhiên vì phải chia sẻ nội dung với rất nhiều mạch truyện khác nên mối tình giữa hai người tuy đã đến màn cao trào nhưng vẫn chưa được đào sâu đến độ thật chín để khán giả có thể đồng cảm với tình yêu của họ.
Và dù cho không thật sự thành công về mặt nội dung, Alita vẫn là một tác phẩm cực kì chất lượng về mặt hình ảnh. Dưới bàn tay nhào nặn của James Cameroon, Alita: Battle Angel đã hoàn thành tốt việc khắc họa nên một thế giới hậu tận thế rất sống động, giàu chi tiết và đầy tính chân thực. Một Iron City hiện lên thật rộng lớn với những tòa nhà cao chọc trời nhưng vẫn mang đậm nét tàn tích từ sự kiện The Fall. Những trận đấu Motorball luôn diễn ra với bầu không khí ganh đua khốc liệt cùng với cầu trường cháy bỏng luôn chật kín cổ động viên. Những trận chiến hoành tráng, những phân cảnh hành động được đầu tư kĩ lưỡng. Người xem như được đưa đến vùng đất của những điều lạ kì, sôi động và đầy mê hoặc mà chỉ điện ảnh mới có thể đem lại được.
Cũng không thể không nhắc đến tạo hình cực kì ấn tượng của Alita, những chi tiết máy móc cùng hoa văn họa tiết trên cơ thể người máy của cô được thiết kế rất kĩ càng và tinh tế. Mặc dù ngoại hình đã qua xử lí CGI nhưng phần hồn của Alita vẫn được thể hiện rất tốt nhờ vào công nghệ motion-capture đã bắt lại được những biểu cảm của Rosa Salazar. Đến đây chúng ta cũng cần phải dành những lời tán dương đến với diễn xuất rất xuất sắc của Rosa Salazar, màn trình diễn của cô đã đem lại cho chúng ta một Alita đúng như nguyên tác, một nữ anh hùng hiện đại, mạnh mẽ quyết đoán nhưng không mất đi chất nữ tính và sự hồn nhiên của một cô gái tuổi thiếu niên với đôi mắt to tròn quá cỡ luôn luôn hiếu kì với thế giới xung quanh.
Một dự án được ấp ủ 20 năm của đạo diễn lừng danh James Cameroon hẳn nhiên sẽ phải mang theo rất nhiều áp lực từ kì vọng của người hâm mộ điện ảnh. Theo mình, nếu bỏ qua những thiếu sót về mặt nội dung và lời thoại, vốn không phải là sở trường của James Cameroon, thì Alita: Battle Angel vẫn là một bộ phim rất đáng xem nhờ sự trung thành của nó với bộ truyện gốc và bữa tiệc kĩ xảo mang thương hiệu James Cameroon mà nó đem lại. Alita: Battle Angel chắc chắn là phim live-action hay nhất từ trước đến nay, một bộ phim dễ xem và thuần giải trí, xứng đáng là bom tấn mở màn của năm 2019.
-
Aladdin, 1 bộ phim tinh tế, đơn giản nhưng cực kì hấp dẫn và mang đậm phong cách Disney. Bộ phim được chuyển thể từ phiên bản hoạt hình ra mắt năm 1992. So với phiên bản gốc, phiên bản live action đã làm rất tốt để biến 1 câu chuyện cổ tích từ thế kỉ trước thành 1 bộ phim vừa hiện đại, vừa giữ được những đặc điểm cốt lõi của tác phẩm gốc.
Hầu hết mọi người cũng đã quen thuộc với phiên bản hoạt hình Aladdin được ra mắt vào năm 1992, đạt được rất nhiều thành công và trở thành 1 trong những biểu tượng đặc trưng của hãng Walt Disney trong suốt hơn 2 thập kỉ vừa qua. Năm nay, với sự hỗ trợ của công nghệ làm phim, Disney quyết định thực hiện bộ phim live action Aladdin, chuyển thể từ chính bộ phim hoạt hình đã gây tiếng vang lớn vào những năm 1990s. Đây là phiên bản chuyển thể live action thứ 12 của hãng Walt Disney từ những phiên bản hoạt hình gốc. Tất nhiên, khi chuyển thể thành phim live action, sẽ có những chi tiết được làm mới để phù hợp với kịch bản, bối cảnh và diễn biến câu chuyện nhưng cốt truyện chính thì vẫn sẽ được giữ nguyên. Do đó, người xem phiên bản 1992 của Aladdin vẫn có thể thấy được những nét tươi mới, trẻ trung trong bộ phim live action lần này và sẽ không cảm thấy nhàm chán trong suốt bộ phim vì những chi tiết dù cũ mà mới được tái hiện đầy sinh động và cuốn hút.
1. KỊCH BẢN
Vì đây là 1 phiên bản remake cho nên kịch bản hầu như vẫn được giữ nguyên từ bộ phim hoạt hình năm 1992. Dẫu vậy, đạo diễn Guy Ritchie vẫn có thể tái hiện được kịch bản đó theo hướng đi cực kì mới mẻ, không hề nhàm chán. Từ tạo hình của các nhân vật đến các chi tiết dẫn chuyện đều được dựa trên phiên bản 1992 nhưng được làm mới lại, sinh động hơn, hiện đại hơn, cuốn hút hơn. Do đó, kể cả những người đã xem hay chưa xem phiên bản năn 1992 vẫn có thể tận hưởng trọn vẹn từng giây phút của bộ phim. Về tổng thể thì nội dung của Aladdin khá đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với đại đa số khán giả xem phim, đặc biệt là với các bạn nhỏ tuổi. Tuy nhiên, bộ phim vẫn biết cách tận dụng sự đơn giản trong kịch bản để tạo nên những khung hình độc đáo và sáng tạo. Ngoài ra, sự tối giản trong kịch bản cũng giúp bộ phim trở nên gần gũi hơn với tất cả mọi người, từ đó giúp bộ phim tạo được mạch cảm xúc rõ ràng, sâu sắc trong từng câu thoại, cử chỉ của nhân vật cũng như trong từng khung hình của bộ phim. Đó là điểm độc đáo trong cách xây dựng kịch bản của không chỉ Aladdin mà còn của rất nhiêu bộ phim Disney khác. Đơn giản, sáng tạo, đó chính là cách Disney xây dựng kịch bản hấp dẫn, giàu cảm xúc và phù hợp với mọi lứa tuổi.
2. NHÂN VẬT/DIỄN VIÊN
1 kịch bản đơn giản không chỉ đòi hỏi ê kíp làm phim phải chú tâm xây dựng từng khung hình sao cho thật sáng tạo, hấp dẫn mà còn nhờ công rất lớn đến từ các vai diễn trong phim. Nhìn vào dàn diễn viên của Aladdin, ta có thể đó là 1 sự kết hợp giữa trẻ trung, cá tính và già dặn, kinh nghiệm. Sự trẻ trung cá tính được 2 diễn viên chính là Naomi Scott (vai công chúa Jasmine) và Mena Massoud (vai Aladdin) thể hiện rất tốt còn tài tử Will Smith (vai Thần Đèn/Genie) là nhân vật mang đậm phong cách “Scene Stealer” của bộ phim (Scene Stealer được hiểu nôm na là vai diễn phụ gây được ấn tượng mạnh với khán giả).
a. ALADDIN
Mena Massoud là nam diễn viên người Canada gốc Ai Cập, sở hữu ngoại hình lãng tử với nét tính cách tinh nghịch do đó đã lọt vào mắt xanh của hãng Walt Disney cho vai diễn Aladdin. Trải qua các vòng tuyển chọn đầy khắt khe, Mena Massoud đã chứng tỏ rằng anh là người xứng đáng nhất, phù hợp nhất để vào vai Aladdin. Và quả thật, sự lựa chọn của Walt Disney đã không làm khán giả phải thất vọng, Mena đã bộc lộ cực tốt những cá tính của Aladdin cũng như kết hợp cực kỳ ăn ý với Naomi Scott và Will Smith. Aladdin trong tác phẩm live action lần này được xây dựng có phần hiện đạihơn, hoạt bát bát hơn nhưng tâm lý cũng phức tạp hơn để phù hợp với phong cách của giới trẻ ngày nay nhưng vẫn mang trong mình những nét đặc trưng của 1 chàng trai xứ Ả Rập. Đạo diễn đã trao cơ hội để Mena thể hiện rõ nét nhất những cá tính và sự đa dạng của nhân vật Aladdin. Từ lúc Aladdin còn là 1 thanh niên lương thiện, mồ côi cha mẹ, chuyên đi trộm vặt để chia sẻ cho những người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn cho đến khi anh trở thành hoàng tử của vương quốc Agrabah, Mena đã thích nghi và xử lý rất tốt với mọi hoàn cảnh, mọi tình huống mà nhân vật Aladdin gặp phải. Tuy nhiên, Mena vẫn bộc lộ 1 vài điểm yếu ở cách thể hiện cảm xúc không dứt khoát, những cử chỉ còn chưa được tự nhiên khi phải thể hiện 1 nhân vật với nhiều cảm xúc đa chiều khác nhau xuyên suốt bộ phim.
Mena Massoud dù vẫn bộc lộ 1 vài điểm yếu khi thể hiện vai diễn Aladdin nhưng anh vẫn chứng tỏ mình là sự lựa chọn sáng giá nhất cho vai diễn này.
Dù sao thì Mena Massoud vẫn là 1 diễn viên cực kì tiềm năng và với vai diễn Aladdin này, chắc chắn Mena sẽ có được nhiều cơ hội hơn để thể hiện bản thân, khắc phục điểm yếu và phát huy những điểm mạnh của mình trong tương lai.
b. CÔNG CHÚA JASMINE
Sự lựa chọn cho vai diễn công chúa Jasmine được Disney đặt niềm tin vào Naomi Scott, 1 diễn viên người Anh và là 1 gương mặt khá quen thuộc với những fan của Disney. Trước khi đến với Aladdin, Naomi Scott từng tham gia bộ phim mang tên “Lemonade Mouth” được chiếu trên kênh Disney Channel. Ngoài ra, sự nghiệp của Naomi bắt đầu có sự thăng tiến khi cô được đảm nhiệm vai diễn Kimberley Hart/Pink Rangers trong bộ phim Power Rangers (2017). Cho dù Power Rangers thất bại tại phòng vé nhưng sự thất bại đó lại trao cho Naomi 1 cơ hội lớn khác, đó chính là vai diễn công chúa Jasmine trong bộ phim live action Aladdin. Cũng giống như Mena Massoud, Naomi Scott phải trải qua 1 cuộc tuyển chọn đầy gắt gao của Walt Disney trước khi được nhận vai diễn. 1 cơ hội mới được mở ra với Naomi và cô đã tận dụng rất tốt cơ hội này. Jasmine trong phim cực kì xinh đẹp, dịu dàng nhưng cũng bộc lộ nét tươi trẻ, mạnh mẽ của người phụ nữ ngày nay. Thông qua Jasmine, Disney muốn gửi gắm 1 thông điệp rõ ràng về hình tượng “nữ quyền” trong thế giới ngày nay. Công chúa Disney thường rất dịu dàng, dễ thương và khi gặp nguy hiểm, khó khăn, luôn có 1 chàng trai, 1 hoàng tử cực kì phong độ để giải cứu. Đó là câu chuyện ngày xửa ngày xưa. Còn ngày nảy ngày nay, chúng ta thấy được công chúa Jasmine ngoài vẻ đẹp cực kì dễ thương, cuốn hút còn là 1 con người cá tính, mạnh mẽ, khao khát thể hiện bản thân, chứng tỏ mình là con người có ích cho xã hội. Đặc biệt hơn cả, ê kíp làm phim quyết định trao cho công chúa Jasmine 1 bài hát riêng, không có trong phiên bản gốc của Aladdin, mang tên “Speechless” để nói lên được khao khát cháy bỏng của Jasmine. Và quả thật, Naomi Scott đã thể hiện rất tốt 1 trong những trường đoạn cao trào của bộ phim, phô trương giọng hát đầy nội lực và bộc lộ những biểu cảm cực kì phức tạp của 1 người phụ nữ muốn phá bỏ mọi rào cản để có thể có được tiếng nói của riêng mình. Trường đoạn này được nhiều người đánh giá là trường đoạn hay nhất, gây cảm xúc mạnh mẽ nhất của cả bộ phim. Sự kết hợp hài hòa giữa giọng hát, cách chọn góc quay phim, biểu cảm của Naomi và các yếu tố phụ trợ khác khiến lời bài hát thật sự đã làm lay động trái tim của nhiều người.
Vượt qua nhiều vòng tuyển chọn găt gao, Naomi đã tận dụng triệt để cơ hội này để có thể tạo nên cô công chúa Jasmine xinh đẹp, dễ thương nhưng cũng đầy nghị lực, mạnh mẽ.
Sau tất cả, Naomi Scott thật sự đã làm chủ được vai diễn Jasmine và khiến chúng ta phải đồng cảm trước những bất công mà nàng công chúa này phải hứng chịu cũng như đồng cảm với những khát khao, mong ước được hòa mình với xã hội, người dân vương quốc Agrabah. Sự tự tin, cá tính của Naomi đã giúp vai diễn Jasmine trở nên cực kì ấn tượng và đem lại vô vàn cảm xúc xuyên suốt bộ phim. Naomi thực sự đã hòa mình vào với nhân vật Jasmine và trở thành đại diện của hình tượng "Nữ Quyền".
c. THẦN ĐÈN/GENIE
Thần đèn/Genie luôn là 1 nhân vật đầy thú vị mỗi khi được lên phim, nhân vật được coi là biểu tượng của bộ phim Aladdin là 1 nhân vật nhìn có vẻ đơn giản nhưng lại cực kì phức tạp để có thể nhập vai. Do đó, Disney đã chủ động tìm đến tài tử Will Smith và trao cho anh vai diễn Thần Đèn/Genie, vốn đã được cố nghệ sĩ Robin William lồng tiếng 1 cách cực kì xuất sắc ở phiên bản gốc. Áp lực đè lên vai Will Smith là khá nặng nhưng với tâm huyết và sự đầu tư kĩ càng cho vai diễn, Will Smith thật sự đã tìm ra bí quyết để kết hợp phong cách hiện đại, năng động của mình với những pha tấu hài đặc trưng của Robin Williams. Will Smith đã thể hiện được kinh nghiệm dày dạn của mình khi phải thiên biến vạn hóa với vai diễn thần Đèn, cho dù ở mọi góc độ nào, Will Smith cũng đã mang đến cho khán giả những hình ảnh quen thuộc của Thần Đèn, khiến khán giả rất hài lòng với những gì anh thể hiện. Những phân cảnh mang đậm chất Thần Đèn đều được Will Smith tái hiện lại theo thiên hướng hiện đại hơn, tinh tế hơn và phong phú hơn. Thêm vào đó, ở phiên bản lần này, đạo diễn đã tạo thêm đất diễn cho nhân vật Thần Đèn để phát huy tối đa sự sáng tạo của Will Smith cho nhân vật này. Nhân vật Thần Đèn đã trở nên đa chiều hơn, cảm xúc hơn và hiện đại hơn. Không những thế, Sự hài hước, dí dỏm không kém phần tinh tế đã khiến Thần Đèn trở thành MVP của bộ phim.
d. JAFAR
Về phía vai phản diện chính của phim, có vẻ như việc 3 diễn viên của phe chính diện là Mena Massoud, Naomi Scott và Will Smith gây ấn tượng mạnh xuyên suốt bộ phim khiến nhân vật Jafar do diễn viên Marwan Kenzari đảm nhiệm có phần bị lép vế và bị động trong các cảnh quay của mình. Marwan đã thể hiện khá tròn vai 1 tể tướng hoàng gia với tham vọng chiếm lĩnh vương quốc Agrabah và làm mọi cách để được để đạt mong muốn trở thành Sultan, vua của vương quốc. Với phong thái mạnh mẽ, lạnh lùng, Marwan đã gây được xứng ảnh hưởng đáng kể lên mạch cảm xúc của phim, khiến bộ phim trở nên đa chiều hơn, sâu sắc hơn và tạo đà cho các trường đoạn cao trào của bộ phim. Tuy nhiên, sự độc ác và xảo quyệt của Jafar lại không được xây dựng bài bản do đó khiến biểu cảm của Jafar chưa được Marwan bộc lộ 1 cách chân thật nhất và vẫn còn vài chỗ còn hơi ngượng ngạo, không tự nhiên. Đây cũng là 1 điểm yếu hiếm hoi mà bộ phim Aladdin mắc phải. Có vẻ như việc ưu tiên nhiều cho 3 nhân vật chính và tối giản hóa nhân vật phản diệt là 1 nước đi có chủ ý của Walt Disney để thu hút nhiều khán giả nhỏ tuổi, các bạn thiếu nhi cũng như thanh thiếu niên đến rạp và thưởng thức 1 câu chuyện cổ tích thời hiện đại của Aladdin và Cây Đèn Thần.
e. TUYẾN NHÂN VẬT PHỤ
Dàn nhân vật phụ của Disney cũng đã được ê kíp làm phim tạo đủ đất diễn để có thể gây ấn tượng với khán giả cũng như hỗ trợ các nhân vật chính xử lý các tình huống khác nhau xuyên suốt bộ phim. Mỗi nhân vật chính đều có các trợ thủ đắc đứng đồng hành cùng với mình. Aladdin thì có chú khỉ Abu cực kì tinh nghịch, bướng bỉnh, luôn bám theo Aladdin trong mọi hoàn cảnh, tạo ra nhiều phân cảnh hài hước, dễ thương cùng với nhân vật chính. Về sau, Aladdin còn được hỗ trợ thêm bởi chiếc thảm bay ma thuật khi anh vào Hang Động Kỳ Quan để lấy chiếc Đèn Thần cho Jafar. Cặp đôi chú khỉ Abu cùng chiếc thảm bay ma thuật thật sự được đạo diễn Guy Ritchie tận dụng tối đa những phẩm chất, những đặc điểm độc đáo để tạo thành 1 cặp đôi ăn ý, ngộ nghĩnh và cực kì đáng yêu, dí dỏm. Công chúa Jasmine cũng có 1 chú hổ Rajar cực kì trung thành và đáng yêu bảo vệ. Rajar dù không có nhiều đất diễn nhưng những phân cảnh của chú hổ này cũng rất ấn tượng và thể hiện được sự trung thành, bản lĩnh của 1 người bạn, 1 người bảo hộ hết lòng với chủ nhân của mình. Ngoài ra, cô hầu của Jasmine là Dalia cũng được xây dựng 1 cốt truyện khá thú vị xen kẽn vào cốt truyện chính của bộ phim. Sự dí dỏm nhưng cực kì tinh tế của Dalia khiến cô trở thành 1 nhân tố bí ẩn đáng chú ý của bộ phim. Với nhân vật phản diện Jafar, có vẻ như sự nhạt hòa trong cá tính của nhân vật này lại khiến cho chú vệt Iago, cộng sự đắc lực của mình, trở thành nhân vật phản diện chính của bộ phim. Chú vẹt Iago đã có được sự chủ động trong mọi tình huống và bộc lộ được sự tinh vi, ranh ma trong từng phân cảnh của mình. Iago có lẽ đã chiếm hết sự nổi bật vốn lẽ phải dành cho Jafar.
Về mặt tổng quan, dàn diễn viên trong bộ phim này đều là những người đa sắc tộc, khiến cho tông màu của bộ phim trở nên đa dạng và đẹp mắt hơn, tất cả các diễn viên đều đã hoàn thành tốt vai diễn của mình và giúp cho bộ phim Aladdin trở nên độc đáo, hấp dẫn và cuốn hút khán giả trong từng khung hình của bộ phim. Đây là 1 bộ phim thuần giải trí, nhắm đến mọi đối tượng, đặc biệt là các bạn nhỏ đang trong lứa tuổi khám phá thế giới, khám phá bản thân do đó, không nên đánh giá quá khắt khe về các nhân vật của bộ phim này. Họ đã giúp phát những trí tưởng tượng phong phú, trí óc sáng tạo của các bạn nhỏ để có thể tạo nên 1 thế giới đầy sắc màu, phong phú và tràn ngập những điều kỳ bí của xứ sở Agrabah.
3. ÂM NHẠC
Âm nhạc luôn luôn là đặc điểm cốt lõi của các bộ phim Disney. Chính sự kết hợp tài tình giữa âm nhạc và điện ảnh là thứ đã giúp làm nên tên tuổi cũng như sự thành công trong các bộ phim nổi tiếng từ xưa đến nay của hãng phim này. Trong bộ phim Aladdin lần này, Disney đã cùng với các diễn viên, nhạc sĩ, nhà soạn nhạc uy tín remix lại các bài hát kinh điển của phiên bản năm 1992 của Aladdin để có thể phù hợp hơn với thời đại ngày nay. Aladdin, Jasmine và Thần Đèn đều được trao cơ hội để thể hiện giọng ca của mình. Vốn Aladdin có nội dung không liên quan gì đến âm nhạc nhưng đây vẫn là 1 tác phẩm nhạc kịch hấp dẫn, dồi dào cảm xúc. Will Smith, Naomi Scott và Messa Massoud đều thổi vào những làn gió mới cho các bài hát đã trở thành thương hiệu của bộ phim Aladdin, khiến cho tiết tấu của các bài hát mang hơi hướng hiện đại hơn nhưng vẫn giữ được những giá trị cốt lõi của các tác phẩm gốc. Arabian Nights, Friends Like Me, Prince Ali và đặc biệt là A Whole New Wolrd được phối lại và kết hợp giọng hát của các diễn viên, đều đã trở nên cuốn hút hơn, sôi động hơn, sâu lắng hơn và có thể khiến khán giả phải nhún nhảy, hòa theo giai điệu của các bài hát đó.
Tuy nhiên, nổi bật hơn cả lại chính là 1 bài hát mới, không xuất hiện trong tác phẩm gốc, mang tên “Speechless” được trao cho công chúa Jasmine. Với sự sáng tạo của cặp đôi Benj Pasek & Justin Paul, 2 người đứng sau thành công của tuyệt phẩm “City of Stars” trong bộ phim “La La Land” (bài hát đã đoạt giải Oscars), Speechless có giai điệu rất hiện đại, trẻ trung, phù hợp với giới trẻ hiện này và nghe rất cuốn tai. Ngoài ra, bài hát còn mang 1 ý nghĩa rõ ràng về hình tượng nữ quyền.Trong suốt bộ phim, khán giả cảm nhận được Jasmine phải trải qua rất nhiều đấu tranh nội tâm khi tiếng nói của cô bị những người xung quanh phớt lờ và vùi dập. Ước mơ được tự do là chính mình của Jasmine trở nên da diết hơn bao giờ hết với những cảm xúc dồn nén truyền tải qua từng câu từ trong bài hát. Bài hát nói lên được sự mạnh mẽ của người phụ nữ, dùng tiếng nói để thể hiện được sự đấu tranh, quyết tâm bảo vệ vương quốc Agrabah của công chúa Jasmine. Disney đã hiện đại quá hình tượng công chúa Disney của mình qua bộ phim này bằng âm nhạc. Với bài hát này, chúng ta được thấy ngoài sự duyên dáng, đáng yêu của 1 cô công chúa còn là sự mạnh mẽ, độc lập mang phẩm chất lãnh đạo, truyền cảm hứng và chạm đến trái tim người xem trong bối cảnh xã hội hiện đại của nhân vật Jasmine.
4. TỔNG KẾT
Nói chung, mục đích chính xuyên suốt bộ phim là cung cấp cho khán giả 1 khoảng thời gian thư giãn, giải trí với gia đình, bạn bè sau quãng thời gian làm việc, học tập căng thẳng. Bộ phim được xây dựng khá đơn giản nhưng mang đậm tính giải trí. Khán giả không cần phải suy nghĩ quá nhiều khi theo dõi bộ phim mà sẽ được thả mình vào 1 thế giới đầy sinh động và đa dạng của vương quốc Agrabah cùng với những màn tương tác đầy ngẫu hững giữa các tuyến nhân vật của bộ phim. Chính sự đơn giản đó lại là chìa khóa để bộ phim có thể khai thác tối đa những tiềm năng đáng giá của nhiều yếu tố khác nhau để tạo thành 1 tác phẩm nhạc kịch phong phú và hấp dẫn. Tóm lại, đây là 1 bộ phim dành cho khán giả đại chúng, dành cho những đứa trẻ ngày nay và dành cho tất cả mọi người đã có 1 tuổi thơ đẹp kỳ diệu với những câu chuyện cổ tích kỳ ảo. Do đó, đừng đánh giá quá khắt khe với bộ phim này. Hãy ra rạp, tận hưởng Aladdin và đắm chìm trong những khung cảnh kỳ ảo, những bài nhạfc cuốn hút và cùng hồi tưởng lại tuổi thơ đẹp đẽ cùng những câu chuyện cổ tích giàu sức tưởng tượng.