Jump to content

Điện Ảnh

Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên

1,724 files

  1. Năm 1902, quý tộc người Anh Orlando, Công tước Oxford, vợ ông Emily, và con trai nhỏ Conrad của họ đến thăm một trại tập trung ở Nam Phi trong Chiến tranh Boer khi làm việc cho Hội Chữ thập đỏ. Emily bị giết trong một cuộc tấn công của tay súng bắn tỉa Boer vào trại, khiến Orlando theo chủ nghĩa hòa bình xác định rằng thế giới cần ai đó đứng ra giải quyết những xung đột như vậy trước khi chúng xảy ra.
    Mười hai năm sau, Orlando đã tuyển dụng hai người hầu của mình, Shola và Polly, vào mạng lưới gián điệp của mình chuyên bảo vệ Vương quốc Anh và Đế quốc Anh khỏi cuộc Đại chiến đang đến gần. Conrad, dù háo hức chiến đấu nhưng vẫn bị cấm tham gia bởi cha mình. Để bảo vệ con trai, Orlando đã thuyết phục Bá tước Herbert Kitchener, Bộ trưởng Ngoại giao Chiến tranh, không cho anh gia nhập quân đội.
    Theo lệnh của Kitchener, Conrad và Orlando đi cùng bạn của Orlando là Đại vương công Áo Franz Ferdinand qua Sarajevo, sau đó Conrad đã cứu Đại vương công Áo khỏi một quả bom do Gavrilo Princip ném ra, một kẻ nổi loạn có ý định châm ngòi cho một cuộc chiến. Tuy nhiên, Princip tình cờ gặp lại đoàn tùy tùng của Đại công tước, lần này hắn thành công trong việc bắn chết Ferdinand và vợ của ông là Sophia. Nhóm của Orlando, dựa vào thông tin từ những người hầu vô hình trong xã hội của các chức sắc khác, biết được rằng Princip là một phần trong âm mưu hòng chống lại các đế quốc Đức, Nga và Anh. Một nhóm do "Shepherd" bí ẩn đứng đầu từ một trụ sở bí mật trên đỉnh núi, có mạng lưới điệp viên của riêng họ, bao gồm cả nhà thần bí người Nga Grigori Rasputin, một cố vấn đáng tin cậy của Sa hoàng Nikolai II của Đế quốc Nga.
    Rasputin, theo lệnh của Shepherd, thao túng Sa hoàng Nikolai II bằng cách đầu độc đứa con trai nhỏ của ngài, và chỉ chữa khỏi cho cậu khi Nikolai II hứa sẽ rời khỏi cuộc chiến. Conrad được thông báo về sự thao túng của Rasputin bởi anh họ là Hoàng tử Felix Yusupov. Biết rằng Mặt trận phía Tây sẽ gặp tổn thất lớn nếu Nga rời khỏi cuộc chiến, Conrad cung cấp thông tin này cho Kitchener và người phụ tá Thiếu tá Maximillian Morton, người đã lên đường đến Nga. Tàu của họ bị trúng ngư lôi bởi một tàu ngầm, dường như đã giết chết cả hai. Tin tức về cái chết của Kitchener đến với Orlando, thúc đẩy ông đến Nga cùng với Shola, Polly và Conrad để đối phó với Rasputin một lần và mãi mãi. Tại một bữa tiệc Giáng sinh do Hoàng tử Yusupov tổ chức, Orlando, Shola, Conrad và Rasputin đánh nhau, cuộc giao tranh chỉ kết thúc khi Polly bắn và giết Rasputin.
    Theo lệnh của Shepherd, Erik Jan Hanussen, cố vấn của Hoàng đế Wilhelm II, gửi Điện tín Zimmermann, hy vọng đánh lạc hướng Anh và Mỹ. Mặc dù thông điệp bị tình báo Anh chặn và đưa cho Hoa Kỳ, nhưng Tổng thống Woodrow Wilson từ chối tham chiến mà không có bằng chứng cụ thể. Shepherd tuyển dụng Vladimir Lenin và ra lệnh cho những người Bolshevik của mình lật đổ Sa hoàng và loại bỏ Nga khỏi cuộc chiến, cử một sát thủ đến giết Vương tộc Romanov.
    Giờ đã lớn tuổi, Conrad được đưa vào Đội cận vệ Grenadier trái với mong muốn của cha mình. Orlando gặp Vua George V, người đã triệu tập Conrad trở lại Anh. Conrad gửi lại một người lính trẻ là Hạ sĩ Archie Reid thay thế cho mình, đồng thời đặt cho anh ta mật danh "Lancelot" để gửi một thông điệp cho Orlando. Cải trang thành Archie, một thành viên của Black Watch, Conrad tình nguyện tham gia một nhiệm vụ vào Vùng đất Không người để lấy thông tin từ một đặc vụ Anh bị thương ở đó, nhưng bị nhầm là một điệp viên Đức khi anh ta trở về và bị xử tử. Tuy nhiên, thông tin mà anh ta lấy được từ điệp viên là bằng chứng mà Tổng thống Wilson bắt buộc phải tham chiến.
    Nhóm của Orlando biết được Tổng thống Wilson đang bị tống tiền với một đoạn phim quay cảnh anh ta bị một trong những đặc vụ của Shepherd, Mata Hari, dụ dỗ. Orlando định vị cô tại đại sứ quán Mỹ và sau khi chế ngự cô đã lấy lại được chiếc khăn cashmere của mình, được làm từ len quý hiếm chỉ có ở một vùng núi cụ thể. Xác định chính xác vị trí này là căn cứ hoạt động của Shepherd; Orlando, Shola và Polly tiến đến đó và chiến đấu theo đường vào bên trong. Morton, kẻ đã tự giả chết và đánh chìm con tàu chiến, được tiết lộ là Shepherd. Orlando và Shola chiến đấu và giết Morton trong khi Polly khôi phục lại bộ phim gốc âm bản về việc quyến rũ Wilson, cho phép lực lượng của đất nước anh ta được huy động.
    Một năm sau chiến tranh, Orlando mua Tiệm may Kingsman làm bình phong cho tổ chức của mình. Orlando, Shola, Polly, George V, Archie Reid và một Đại sứ Hoa Kỳ tạo thành tổ chức Kingsman ban đầu, mỗi người lấy một mật danh từ truyền thuyết Vua Arthur để tôn vinh Conrad. Trong một cảnh mid-credit, Hanussen được tiết lộ là đã mang danh tính Shepherd, và giới thiệu Vladimir Lenin với kẻ giết người của Romanov: Adolf Hitler trẻ tuổi.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  2. Sau hơn 10 năm kể từ Robin Hood, đạo diễn kỳ cựu Ridley Scott mới thực hiện phim điện ảnh lấy bối cảnh thời Trung Cổ. Lần này, qua đứa con tinh thần The Last Duel, dựa theo cuốn sách do Eric Jager chấp bút, ông đưa lên màn ảnh lớn sự kiện lịch sử nổi tiếng nhưng cũng gây tranh cãi bậc nhất tại Pháp: Phiên tòa đấu tay đôi (được công nhận là hợp pháp) cuối cùng giữa hai hiệp sĩ Jean de Carrouges và Jacques Le Gris.
    Tuy nhiên, vào ngày nọ, nàng Marguerite (Jodie Comer thủ vai), vợ của Carrouges, bỗng lên tiếng tố cáo Le Gris cưỡng hiếp mình. Nhờ mối quan hệ với các nhà quý tộc quyền lực, Le Gris dễ dàng khiến đơn kiện của hai vợ chồng bị tòa bác bỏ.
    Không chấp nhận kết quả này, nhằm bảo vệ thanh danh cho vợ và gia đình, Carrouges cầu xin vua Charles VI phân xử vụ việc thông qua một trận đấu tay đôi tới chết. Anh tin rằng người ngay thẳng, chính trực sẽ được Thiên Chúa ban ơn để giành chiến thắng. Đáng chú ý, nếu Carrouges thua cuộc, Marguerite phải chịu hình phạt thảm khốc là hỏa thiêu vì tội vu khống.
    Hiệu ứng Rashomon và góc nhìn đa chiều
    Năm 1950, tác phẩm Rashomon của "quái kiệt" Akira Kurosawa đã làm khuynh đảo nền điện ảnh thế giới, qua đó hình thành thuật ngữ tâm lý học nổi tiếng "hiệu ứng Rashomon".
    Hiểu đơn giản, "hiệu ứng Rashomon" chỉ ra rằng một sự kiện khi được miêu tả qua lăng kính chủ quan sẽ sai lệch đi ít nhiều so với thực tế. Bởi lẽ, con người có khuynh hướng diễn đạt vấn đề theo chiều hướng thuận lợi cho bản thân.
    Ở The Last Duel, Ridley Scott sử dụng hiệu ứng tâm lý này để giúp khán giả có cái nhìn công tâm, đa chiều hơn về mẩu giai thoại thoạt nghe như bản anh hùng ca tôn vinh tinh thần, phẩm chất hiệp sĩ. Nội dung phim được trình bày dưới dạng chương hồi, từng chương tương ứng với phần hồi tưởng của ba nhân vật chính Carrouges, Le Gris và Marguerite.
    Nhờ vậy, hình tượng mỗi nhân vật trong mắt những người xung quanh hiện lên rất thú vị. Đơn cử, Carrouges tự nhận anh là bề tôi trung thành, hiệp sĩ xem trọng danh dự và công lý. Thế nhưng, góc nhìn của Le Gris và Marguerite đã hé lộ rằng anh thực chất rất nóng nảy, ngầm ganh ghét Le Gris do đối phương được lãnh chúa trọng dụng hơn mình.
    Đặc biệt, thủ pháp dẫn dắt trên cũng bóc trần mối quan hệ thật sự giữa ba nhân vật chính. Nếu Carrouges khẳng định anh luôn hết mực yêu thương, chiều chuộng vợ, Le Gris cố chứng minh Marguerite chủ động khiêu khích, khơi gợi ham muốn nơi anh, thì Marguerite cho thấy cả hai chỉ khao khát quan hệ thể xác, kiếm con nối dõi chứ không hề yêu thương cô.
    Thông điệp ý nghĩa đề cao tinh thần nữ quyền
    Mổ xẻ câu chuyện dưới 3 lăng kính khác nhau, The Last Duel khiến người xem xúc động và khâm phục ý chí của Marguerite.
    Để tố cáo kẻ thủ ác, cô không ngại ngần đối diện với thách thức, định kiến ở xã hội lúc bấy giờ. Cô dũng cảm tường thuật chi tiết vụ cưỡng hiếp trước đám đông và hội đồng xét xử chỉ bao gồm đàn ông, cũng như trả lời câu hỏi chất vấn đầy khiếm nhã, mang nặng tính đổ lỗi từ họ.
    Tiếc rằng, nỗ lực của Marguerite không được bất cứ ai, kể cả phái nữ đương thời, ủng hộ. Cô bị mẹ chồng hắt hủi, bị bạn bè xa lánh, thậm chí vướng cảnh bị lan truyền thông tin thất thiệt. Trong khi đó, lý do duy nhất khiến Carrouges đồng ý đứng về phía vợ là anh muốn lợi dụng bê bối để hủy hoại danh tiếng kẻ mình căm ghét.
    Đỉnh điểm, Marguerite buộc đặt cược tính mạng vào cuộc đấu tay đôi mượn danh thánh thần. Phán quyết cho thấy cô ngay thẳng hay dối trá được phân định bằng trận thư hùng sống mái giữa hai người đàn ông, nơi kẻ mạnh mẽ và may mắn hơn sẽ giành chiến thắng, thay vì pháp luật nghiêm minh. Sự thật dường như chẳng còn quan trọng.
    Qua loạt diễn biến căng thẳng, kết hợp với việc khắc họa cuộc sống hôn nhân buồn tẻ, nhiều áp lực mà Marguerite phải chịu đựng, đạo diễn Ridley Scott diễn tả chân thực số phận đáng thương của biết bao phụ nữ thời Trung Cổ. Ngoài ra, ông cũng gửi gắm thông điệp ý nghĩa đề cao tinh thần nữ quyền, tố cáo vấn nạn xâm hại tình dục đang ngày càng tinh vi, phức tạp hơn bao giờ hết.
    Điểm mạnh và điểm yếu
    Bên cạnh thể loại khoa học giả tưởng vốn là sở trường, Ridley Scott còn đứng sau thành công của không ít tác phẩm thuộc thể loại lịch sử, sử thi như Gladiator hay Kingdom Of Heaven. Bước sang The Last Duel, nhà làm phim kỳ cựu 84 tuổi tiếp tục ghi điểm nhờ sự chăm chút kỹ lưỡng về mặt bối cảnh, phục trang, và đặc biệt là yếu tố hành động.
    Dẫu chiếm thời lượng khiêm tốn, các đại cảnh, trường đoạn chiến đấu xuyên suốt bộ phim đều được dàn dựng công phu. Loạt đòn đánh kết liễu kẻ thù tuy dứt khoát, bạo lực nhưng vẫn mang đến trải nghiệm thị giác ấn tượng, đậm chất điện ảnh.
    Quy tụ dàn sao Hollywood thực lực, khán giả khó có thể tìm thấy điểm gì đáng chê về mặt diễn xuất ở tác phẩm. Hóa thân thành đôi bạn "bằng mặt không bằng lòng", Matt Damon và Adam Driver lột tả trọn vẹn sự đối lập thú vị giữa hai gã hiệp sĩ: Một Carrouges mang dòng máu quý tộc nhưng cục cằn, thô lỗ, trái ngược với Le Gris lịch lãm, điển trai, có học thức dù xuất thân từ tầng lớp bần hàn.
    Dù vậy, bất chấp ấn tượng ban đầu, lối dẫn dắt tưởng chừng độc đáo của The Last Duel sớm bộc lộ hạn chế vào nửa cuối phim. Thủ pháp sử dụng hiệu ứng Rashomon nhằm phơi bày góc khuất bất ngờ đã trở nên quá quen thuộc với cộng đồng fan điện ảnh. Do vậy, người hâm mộ phim ảnh không mất nhiều thời gian để đoán ra ý đồ tác phẩm ngay từ chương hai (khoảng 60 phút đầu).
    Còn trong mắt khán giả trẻ, lối tường thuật lặp đi lặp lại một câu chuyện duy nhất khả năng cao đem tới cảm giác nhàm chán. Hơn nữa, tiết tấu chậm rãi, ít cao trào, cộng thêm bầu không khí chính kịch nặng nề càng khiến họ mất kiên nhẫn, chỉ nóng lòng muốn biết kết cục trận đấu một cách nhanh chóng.
    Nhìn chung, The Last Duel là tác phẩm điện ảnh chỉn chu, với kịch bản có lối sắp xếp rõ ràng cùng dàn diễn viên thực lực đồng đều. Tuy nhiên, nếu so với loạt tác phẩm mà Ridley Scott từng cầm trịch trước đây, đứa con tinh thần lần này của ông lại thiếu đi sự mới mẻ, đột phá trong cách kể chuyện, thông điệp và tính biểu tượng.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  3. Được chuyển thể từ tiểu thuyết tự truyện cùng tên của văn sĩ Marguerite Duras, “L’Amant” là một trong những bộ phim về tình dục táo bạo nhất của điện ảnh thế giới.
    Đông Dương năm 1929, trên một chuyến phà qua sông Mekong, một cô gái Pháp tựa người vào lan can, chân trái hơi nhấc lên để gió thổi tung bay vạt váy. Nàng đội một chiếc mũ rộng vành của đàn ông, chân đi một đôi giày đính cườm sờn rách, môi đỏ rực không đều vì lén dùng son của mẹ. Nhìn y phục có thể đoán ngay được rằng nàng không giàu, thậm chí còn lâm vào cảnh bần hàn. Những đường cong trên cơ thể tố cáo rằng nàng còn rất trẻ, chỉ cố làm ra vẻ người lớn. Thực tế nàng mới 15 tuổi rưỡi, đang trên đường trở lại trường sau kỳ nghỉ lễ dài ngày.
    Nàng không đẹp rực rỡ nhưng có một khuôn mặt bầu bĩnh, ưa nhìn. Làn da trắng muốt lấp ló sau lớp váy mỏng manh gợi những liên tưởng êm dịu. Cách vắt tay hờ hững trên lan can, ánh mắt mơ màng và điệu bộ uể oải của nàng trông lạ lẫm giữa bối cảnh chuyến phà đông đúc đầy nghịt người da vàng lam lũ.
    Cùng lúc ấy, trong một chiếc xe limousine màu đen bóng lộn, một gã Hoa kiều lặng lẽ chiêm ngưỡng và thán phục nàng. Hai người nhanh chóng lao vào nhau, cuồng nhiệt, khờ dại như cách thiêu thân lao vào lửa. Họ buông mình vào những cuộc truy hoan bất tận, không cần tương lai, không cần quá khứ.
    Chính nàng, một thiếu nữ mới lớn, là người dẫn dắt cuộc chơi. Nàng dâng hiến trinh tiết của mình bằng một thái độ cương quyết mà bình thản. Cô gái ấy có vẻ phóng túng và nổi loạn nhưng những người tinh ý có thể chỉ ra: đằng sau một kẻ bất cần thường là một lòng kiêu hãnh bị tổn thương.
    Cha nàng mất sớm, mẹ nàng phải vật lộn để nuôi sống ba đứa con. Sau một vụ đầu tư thất bại, nhà nàng lâm vào cảnh khánh kiệt. Mẹ nàng gần như phát điên. Những người da trắng coi gia đình nàng là một điều sỉ nhục, luôn tìm cách lánh xa. Những người da vàng sợ hãi người có dòng giống từ Pháp cũng không dám lại gần. “Chân không tới đất, cật chẳng tới giời”, gia đình nàng bị cô lập, hầu như chẳng giao tiếp với ai. Nàng đã sống cô đơn như vậy, trải qua tuổi dậy thì với lòng căm ghét dành cho người anh trai bạo lực và sự thương hại dành cho người mẹ khốn khổ. Những ẩn ức bị đè nén bên trong, ẩn sau vẻ ngoài bình lặng.
    Cô gái ấy luôn rách rưới, luôn kiêu hãnh, vừa ngây thơ, vừa già cỗi. Lúc nào cũng thảm hại, lúc nào cũng buồn bã, lúc nào cũng đáng yêu. Nàng tìm đến tình dục như một sự nổi loạn, như một biểu hiện của sự chống đối. Vừa mới bước vào tuổi dậy thì, ở nàng hừng hực những ham muốn ái ân. Cô gái ấy, cũng giống như Lolita, có sự trưởng thành rất sớm về mặt tính dục.
    Nghèo khổ, rách rưới, như một lẽ tự nhiên, nàng bị thu hút bởi vẻ giàu có của người đàn ông: chiếc limousine đen sang trọng, bộ vest trắng bảnh bao, chiếc nhẫn kim cương to chễm chệ trên ngón áp út. Là một kẻ lãng mạn bẩm sinh, yêu văn học và luôn muốn trở thành một nhà văn, nàng thích những chuyện phiêu lưu. Một người đàn ông trưởng thành, một ngôi nhà bí mật, những chuyện ái ân vụng trộm… tất cả đều kích thích trí tưởng tượng của cô gái mới lớn.
    Lý do gì, động cơ nào khiến một cô gái trong trắng, vừa bước vào tuổi cập kê có thể dễ dàng trao thân cho một người xa lạ như thế? Khán giả có thể đoán nhưng không thực sự biết. Chính cô gái cũng chưa chắc đã biết. Chỉ biết rằng chiều chiều, nàng lại tìm đến ngôi nhà ở Chợ Lớn để nhấn chìm mình và người tình trong “vương quốc nhục cảm” của hai người.
    Đây là vai diễn đầu tiên của nữ diễn viên Jane March khi cô vừa tròn 18 tuổi. Với chất giọng mượt nhẹ, gợi cảm, Jane hút hồn người đàn ông gốc Hoa và bỏ bùa mê với khán giả.
    Nếu tâm lý của cô gái rất phức tạp và khó phân tích thì có thể gọi tên ngay tình cảm của người đàn ông gốc Hoa là “tình yêu”. Giàu có, sướng từ trong trứng, chàng chẳng biết làm gì ngoài chuyện làm tình. Chàng sống phụ thuộc vào gia đình, tự ý thức được rằng phải ngoan ngoãn nghe lời cha. Nếu không có tiền của ông, chàng chẳng là gì. Dẫu vậy, chàng đã yêu cô gái người Pháp bằng một tình yêu mãnh liệt và dịu dàng, dai dẳng và nhẫn nại. Một kẻ nổi loạn và một người cam chịu đã yêu nhau bằng một tình yêu vừa uể oải, chán chường, vừa nồng nàn, khắc khoải.
    Khoảng 1/5 thời lượng của phim là cảnh ân ái giữa hai người. Trong căn phòng tối, dọc ngang những ánh sáng loang lổ từ ngoài hắt vào là hai thân thể trần trụi ôm siết lấy nhau trong cơn hoan lạc. Mùi ẩm mốc, vẻ tĩnh mịch, những giọt mồ hôi rịn trên da thịt trong một ngày oi ả của Sài Gòn có một cái gì đó “như nhục cảm… một cái gì chín nẫu” mời gọi. Ngoài kia, ngăn cách với cánh cửa, là tiếng ồn ào, huyên náo của cuộc sống mưu sinh. Sự trái ngược ấy làm việc hưởng thụ trái cấm như có cái gì đó thách thức và khiêu khích hơn.
    Đạo diễn và quay phim đã khéo léo quay cận cảnh những đường cong trên cơ thể như để tôn vinh sự hòa nhịp giữa xác thịt. Cảnh ân ái trong phim nóng bỏng, táo bạo nhưng không hề phản cảm. L’Amant có những cảnh đẹp làm khán giả phải nín thở và nuốt khan. Đó là cảnh chàng nghịch những ngón tay của nàng ở đầu phim hay cảnh nàng hôn hờ lên cửa kính. Ngôn ngữ cơ thể của cả Jane March và Lương Gia Huy thật tuyệt vời. Họ như những thỏi nam châm hút nhau mãnh liệt.
    L’Amant là bộ phim nước ngoài đầu tiên và cho đến nay vẫn là bộ phim có kinh phí lớn nhất từng được thực hiện tại Việt Nam. Đạo diễn Annaud đã định chọn một nơi khác như Malaysia, Thái Lan, Philippines - những nơi có điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn để quay phim. Nhưng cuối cùng, ông vẫn phải quay lại nơi đây vì cảm thấy phải là Sài Gòn, phải là Việt Nam mới diễn tả được cái không khí thuộc địa mà Marguerite Duras miêu tả trong tác phẩm.
    L’Amant đã đưa đến cho khán giả một Sài Gòn sũng nước, nóng hầm hập 35 độ, trời không một chút gió. Đó là khu Chợ Lớn dơ dáy bẩn thỉu, ngập trong mùi “hủ tíu, thịt heo quay, mùi hoa nhài, bụi rậm và mùi than củi…”. Tiếng ruồi muỗi vo ve trong những hôm trời nồm. Những cơn mưa trắng trời trắng đất đặc trưng của miền Nam. Tất cả đem lại một hình ảnh về Đông Dương của những năm 1920 lộn xộn nhưng gợi cảm.
    L’Amant mơn trớn người xem bằng cảm giác dễ chịu của một bàn tay mềm mại vuốt dọc sống lưng. Bộ phim đã thành công trong việc tạo không khí, nhịp điệu, cảm giác, hình ảnh… Tất cả đều đẫm chất thơ. Nhưng bản thân câu chuyện tình giữa thiếu nữ người Pháp và chàng trai gốc Hoa có một cái gì đó ủy mị và không đáng tin.
    Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết tự thuật của Marguerite Duras, được kể theo điểm nhìn của cô gái. Câu chuyện ấy giống như tưởng tượng của một người đàn bà muốn tin rằng tình yêu đã tồn tại hơn là câu chuyện đã thực sự diễn ra. Những ngày tháng tuổi trẻ đắm mình trong hoan lạc ấy phải có một ý nghĩa gì chứ? Sau những say đắm xác thịt, người đàn bà buộc phải tin rằng có một cái gì đó cao hơn, tồn tại giữa hai người. Đó là lòng kiêu hãnh mơ mộng của phụ nữ. Họ vin vào những điều như thế để sống.  
    L’Amant là một hồi ức đẹp về tình yêu đã mất. Thông qua cái nhìn hồi tưởng, những nét xấu xí bị tước bỏ đi, chỉ còn những dịu ngọt ở lại. Bộ phim có thể khiến cho những người thực tế nhăn mày, nhưng lại dễ chịu, duyên dáng vô song đối với những người yêu sự gợi cảm và lãng mạn.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  4. Sau sự kiện ngày 11-9 gây chấn động, cuộc chíến tranh Iraq kéo dài 8 năm và sự lên ngôi của chủ nghĩa khủng bố đã trở thành đề tài bất tận cho môn Nghệ thuật thứ 7. Tính chất ác liệt của nó và vô số những câu chuyện về các tấm gương anh hùng đã góp phần tạo nên 1 dòng phim chiến tranh kiểu mới song song với dòng phim thế chiến vốn có quá nhiều tác phẩm kinh điển.
    The Hurt Locker có thể coi là 1 đại diện ưu tú cho dòng phim ấy với cách thể hiện chân thực và sâu sắc.
    Năm 2009, The Hurt Locker gây tiếng vang lớn khi giành chiến thắng 6/9 hạng mục được đề cử Oscar lần thứ 82, trong đó có hạng mục phim hay nhất và đưa Kathryn Bigelow – cựu phu nhân của đạo diễn huyền thoại James Cameron – trở thành nữ đạo diễn đầu tiên trong lịch sử giành tượng vàng Oscar.
    2game-26-11-tonghop3-32.jpg (800×1069)Kathryn Bigelow trở thành nữ đạo diễn đầu tiên trong lịch sử giành giải Oscar.
    William James được điều về làm đội trưởng đội gỡ mìn, đại đội Bravo thuộc lực lượng Xếp gỡ chất nổ quân dụng (IOD) thay thế Matt Thompson vừa tử nạn trọng 1 nhiệm vụ trước đó. Cùng với JT Sanborn và Owen Eldridge, công việc hàng ngày của họ là nhận thông báo về các địa điểm nơi các viên đạn chưa nổ, các khối thuốc nổ tự chế của quân khủng bố hay những quả mìn trên khắp các đường phố Iraq để vô hiệu hoá chúng.
    Nội dung chủ đạo của phim là miêu tả những khó khăn, nguy hiểm của những người lính làm công việc thoả hiệp với tử thần,đào sâu vào tâm lý của họ, những con người xa nhà, xa quê hương nhưng không biết liệu có được ngày về.
    CHÂN THẬT – đó là những gì ngắn gọn nhất để nói về The Hurt Locker. Khi xem phim khán giả như được sống với những giây phút hồi hộp đến nghẹt thở khi Will và đồng đội của mình xử lý những quả bom nguy hiểm. Có những lúc tưởng chừng đã có thể thờ phào nhẹ nhõm thì phát hiện lại có 1 sợi dây dẫn nối đến những quả bom khác, hoặc có lúc đội của họ gặp phải 1 chiếc ô tô chứa đầy những quả đạn còn nguyên vẹn…. Những tình huống, chi tiết ấy được làm rất khéo léo và tự nhiên khiến người xem đi từ hồi hộp này đến hồi hộp khác.
    The Hurt Locker có kịch bản với diễn biến xoay quanh tâm lý của các nhân vật chính. Bắt đầu từ lúc Will đến khi Sanborn và Owen chưa thực sự quên đi được người đồng đội cũ; với tính cách ngang tàn và vẻ bề ngoài bất cần, Will tỏ ra là kẻ khó ưa vô cùng đến mức có lúc Sanborn thoáng nảy ra ý định kích nổ 1 quả mìn để thổi bay kẻ đáng ghét kia thành nhiều mảnh. Rồi qua khó khăn tình cảm của những người lính nảy sinh và họ xích lại gần nhau hơn.
    Xét tổng thể thì nội dung phim khá đơn giản, không chứa đựng nhiều tầng lớp ý nghĩa nhưng cũng không thiếu đi sự sâu sắc. Chúng ta dễ dàng thấy được nhiều thông điệp mà đạo diễn Kathryn Bigelow gửi gắm qua các tình tiết phim, như hình ảnh cậu bé Beckham bán đĩa DVD gần doanh trại, hồn nhiên với ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Rồi sau đó, Will và các đồng đội phát hiện ra cậu bé bị sát hại với cơ thể bị phanh ra và nhồi 1 khối thuốc nổ vào trong đó. Will đã rất ảm ảnh, cái chết ấy khiến anh như rơi vào khủng hoảng và trong phút chốc thiếu đi sự tỉnh táo. Nhưng rồi 1 sớm mai thức dậy, Will lại thấy dường như vẫn cậu bé ấy ôm trái bóng và xoè đống DVD chào bán. Thái độ của anh lúc này lại chẳng hề bận tâm nữa. “Có gì khác nhau giữa những đứa trẻ tại Iraq thời điểm ấy, số phận của chúng sẽ chẳng khác gì nhau. Trong chiến tranh, không ai đặc biệt cả…”.
    Hay hình ảnh bước chân của Will khi quay trở lại chiến trường trên con đường dài vô định. Một đứa con trai kháu khỉnh, một người vợ xinh đẹp và mái ấm gia đình không khiến tâm trí anh ngừng thôi thúc anh quay về với mảnh đất Trung Đông sặc mùi màu và thuốc súng.
    “Chiến tranh là một cơn nghiện”
    Về phong cách quay phim, đạo diễn cho sử dụng những máy quay cầm tay là chủ yếu trong phần lớn thời lượng phim tạo cảm giác như 1 bộ phim tài liệu chiến tranh. Các góc máy rung lắc, các cú lia cận cảnh vào các nhân vật khiến chúng ta hồi hộp theo từng hành động của họ. Những khán giả yêu phong cách quay phim đậm chất nghệ thuật hay các góc máy theo tiêu chuẩn “vàng” kiểu The Girl with the Dragon Tatoo có thể sẽ đôi phần hụt hẫng khi thưởng thức phim. Nhưng ngẫm lại, trong bom đạn chiến tranh thì làm gì có vẻ đẹp hoàn mỹ.
    Dàn diễn viên trong phim đã thể hiện tốt hình ảnh của những người lính trên chiến trường. Từng hành động, cử chỉ, tác phong của họ được biểu đạt hết sức thuần thục tạo cho người xem cảm giác đang được quan sát những người lính thực sự chứ không phải các diễn viên. Diễn suất tốt nhất có lẽ thuộc về Jeremy Renner, đây được xem là vai diễn “chào hàng” của anh với Hollywood và từ đó đến nay chúng ta có 1 nam diễn viên phim hành động hạng A chuyên trị những phim bom tấn. Jeremy Renner đã thể hiện một Will cá tính, bất cần với cái đầu lạnh nhưng sở hữu một trái tim nồng nhiệt và dễ giao động. Người viết đảm bảo rằng các bạn sẽ được thấy 1 trong những người lính ngầu nhất trên phim ảnh mà mình từng xem. Các vai diễn khác của Anthony Mackie và Brian Geraghty cũng được thể hiện khá tốt. Ngoài ra phim cũng khá chịu chơi khi mời diễn viên từng 2 lần được đề của Oscar Ralph Fiennes đóng 1 vai phụ trong chưa đầy 5 phút phim.
    The Hurt Locker không phải 1 bộ phim hoàn hảo kể cả với những giải thưởng mà nó giành được. Thật vậy! Phim có cách kể chuyện tương đối hời hợt và thiếu điểm nhấn cần thiết. Một ít về nghiệp vụ xử lý bom mìn, một ít về tình đồng đội, một ít về nội tâm nhân vật. Thậm chí cả những tình tiết trung tâm về việc vô hiệu hoá bom mìn cũng được miêu tả khá đơn giản, chưa cho thấy được sự phức tạp của công việc này.Việc đưa vào phim nhân vật bác sỹ tâm lý chữa trị cho Owen nhìn sơ qua có thể là một tình tiết đắt giá để khiến cho phim có chiều sâu hơn nhưng do thể hiện chưa tới nên lại trở thành khá dư thừa.
    Với kinh phí chỉ vỏn vẹn $11 triệu và nội dung về chiến tranh hiện đại, mặt nghe nhìn cũng là 1 thành công khác của The Hurt Locker khi phim rất biết chắt chiu những trường đoạn cháy nổ để khiến nó trở nên chân thực nhất có thể. Đạo cụ làm phim cũng được đầu tư tốt mang tính thực tế cao, nhất là những trái bom, những khối thuốc nổ luôn khiến ta có cảm giác rợn người khi nhân vật chính sờ vào nó. Âm thanh của phim rất xuất sắc; tiếng nổ, tiếng súng, âm thanh hỗn loạn trên chiến trường, tiếng sột soạt, mò mẫn khi xử lý bom mìn đã được mô tả giống thật hết sức có thể.
    Tóm lại, tuy còn nhiều tranh cãi về nội dung trên phương diện 1 bộ phim độc lập với kinh phí eo hẹp, chiến thắng của The Hurt Locker tại Oscar lần thứ 82 là 1 chiến thắng toàn diện theo nhiều mặt. Bộ phim vinh danh những người hùng thầm lặng trên chiến trường và góp phần thay đổi tư duy của giải thưởng danh giá này khi không nhất thiết 1 bộ phim được đỡ đầu bằng 1 hãng phim khổng lồ với chiến dịch PR rầm rộ mới trở thành đối thủ đáng gờm. Dí dỏm hơn, đạo diễn Bigelow đã có 1 chiến thắng knock out trước người chồng cũ James Cameron ngay tại hạng mục chỉ đạo.
    Kết bài đánh giá, có lẽ xin phép diễn giải 1 cách chủ quan của tình huống Will bất lực trong việc giải cứu người đàn ông Iraq mang chiếc áo bom trên người. Phải chăng đó chính là hình ảnh của nước Mĩ đang sa lầy trong cuộc chiến do họ tạo ra, Iraq với Mỹ đã chẳng thể cứu vãn thêm được nữa (Tất nhiên là tại thời điểm phim được chiếu, năm 2011 Mĩ đã rút đơn vị lính chính quy cuối cùng ra khỏi Iraq)
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  5. Bộ phim của Tom Hanks và Michael Clarke Duncan đặt ra câu hỏi liệu có tồn tại một tình bạn vượt qua mọi khoảng cách về sắc tộc trong một xã hội tàn ác dưới sự thống trị của người da trắng?
    Năm 1994, đạo diễn Frank Darabont có màn ra mắt ấn tượng với khán giả và các nhà phê bình bằng bộ phim đầu tay xuất chúng về bi kịch và lòng quả cảm của con người - The Shawshank Redemption. Bốn năm sau, Darabont tái xuất với một tác phẩm điện ảnh cũng được chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn nổi tiếng Stephen King: The Green Mile (Dặm xanh).
    Thú vị hơn, The Green Mile cũng được lấy bối cảnh nơi ngục tù (green mile - "dặm xanh" là tiếng lóng dùng để chỉ quãng đường từ buồng giam của tử tù đến phòng thi hành án). Frank Darabont là người viết kịch bản cho phim này và ông tỏ ra khá trung thành với nguyên tác của Stephen King. Sự hấp dẫn của bộ phim nằm ở hai nhân vật chính đặc biệt được thể hiện qua diễn xuất thành công của Tom Hanks và Michael Clarke Duncan.
    Nếu như các câu chuyện của Stephen King có điểm chung thì đó hẳn sẽ là chủ đề "sự trả thù ngọt ngào". Dường như những tác phẩm của ông luôn xoay quanh một típ nhân vật quen thuộc: những người hiền lành, tốt bụng, cô đơn, bị hoàn cảnh xô đẩy và biến thành hung ác, trong thâm tâm luôn chất chứa thù hằn và chỉ chờ đến một giây phút đỉnh điểm, cao trào để đòi nợ cuộc đời.
    Trong hầu hết tác phẩm đã được dựng thành phim của King, người ta luôn thấy bóng dáng hình mẫu nhân vật độc đáo này. Họ đều bị hành hạ, ngược đãi một cách không thương tiếc. Nhưng điều đặc biệt hơn cả là họ luôn sở hữu một quyền năng siêu nhiên nào đó. Có thể là khả năng di chuyển đồ vật mà không cần chạm vào nó hay khả năng tạo ra lửa bằng ý nghĩ.
    Trong phim, yếu tố siêu năng lực của nhân vật John Coffey chính là điểm mấu chốt quan trọng nhất để dẫn dắt, kết nối câu chuyện. Khả năng đặc biệt này không hề mang màu sắc kinh dị, đáng sợ vốn quen thuộc trong các tác phẩm của King. Trái lại, hình ảnh tử tù da màu John Coffey hiện lên nhẹ nhàng, huyền ảo như một đấng cứu thế. Theo ông, quyền lực siêu nhiên là một phần không thể thiếu trong thể loại văn học viễn tưởng, ly kỳ hồi hộp nhưng không nhất thiết phải gắn liền với cái ác hay sự đáng sợ như nhiều người vẫn lầm tưởng. Để chứng minh cho triết lý này, King nhào nặn nên một nhân vật mà việc sở hữu năng lực siêu phàm đồng nghĩa với cái tốt và sự tuyệt vọng, vì cái tốt đó bị đặt vào một xã hội quá xấu xa.
    Vai diễn John Coffey có thể coi là vai diễn "để đời" của Michael Clarke Duncan, người mà trước đó với ngoại hình quá khổ của mình chỉ được biết đến qua những vai phụ rất nhỏ, không để lại nhiều ấn tượng như người gác cổng hay vệ sĩ. John là một người chậm phát triển, ít nói, nhút nhát, chân thành, dễ xúc động. Ở nhân vật này luôn tỏa ra một thứ ánh sáng đặc biệt, giúp John trông giống như một vị thánh. Đó chắc chắn là một điều mà những nhân vật khác trong phim không thể ngờ tới khi vừa nhìn thấy dáng dấp to lớn khổng lồ như người nguyên thuỷ và thân hình chi chít sẹo của người tử tù da đen.
    Trong bối cảnh xã hội miền nam nước Mỹ đầy loạn lạc, bi quan và tiêu điều trong cuộc Đại Khủng Hoảng những năm 1930, John bị kết án tử hình vì tội hiếp dâm và giết hại dã man hai bé gái da trắng. Nhờ tính cách và năng lực đặc biệt của mình, John dần xây dựng được tình bạn với Paul (Tom Hanks đóng) - người quản giáo da trắng, và cuối cùng được minh oan (dẫu cho không thể thoát khỏi án tử).
    Paul là một người nghiêm túc, kỷ luật, làm việc theo nguyên tắc, nhưng đồng thời rất ôn tồn, nhân ái, không bao giờ lạm dụng quyền lực để ngược đãi tù nhân. Đặc biệt là đối với John, Paul luôn tỏ ra ân cần, tử tế và đầy cảm thông. Paul nhìn thấy bản chất tốt đẹp của John, thấy sự ngây thơ trong sáng như một đứa trẻ của người tù nhân đang chờ ngày thi hành án. Với vai diễn người quản giáo Paul Edgecomb, Tom Hanks diễn tròn vai một típ nhân vật vốn không xa lạ gì với tài tử này. Tom Hanks thường được biết đến trên màn bạc với hình ảnh một người Mỹ điển hình, bình dị, hiền hoà, sống có đạo đức, chuẩn mực đúng đắn, tốt bụng và có đức tin ở Chúa Trời.
    Thế nhưng tình bạn của Paul và John không hoàn toàn trong sáng, thuần túy và cao đẹp như vẻ bề ngoài của nó. Sự khác biệt về màu da trong một xã hội còn rất phân biệt chủng tộc đã làm phức tạp hoá và phần nào vẩn đục tình bạn tưởng như trong sáng ấy. Lỗi không hẳn thuộc về đôi bạn John và Paul, nhưng có một sự thật không thể chối bỏ luôn tồn tại trong mối quan hệ của họ là sự bất bình đẳng.
    John luôn là người "cho đi" và Paul luôn là người được nhận. John chữa bệnh cho Paul và bà vợ sếp Hal. Cũng chính John là người gián tiếp giết chết Bill "điên" và khiến Percy hoá điên – hai kẻ vốn là cái gai trong mắt Paul ở nhà tù. Đổi lại, John nhận được gì từ Paul? Không gì cả, ngoại trừ sự cảm thông. Paul không thể cứu John thoát khỏi án tử hình - điều làm anh đau đớn và dằn vặt trong suốt quãng đời còn lại của mình. Chính như thế, Paul đã vô tình lợi dụng người bạn của mình, như một ông chủ da trắng (trường hợp này là vô thức) bóc lột người đầy tớ da đen.
    John chọn cho mình cái chết, vì đã mệt mỏi với cuộc đời đầy rẫy cái ác, hay vì sự nhẫn nhục chịu đựng, cam phận trước sự bất bình đẳng chủng tộc?
    Hình tượng nhân vật người da đen tốt bụng, thật thà, chấp nhận thân phận thấp hèn trong xã hội và coi đó là lẽ đương nhiên rất điển hình trong phim Hollywood những năm đầu thế kỷ 20. Khi mà những tiến bộ xã hội về quyền bình đẳng bắt đầu diễn ra nhưng chưa triệt để, sự quan tâm của người da trắng đối với người da đen (được thể hiện trong các bộ phim) vẫn chủ yếu chỉ dừng lại ở mức tò mò, có hứng thú, và có lòng thương xót.
    Khoảng cách giữa người da đen và người da trắng rất xa, khi người da đen vẫn còn bị kỳ thị vì sự khác biệt màu da, ngoại hình. The Green Mile, bộ phim lấy bối cảnh những năm 1930, khắc họa chính xác hình tượng người da đen như trong các bộ phim ra đời vào thời kỳ này: màu da, ngoại hình của họ làm cho họ trở nên thú tính, hoang dại, nguyên thuỷ, vừa hấp dẫn, vừa đáng sợ.
    Cái cách mà John chữa bệnh cho mọi người là minh chứng rõ ràng nhất cho nét tâm lý mấu chốt này. Khi phải thi hành án, Paul làm việc với chân lý nhanh chóng và gọn nhẹ để không kéo dài đau đớn cho tù nhân. Nhưng khi John thực hiện năng lực siêu nhiên của mình để chữa lành bệnh bằng cách tiếp cận thể xác rất gần gũi, hành động này rất mạnh mẽ, dữ dội, gây căng thẳng cho người xem vì nó giống như một hình thức bạo lực tình dục. Trong tất cả những bộ phim về thời kỳ này, cơn ác mộng khủng khiếp nhất của bất cứ kẻ phân biệt chủng tộc nào chính là nỗi sợ bị xâm hại tình dục bởi người da đen.
    Chính nhân vật luật sư bào chữa cho John cũng là một kẻ da trắng phân biệt chủng tộc như thế. Hắn so sánh người da đen như những con chó mà khi nó ngoan, trung thành thì được người chủ yêu quý. Còn khi con chó trở nên hung dữ, người chủ không hề ngại giết chết nó. Paul không đồng tình với quan điểm này, nhưng lại không làm gì để cứu John, để rồi phải sống trong hổ thẹn và đau đớn. Chỉ có nỗi đau khôn cùng là điểm chung giữa họ.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  6. "Dương cầm" là một bản hòa âm hoàn hảo của tình yêu, chứa đựng sự hấp dẫn mãnh liệt và những dư vị bâng khuâng để lại cho người xem. (Jic)
    Lấy mốc thời gian vào giữa thế kỷ 19, phim xoay quanh Ada (Holly Hunter thủ vai) - một người đàn bà góa chồng và bị câm - chuyển đến New Zealand để bắt đầu cuộc hôn nhân sắp đặt với một địa chủ trong vùng. Ada mang theo cô gái nhỏ Flora (Anna Paquin thủ vai) cùng cây đàn dương cầm mà cô vô cùng yêu quý. Hành trình đến ngôi làng của người chồng mới rất vất vả nên cuối cùng, người chồng đã quyết định bỏ lại chiếc đàn của cô mà cô hết sức trân trọng bên bờ biển. Đau khổ và tuyệt vọng, cùng nỗi cô đơn nơi đất khách, không ít lần Ada muốn tìm cách ra bãi biển để mang cây đàn về.
    Tình cờ cô gặp được Baines (Harvey Keitel thủ vai), một người đàn ông nghèo cùng làng. Baines thấy được nỗi khát khao và sự cô đơn trong Ada. Anh đã tìm cách mang cây đàn dương cầm về nhà mình và tìm cách tiếp cận cô. Một tình cảm mới bắt đầu nảy sinh giữa Ada và Baines. Chồng của Ada biết được và ông vạch ra một kế hoạch để hành hạ Ada, cách ly cô khỏi tình yêu với Baines và cây đàn dương cầm. Nhưng cuối cùng, Baines cũng vượt qua mọi trở ngại để đưa hai mẹ con Ada trở về đất liền...
    Xem The Piano, người xem bị ấn tượng và thu hút mạnh bởi tính cách của nhân vật chính. Cả cuộc đời cô tính đến lúc đó luôn gắn liền với hai chữ: Tình yêu.
    Đầu tiên, đó là tình yêu giữa Ada và cây dương cầm. Ada bị câm, vì thế tiếng nói của cô được thoát ra qua những nốt nhạc, những giai điệu và cây dương cầm chính là phương tiện để cô giao tiếp với thế với bên ngoài, để gửi vào đấy những cảm xúc, những suy nghĩ. Trong chuyến đi ấy, hai mẹ con Ada đã cố gắng mang theo cây đàn piano yêu quý nhưng đến vùng đất của người chồng mới thì anh ta đã bỏ lại cây đàn ngay ở bờ biển. Ngay sau đó, hai mẹ con đã quyết định ngủ lại bên bờ biển bên cạnh cây đàn, nhưng sáng hôm sau, họ vẫn phải trở về nhà mà không có nó.
    Hình ảnh Ada đứng trên núi nhìn xuống, cây đàn piano chỉ là một chấm nhỏ xíu ở xa, đã lột tả phần nào tình yêu của cô đối với cây đàn. Ada hằng ngày đứng bên cửa sổ, tưởng tượng về hình ảnh cây đàn yêu quý của mình. Khi người chồng thông báo rằng anh ta sẽ đem cây đàn đổi lấy mảnh đất, Ada đã phẫn uất, cô không thể nói được nên mọi trạng thái cảm xúc cô đều bộc lộ ra hành động: cô giật quần áo, khăn vải trên dây xuống, cô đập bàn, cô ghi một một giấy “it’s mine, just mine” và gạch chân chữ “mine” như để nhấn mạnh quả quyết và triệt để sự sở hữu và tình yêu của cô với cây đàn. Sau đó, cô và con gái Flora đã đi tìm Baines để nhờ anh giúp và ngồi lỳ ở ngoài nhà cho đến khi anh ta đồng ý đưa hai mẹ con ra bãi biển để nhìn ngắm cây đàn.
    Trường đoạn ở ngoài bãi biển được thể hiện rất sâu sắc và đầy tính nhạc. Người xem có thể nhìn ngắm được nụ cười của Ada khi cô đánh đàn, đúng là chỉ khi được ngồi bên cây đàn piano, được “nhảy múa” những ngón tay trên từng phím đàn và chơi những bản nhạc hay, Ada mới được là chính mình. Cô thoải mái thả hồn vào từng giai điệu, cô cười, cô vui sướng. Dường như, khoảnh khắc đó chỉ còn lại Ada, cây đàn và trời đất. Cùng đồng điệu và hòa hợp với cảm xúc của Ada là con gái Flora của cô.
    Ngoài cây đàn, Flora cũng là “thông dịch viên” của mẹ, là cầu nối để Ada đến với cuộc sống giao tiếp bên ngoài. Trong lúc mẹ đàn, cô bé vô tư, hồn nhiên chạy nhảy trên bãi biển và thi thoảng cất tiếng hát, tiếng gọi “mẹ, mẹ ơi, xem con này”, đầy phóng khoáng và tự do. Còn Baines, ban đầu thấy khó chịu với hai mẹ con, nhưng khi chứng kiến cảnh hai mẹ con vui đùa bên cây đàn và thấy được tình cảm của Ada, anh ta dần dần hiểu được nỗi lòng và cảm xúc của cô. Baines chỉ im lặng, đi lại xung quanh cô, đôi lúc vẽ nguệch ngoạc gì đó xuống cát…
    Đến lúc này, bộ phim bắt đầu đi theo hướng khác, không đơn thuần là tình yêu giữa Ada với cây dương cầm nữa, mà đã có thêm tình yêu nam nữ. Kể từ giây phút đưa hai mẹ con Ada ra bãi biển và cảm nhận nỗi lòng của cô, tình cảm trong Baines đã bắt đầu được nhen nhúm. Vì muốn hiểu cô hơn, muốn gần gũi và đồng điệu với tâm hồn của cô hơn, nên Baines đã tìm cách đưa cây đàn về nhà mình và nhờ Ada dạy anh chơi đàn. Thực chất, dù biết chơi đàn hay không với Baines không quan trọng, cái anh cần chỉ là được nhìn thấy Ada, “đem” cô về không gian riêng của mình, được lắng nghe tiếng đàn của cô, nhìn thấy cô cười hạnh phúc và được “chạm” vào nỗi lòng cô qua những khúc nhạc. Dần dần, trái tim lạnh lùng của người đàn ông đã bị chinh phục bởi tiếng đàn ấy. Và với Baines, tình cảm đó đã không dừng lại ở “nhìn”, mà anh còn muốn “sờ”, muốn cảm nhận trực tiếp da thịt của Ada.
    Baines đã đưa ra một thỏa thuận với Ada, rằng cô sẽ được mua lại cây đàn nếu thực hiện mọi điều Baines nói, và anh sẽ bán dần từng phím đàn cho đến khi cô có thể mua lại toàn bộ nó, bù lại cô sẽ phải cởi áo, vén váy… còn anh sẽ được nhìn ngắm cô. Phải nói rằng, trường đoạn này mang đậm “tính dục” nhất trong phim, không trần trụi, phô trương mà ngược lại vô cùng kín đáo và tinh tế. Hình ảnh Baines chui xuống gầm cây đàn, nằm dưới chân cô, nhìn lên, rồi đưa tay vân vê xung quanh một lỗ rách nhỏ trên đôi tất của Ada - nơi hé lộ ra một phần nhỏ làn da trắng muốt của cô, người xem cảm nhận được rõ tình yêu và lòng ham muốn của Baines, và hơn hết, đó là tình yêu nồng cháy anh dành cho cô. Tình yêu đó ngày một lớn lên, cùng những đụng chạm và gần gũi giữa hai người. Cây đàn piano đã trở thành nhân vật thứ ba trong câu chuyện tình yêu. Từng phím đàn, tiếng đàn là vật kết nối tình yêu khiến nó bùng lên và cháy mãnh liệt.
    Chính bằng sự đồng cảm và tình yêu chân thành, Baines đã khuấy động tâm hồn vốn câm lặng của Ada. Không nói được thành lời, Ada đã đàn, tiếng đàn như tiếng nói của Ada, là tiếng lòng của trái tim cô. Khi phải đối diện với người chồng lạnh lùng và hung hãn, tình yêu trong Ada mới thực sự trỗi dậy. Lại một lần nữa, chúng ta được chứng kiến tính cách mạnh mẽ của Ada khi cô tìm mọi cách đến với Baines, lao vào vòng tay của anh và được anh ủ ấm, khi cô mộng mị và mơ nghĩ đến anh trong những ngày bị giam hãm tại nhà, khi cô gửi lời yêu thương của mình đến Baines qua một phím đàn bất chấp sự nguy hiểm nếu bị phát hiện… Người đàn bà ấy cũng đã câm lặng hoàn toàn khi bị chồng chặt đứt ngón tay, cô không rên la, không gào thét, với khuôn mặt vô hồn tưởng như cảm xúc đã chết, Ada chỉ ôm ngón tay đang chảy máu ròng ròng ngồi bệt xuống giữa đống bùn lầy, đẫm mình trong mưa. Phải chăng lúc đó, tình yêu đối với cây đàn piano đã tự động trở thành bức nền cho tình yêu của Ada và Baines, nỗi đau thể xác đối với cô lúc đó dường như không có ý nghĩa nữa.
    Trong lễ trao giải Oscar năm 1993, The Piano - bộ phim của Jane Campion, một trong số ít những nữ đạo diễn gặt hái thành công, nhận nhiều đề cử và đoạt Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc (Holly Hunter), Nữ diễn viên phụ xuất sắc (Anna Paquin) và Kịch bản gốc hay nhất. Ngoài ra, phim còn đoạt giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes 1993.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  7. Michael Powell và Emeric Pressburger là một cặp đôi đạo diễn – biên kịch độc đáo trong lịch sử điện ảnh Anh. Họ cùng nhau làm nhiều phim, những bộ phim khiếm Michael Powell trở thành một trong những đạo diễn vĩ đại của thế giới điện ảnh, nhưng Emeric Pressburger luôn luôn đứng cùng tên trong mục đạo diễn, dù vai trò chính của ông là biên kịch. Sự hợp tác Biên Kịch – Đạo diễn đã mang lại cho họ những thành công vang dội thời đó với những tác phẩm như The Life and Death of Colonel Blimp (1943), A Canterbury Tale (1944), Black Narcissus (1947)… Đặc biệt là The Red Shoes (1948), một trong những tác phẩm đỉnh cao về nghệ thuật múa ballet, nhưng cũng đầy ám ảnh về tuổi trẻ và đam mê.
    The Red Shoes là tên một tác phẩm cổ tích của đại văn hào Đan Mạch Hans Andersen. Câu chuyện kể về một cô gái trẻ, một ngày cô mang vào chân đôi giày đỏ mà cô rất thích, thích hơn hết thảy mọi thứ trên đời, nhưng đó là đôi giày đã bị phù phép, nên khi đeo vào chân cô cứ phải nhảy, nhảy không ngừng cho đến khi chết. Câu chuyện cổ mang hàm ý về đam mê, sự yêu thích quá lớn vào một thứ sẽ khiến người người ta mờ mắt, khiến cô gái không nhận ra đâu là hạnh phúc đích thực, để rồi cô chỉ còn tìm đến cái chết. Nó như ám thị vào số phận của nữ nhân vật chính, cô gái Victoria Page (Moira Shearer), một người có đam mê duy nhất là múa ballet.
    Victoria Page được người cô của mình giới thiệu đến Lermontov (Anton Walbrook), người đang sở hữu đoàn múa ballet nổi tiếng, hiện lưu diễn tại London. Khi Lermontov hỏi vì sao cô múa? Victoria Page đã trả lời không do dự rằng nó giống như ta phải sống vậy, múa là bản năng, là thứ cô làm như hít thở hàng ngày, là ý nghĩa của cuộc đời cô. Lermontov, một ông bầu quyền lực, cay nghiệt. Ông nhìn thấy ở Victoria Page một cô gái ông cần, một người ông có thể giúp biến thành một vũ công ballet vĩ đại. Đối với Lermontov, một người đàn ông trung niên, nhưng vẫn độc thân, độc đoán, cay nghiệt, và dành hết tâm huyết của mình cho Ballet. Ông không chấp nhận vũ công của mình đi lấy chồng, ông coi tình cảm yêu đương là tầm thường và sẽ ngăn cản người vũ công trở nên vĩ đại. khuôn mặt luôn nghiêm túc, giọng nói cứng rắn, thái độ lạnh lùng hoàn toàn trái ngược với Victoria Page, đầy đam mê, và tình yêu.
    Lermontov với cái nhìn đầy bản năng của một người đàn ông đầy kinh nghiệm trong nghệ thuật múa. Ông quyết định trao cho Victoria Page làm nhân vật chính trong vở The Red Shoes mà ông đang muốn dựng. Niềm tin tuyệt đối của ông dành cho Victoria Page đã biến cô trở thành nàng thơ của chính mình sau đêm công diễn, với âm nhạc ấn tượng được soạn bởi nhạc sĩ trẻ tuổi Julian Craster (Marius Goring). 15 phút tuyệt vời của bộ phim dành cho vở The Red Shoes là một trong những điều khiến bộ phim trở nên vĩ đại. Ta như được chiêm ngưỡng một vở ballet thực sự, với những động tác nhảy điêu luyện, với cách dàn dựng sân khấu ấn tượng, mang đậm màu sắc cổ tích, Victoria Page nhảy, cô xoay trên đôi chân thần kì đang mang đôi giày đỏ. Cô như thể chính là cô gái trẻ trong câu chuyện của Andersen, phải mang đôi giày phù phép, cô nhảy, từ ngôi làng thân yêu, đến rừng núi, sa mạc. Bối cảnh sân khấu liên tục thay đổi và chuyển động, âm nhạc tuyệt vời, và sự say mê của cô vũ công, những góc máy ấn tượng. Đấy chắc hẳn là 15 phút tuyệt đẹp của một bộ phim vốn vô cùng đẹp như The Red Shoes.
    The Red Shoes như tôi đã nói, chứa đựng sự xung đột giữa đam mê và tình yêu. Lermontov là một ông chủ lạnh lùng, cao ngạo. Ông cần sự trung thành và vâng lời tuyệt đối. Và bản thân ông cũng sẽ đảm bảo những gì dưới trướng của ông sẽ thành công không gì ngăn cản được. Như sự thành công của Victoria Page, hay sự thành công của chàng nhạc sĩ trẻ tuổi Julian Craster. Nhưng có một điều ông không thể khiến người khác vâng lời, đó là bắt người ta không được yêu. Câu chuyện phim chuyển hướng thành sự xung đột của Lermontov vốn đặt Ballet, đam mê về ballet hơn hết thảy, và tình yêu của Victoria Page với chàng nhạc sĩ Craster. Một mối tình đẹp, ai cũng tin vậy, ai cũng thấy điều đó bình thường trừ Lermontov. Ông không chỉ ghen, chắc hẳn không phải là thứ tình cảm ghen tuông nam nữ, thứ mà Lermontov chưa bao giờ thể hiện trong bất kì cảnh phim nào. Điều gì đó lớn lao hơn nhiều khi con đường của ông bị ngăn trở. Ông đã muốn Victoria Page trở nên vĩ đại. Nhưng ông nói:
    Sự lãng mạn đẹp đẽ đan cài với thái độ thù địch của Lermontov. Victoria Page không thể tiếp tục tham gia cùng đoàn với Lermontov. Tất nhiên sự nổi tiếng của cô có thể giúp cô kiếm việc ở bất kì đâu. Nhưng để vĩ đại, chỉ có Lermontov có thể làm được. Cô đã mang sẵn trong tim mình một đôi giày đỏ, thứ khiến cho cô có đam mê bất tận với việc Nhảy, và thèm khát một đỉnh cao để đạt tới trong đam mê của mình. Lermontov hiểu điều đó, vì ông giống như gã phù thuỷ trong truyện của Anderson, chế ra đôi giày cho Victoria Page. Ông bắt cô chọn, một bên là tình yêu, một bên là đam mê. Một sự lựa chọn đau đớn và khó khăn, vì không có gì bản năng hơn tình yêu, nhưng cũng không có gì bản năng hơn đam mê.
    Những vũ công Ballet với điệu nhảy điêu luyện và tuyệt đẹp, âm nhạc đầy ấn tượng và mê hoặc, tất cả đã được những diễn viên thể hiện tuyệt vời. Đặc biệt là Moira Shearer, sức sống ở một cơ thể căng tràn khoẻ mạnh, đôi mắt đẹp, và thần thái quyến rũ, một diễn viên điện ảnh trong vai một diễn viên kịch với đầy đủ những phẩm chất của một vũ công ballet chuyên nghiệp. moira Shearer quyến rũ người xem từ ánh mắt của cô cho đến những bước nhảy Ballet duyên dáng. Moira chắc chắn là một trong những chìa khoá làm nên sự vĩ đại của The Red Shoes, một cách không nghi ngờ.
    Sức nặng của đam mê và tình yêu chính là tuổi trẻ. Tuổi trẻ của Victoria Page, của Julian Craster. Họ còn trẻ, họ để đam mê cuốn đi đến những đỉnh cao mà họ muốn, nhưng họ cũng không đủ kinh nghiệm để thoát khỏi lưới tình. Đặc biệt là cô gái ngây thơ và chân thành như Victoria Page. Tuổi trẻ không có đam mê là sự nhạt nhẽo, tuổi trẻ không có tình yêu là sự nhàm chán. Nhưng khi tuổi trẻ có cả hai thứ đó, và nó trở thành đối trọng xung đột nhau, thì tuổi trẻ đó tràn đầy bi kịch. Bi kịch của một người sống quá cảm tính để có thể lựa chọn con đường ổn định cho cuộc đời mình. Nên The Red Shoes, đôi khi tôi nghĩ, là bộ phim về bi kịch của tuổi trẻ.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  8. “Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã luôn muốn trở thành một tay gangster. Với tôi, làm gangster còn sướng hơn làm tổng thống Mỹ”.
    Câu nói mở đầu phim Goodfellas (tựa Việt là Chiến hữu) của nhân vật Henry Hill (Ray Liotta thủ vai) đủ khiến người xem cảm thấy bị cuốn hút bởi gã anh chị này nói riêng và thế giới gangster nói chung. Được ra mắt vào năm 1990 trong thời điểm Hollywood tràn ngập những tác phẩm nói về giới gangster như The Godfather III, Miller’s Crossing, King of New York hay Men of Respect … Goodfellas vẫn tách biệt hẳn với phần còn lại để đứng chung hàng ngũ với hai phần đầu The Godfather trong danh sách những phim về tội phạm hay nhất mọi thời đại.
    Đỉnh cao của phim gangster
    Giống như The Godfather, Goodfellas cũng là một tác phẩm chuyển thể. Nếu The Godfather được mô tả một cách lãng mạn hóa qua ngòi bút của Mario Puzo về giới gangster như những kẻ nghĩa khí, thanh toán địch thủ để bảo toàn danh dự thì Goodfellas lại trần trụi hơn rất nhiều. Đơn giản là bởi để thực hiện cuốn sách Wiseguy: Life in a Mafia Family với những gã mafia và các câu chuyên có thực mà sau này Goodfellas được dựa trên, tác giả Nicholas Pileggi đã trực tiếp tới phỏng vấn người trong cuộc Henry Hill.
    Hill vốn tiếp cận với những tay anh chị khi mới chỉ lên 11 tuổi và trưởng thành, va vấp trong thế giới của tiền, rượu, súng và gái đẹp ấy. Vì lẽ đó, góc nhìn của gã cho thấy một góc khuất mà nhiều người vẫn ngó lơ hay tặc lưỡi chấp nhận: một thế giới của những tên mafia bất tuân luật lệ, coi tiền như rác và xem mạng người như cỏ rác.
    Goodfellas dưới ngòi bút của Pileggi và ống kính của đạo diễn Martin Scorsese hiện lên như vậy: chân thực, gai góc mà không kém phần giải trí lôi cuốn. Câu chuyện được dẫn dắt bởi Henry Hill, từ khi gã còn là cậu bé chạy việc nhìn sang ô cửa đối diện của đám anh chị với con mắt thèm thuồng cho tới khi gã trở thành một phần của những tên du thủ du thực đó. Bối cảnh bộ phim được đặt trong giai đoạn từ 1955 tới 1980 và đã chứng kiến biết bao các phi vụ động trời mà Hill cùng đồng bọn đã nhúng tay vào.
    Mọi thứ từ bảo kê, cướp hàng, buôn chất cấm cho tới cả giết người … chúng đều đã kinh qua. Bản cáo trạng của Henry Hill ngoài đời thực thậm chí còn dài tới mức đạo diễn Scorsese buộc phải gọt bớt khi đưa lên phim và vụ dàn xếp tỉ số môn bóng rổ vào năm 1979 của gã thậm chí chỉ được nhắc tới trên màn ảnh nhờ … một câu thoại!
    Đúng như cái tựa phim mang ý nghĩa “Chiến hữu”, Henry Hill không hề đơn độc. Hắn có hai “cạ cứng” hành tẩu là Jimmy Conway (Robert De Niro) và Tommy DeVito (Joe Pesci). Nếu như Jimmy ra dáng của đàn anh và thường ủ mưu sâu đằng sau gương mặt luôn thân thiện với nụ cười thường trực thì Tommy đích thị là một ngọn núi lửa luôn chực phát nổ. Chính những cá tính khác biệt ấy trong nội bộ nhóm “chiến hữu” này đã góp phần biến 25 năm trong nghề của Henry Hill đầy những thăm trầm, hỉ nộ ái ố.
    Ngày Goodfellas mới được khởi chiếu, đã có không ít những ý kiến bi quan được dành cho bộ phim. Kinh phí 25 triệu USD vốn không phải quá lớn so với những bom tấn Hollywood thông thường song lại là phim có chi phí tốn kém nhất trong sự nghiệp của đạo diễn Martin Scorsese. Thời điểm ấy, Scorsese thậm chí còn nhận nhiều lời đe dọa tới tính mạng sau khi bộ phim gây tranh cãi về tôn giáo The Temptation of Christ (1988) của ông được ra mắt. Ngay trong buổi chiếu thử, đã có tới 40 khán giả bỏ về sau 10 phút đầu tiên do những màn bạo lực gây sững sờ.
    Song cuối cùng một bộ phim hay sẽ luôn được công nhận đúng với vị thế xứng đáng của nó. Goodfellas được đề cử sáu giải Oscar năm đó, bao gồm cả “Phim xuất sắc nhất” đồng thời độc chiếm ngôi đầu trong danh sách những phim hay nhất năm 1990 của nhiều nhà phê bình. Ngày nay, hiếm khi nào ngôi đền những phim hay nhất mọi thời đại vắng bóng Goodfellas. Nhà phê bình phim quá cố Roger Elbert thậm chí còn nhận xét rằng “Chưa từng có bộ phim nào về tội phạm có tổ chức được làm xuất sắc đến vậy, kể cả nếu đem so với The Godfather!”.
    Xuất sắc đến từ từng tiểu tiết
    Để làm ra được một bộ phim tầm cỡ như Goodfellas đòi hỏi sự gắng sức của không phải một cá nhân mà là cả một ê-kip. Người đứng đầu ê-kip ấy không ai khác chính là đạo diễn Martin Scorsese – tác giả của những Means Street, Taxi Driver hay Raging Bull kinh điển. Nhà làm phim ấy vốn chẳng hề xa lạ gì với những gã mafia người Mỹ gốc Ý nhờ lớn lên ở khu Little Italy của New York. Ông từng tự hứa với bản thân rằng sẽ chẳng bao giờ làm một phim gangster nữa, cho tới khi bắt gặp cuốn Wiseguy. Để đưa câu chuyện đời của Henry Hill lên màn ảnh rộng, Scorsese đã cùng tác giả Pileggi viết đi viết lại kịch bản tới tận 12 lần!
    Dẫu có thời lượng hai tiếng rưỡi nhưng Goodfellas không hề đem lại cảm giác dài dòng bởi tài kiểm soát câu chuyện của Scorsese. Ông kể chuyện phim theo phong cách phi tuyến tính với những đan xen giữa thực tại và quá khứ, có những cú chuyển cảnh bất ngờ nhưng vẫn đủ để khán giả nắm được mạch thời gian qua ngoại hình của nhân vật. Goodfellas được thuật lại chủ yếu qua lời dẫn chuyện của Henry, song đôi khi vai trò người kể chuyện lại được giao cho cô vợ của Henry là Karen (Lorraine Bracco).
    Người xem có thể nhận thấy sự thay đổi tâm lý nhân vật rõ rệt thế nào qua góc nhìn của Karen: từ một cô gái ngoan hiền khi mới gặp Henry cho tới một cô vợ đanh đá và sẵn lòng trở thành một phần trong đường dây buôn chất cấm của chồng mình. Việc đổi góc nhìn ấy cho thấy sự tài tình của Scorsese, khi ông thể hiện rằng hấp lực của thế giới gangster đủ sức thay đổi cả những con người tưởng như “lành” nhất! Ông tái tạo đúng cái thế giới bạo lực, đen tối nhưng cũng rất mời gọi với quyền lực và tiền bạc ấy … lên màn ảnh, để khán giả tự phán xét về những nhân vật và hành động của họ thay vì cố giảng giải đạo đức hay truyền thông điệp.
    Scorsese chú ý tới từng tiểu tiết trong phim tới mức còn tự thắt cravat cho Ray Liotta để đảm bảo mọi thứ đều như ông hình dung. Cho đến ngày nay, người ta vẫn nhắc tới việc ca khúc kinh điển Layla được lồng vào Goodfellas trong cảnh đám mafia bị thủ tiêu hợp lý đến mức nào, và theo tiết lộ của một nhà sản xuất thì Scorsese đã “chọn ra ba chục ca khúc để lồng vào từng đoạn trong phim từ ba năm trước khi bộ phim được phát hành!”. Mỗi cảnh quay phim đều có sự hiện diện của những người từng quen với các nhân vật trong phim ở ngoài đời, để Scorsese có thể an tâm rằng ông đã làm ra một bộ phim chân thực tối đa. Đến như Henry Hill ở ngoài đời xem xong phim cũng phải tấm tắc khen Goodfellas đã lột tả gần như y hệt quãng đời trước đây của gã!
    Diễn xuất ngoại hạng
    Nhưng Scorsese cũng may mắn khi có dưới trướng mình những diễn viên tuyệt hạng là Robert De Niro, Joe Pesci và Ray Liotta. Ở thời điểm Goodfellas được bấm máy, De Niro đã là một siêu sao và là cái tên đảm bảo uy tín lẫn kinh phí sản xuất cho dự án này trong khi hai người sau thì kém tiếng hơn. Ray Liotta đã 35 tuổi khi đó dù trong phim, nhân vật Hill bắt đầu hẹn hò với Karen khi mới 21 tuổi. Song chẳng hề gì, khi gương mặt trẻ hơn tuổi và quyết tâm của Liotta đã đủ để bù đắp khoảng cách về tuổi tác.
    Sự thực là sau khi được Robert De Niro tiến cử cho Scorsese, Liotta đã trải qua một quãng thời gian thử thách. Khi ông tới dự Liên hoan phim Venice và thấy Scorsese, Liotta đã lại gần và bị cận vệ của Scorsese chặn lại. Nhưng thay vì nổi cáu, Liotta vẫn tỏ ra bình tĩnh và “ghi điểm” trong mắt Scorsese, bởi nhân vật Henry Hill ở ngoài đời cũng là một người trầm tính. Sau khi được giao vai chính, Liotta đã nghe băng cassette thu lời của Henry Hill từng ngày trên đường tới trường quay đến mức thuộc nằm lòng cách nhả chữ của nhân vật này!
    Trái ngược với Hill, nhân vật Tommy của Joe Pesci lại là một gã khùng đúng nghĩa khi hắn ta sẵn sàng nổi cáu và giết người bởi những việc nhỏ nhặt nhất. Pesci vốn được biết tới nhiều trước đó với tư cách một diễn viên hài nhưng trong Goodfellas, ông đích thực là một gã “quỷ lùn” đáng sợ. Hiếm ai từng xem Goodfellas mà có thể quên cảnh gã dọa đồng bọn “Mày nói tao hài hước là ý gì?’. Năm 1991, Joe Pesci đã được trao giải Oscar Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất nhờ màn trình diễn đầy ngẫu hứng ấy.
    Goodfellas lôi cuốn khán giả bởi nhiều đoạn thoại vừa hay lại vừa bỗ bã, tục tĩu rất “đời”. Không ít trong số những câu thoại đó được các diễn viên “tự biên tự diễn” khi ngồi tập kịch bản với nhau và được Scorsese ghi lại. Scorsese thậm chí còn giấu một số hành động hay câu thoại với các diễn viên khác, để họ có phản ứng bất ngờ một cách tự nhiên khi thấy bạn diễn nói những thứ không có trong kịch bản. Chẳng thế mà sau khi Goodfellas được ra rạp, gã Henry Hill ngoài đời thực đã tự hào về bộ phim tới mức đi công khai danh tính thực của bản thân và bị FBI gạch tên khỏi chương trình bảo vệ nhân chứng!
    Vào năm 1986, Scorsese đã gọi điện cho tác giả Pileggi sau khi đọc xong cuốn Wiseguy và bày tỏ sự ngưỡng mộ: “Tôi đã chờ cuốn sách này cả đời rồi”. Pileggi đã mỉm cười đáp lại: “Còn tôi cũng đã chờ cuộc điện thoại này cả đời!”. Và khán giả thì cảm ơn duyên số đã đưa hai cao nhân này tới với nhau, để rồi bốn năm sau đó dòng phim gangster đón nhận một kiệt tác mang tên Goodfellas.
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  9. Vẫn nằm trong sự lèo lái đạo diễn Marc Webb của phần 1, TAS 2 dành hơn nửa thời lượng để khai thác tâm lý của Peter Parker (Andrew Garfield) thông qua cuộc truy tìm sự thật về cha mình, sự xuất hiện của người bạn lâu năm Harry Osborn (Dane DeHaan) và quan trọng nhất là sự giằng xé nội tâm trong mối quan hệ với cô bạn gái Gwen Stacy (Emma Stone). Peter của TAS 2 đã khác so với năm xưa. Anh đã trở thành một người anh hùng đầy bản lĩnh, rất cởi mở và gần gũi, một hình tượng Vigilante bị cảnh sát ghét nhưng người dân ngưỡng mộ. Thậm chí anh còn có fan cuồng như oppa Hàn Quốc. Chú fan cuồng này sau khi nhận ra Spider-Man éo nhớ mình là ai, chú đã phát khùng và hóa thành Electro đi giật điện cả thành phố. Trong khi đó, anh bạn thân Harry lại đòi Spider-Man hiến máu nhân đạo cho mình, sau khi bị từ chối cũng hóa điên và biến thành Green Goblin. Các bạn oánh nhau, xen giữa là vài cảnh mùi mẫn của Peter với Gwen. Kết thúc làm tui bất ngờ, vì đây là một quyết định khá lạ của nhà làm phim khi phần 3 đã được lên kế hoạch. Bạn nào xem rồi thì sẽ hiểu ý tui.
    Dấu ấn của Marc Webb thể hiện rõ nét qua các màn pha trò chọc cười của Peter trong khoảng nửa đầu phim, những giây phút nhẹ nhàng và rất thoải mái cho người xem. Spider-Man có lẽ là nhân vật anh hùng duy nhất của Marvel được định hướng tới một hình ảnh trẻ trung, gần gũi và dễ khiến khán giả đồng cảm, khác xa dàn Avengers già dặn và lì lợm. Đối với Peter, thân phận Spider-Man là niềm hạnh phúc, là lẽ sống chứ không đơn giản là nghĩa vụ khi tự nhiên mình có siêu năng lực leo tường. Ở đây, chi tiết này được nhấn mạnh bởi tính cách của Peter khi anh là Peter Parker và khi anh là Spider-Man. Luôn có một không khí trầm lắng và buồn bã khi Peter Parker xuất hiện, và khán giả càng dễ mủi lòng hơn với diễn xuất và khuôn mặt khổ tâm của Andrew Garfield. Trái lại, khi Peter khoác lên mình bộ trang phục đỏ-xanh, mọi thứ như mở hội, tràn đầy niềm vui và sức sống. Hai thái cực này càng trở nên rõ ràng hơn với âm nhạc của Hans Zimmer, Magnificent Six và Pharrel Williams. Nhạc Peter lúc nào cũng trầm buồn, nhạc Spider-Man thì tưng bừng, lúc oánh lộn với Electro phim còn cho Electro giật điện thành dubstep (kiểu như trong Sorcerer’s Apprentice). Nói cách khác, Peter khiến khán giả cảm động, Spider-Man khiến khán giả bật cười; khi nhận ra cả hai chỉ là một, chúng ta dần hiểu hơn về Peter, siêu anh hùng gần gũi nhất với khán giả trẻ.
    Một điểm nhấn khác là sự ăn rơ của Peter Parker và Gwen Stacy. Diễn xuất ăn ý và dễ thương của họ vừa đủ để tui thưởng thức và ủng hộ chứ không thấy khó chịu như Twilight (vâng, tui nhắc đến Twilight là vì vẫn như trong phần 1, Peter và Gwen mà lố hơn thì đã thành Edward và Bella). Marc Webb tiếp tục nhấn mạnh vai trò của Gwen trong phần này, hướng sự chú ý của khán giả vào chi tiết Gwen yêu Peter (chứ không phải Spider-Man như Mary Jane) và cô tiếp tục trực tiếp tham gia vào các trận chiến của Spider-Man, dẫn đến kết thúc kỳ lạ như tui nói ở trên.
    Nãy giờ toàn khen, vậy TAS 2 có vấn đề gì mà tui bảo không có gì tiến bộ so với phần 1? Cơ bản là những gì tui khen TAS 2 ở trên chính xác là những gì tui khen ở TAS 1 (xem review cũ ở đây). Marc Webb thực hiện TAS 2 gần như với đúng một công thức quen thuộc, khiến dù phim được làm tốt nhưng tui vẫn thấy hơi thất vọng một chút. Thêm nữa, điểm yếu nhất của TAS 1 – hành động – vẫn xuất hiện trong TAS 2, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Marvel có lẽ nhận ra sự phàn nàn của fan về các pha hành động thiếu lửa của phần 1 nên đã quyết định tung một cơ số villains vào trong phần 2. Tui cho rằng đây là một quyết định liều lĩnh, và thực tế cho thấy, cả hai màn giao chiến của Spider-Man với Electro và Green Goblin đã chán lại còn ngắn ngủn. Chưa kể, Marvel đã khiến người xem tưởng bở với mớ poster và trailer làm tui nghĩ Spider-Man bị hội đồng bởi một loạt kẻ thù, hóa ra bọn nó rất lịch sự xuất hiện từng đứa một cho Spider-Man dễ thở … Dù sao thì điểm yếu đó được phần nào bù đắp bởi thời lượng phim được đầu tư cho sự phát triển tâm lý của hai nhân vật này. Ví như Electro, anh từng được Spider-Man cứu, thần tượng Spider-Man và ngay khi sở hữu siêu năng lực cũng chỉ muốn kiểm soát nó, nhưng một giây phút hiểu lầm đã khiến cái ác trong lòng trỗi dậy. Harry Osborn cũng thế, nỗ lực tìm lấy sự sống đã che mờ lý trí; khi thực tế ban đầu anh không phải người xấu, những cảnh nói chuyện cùng Peter đã chứng minh điều này. Nói gì thì nói, tuy tui ủng hộ chuyện tập trung vào tâm lý nhưng cảnh hành động cũng nên được chăm chút hơn. Như hiện nay, tui thấy dường như Marc Webb muốn làm một bộ phim tâm lý tình cảm nhưng bị Marvel ép chèn mấy cảnh đánh lộn vào để câu khách, dẫn đến sự thiếu cân bằng cho phim. Một chút thất vọng khác là tui ngồi xem hết credits mà không thấy có mid hay post-credits gì cho phần 3 hết.
    Tóm lại, TAS 2 là một phim tốt, xem không tiếc tiền. Xem TAS 2 thấy nhẹ nhàng thoải mái hơn là Captain America: The Winter Soldier. Nếu bạn nào không thích sự nặng nề của Captain America thì TAS 2 là một lựa chọn hợp lý, và đặc biệt hợp lý để dẫn gấu đi xem.
    • 1 Downloads
    Joker
    Updated
  10. Bạn đã bao giờ tự hỏi điều gì tạo nên một anh hùng? Sức mạnh phi thường, trí tuệ siêu việt hay lòng dũng cảm tuyệt đối? Cùng tôi bước vào thế giới đầy mê hoặc của “The Amazing Spider-Man,” nơi câu chuyện về Peter Parker, một cậu học sinh trung học bình thường, bỗng chốc rẽ lối khi bị một con nhện biến đổi gene cắn. Từ đó, cuộc đời cậu gắn liền với chiếc mặt nạ đỏ, với trách nhiệm bảo vệ người dân New York khỏi những hiểm nguy rình rập.
    Chương 1: Gánh Nặng Quá Khứ Và Khởi Nguồn Sức Mạnh
    Tuổi thơ của Peter Parker nhuốm màu bí ẩn khi cha mẹ cậu đột ngột biến mất sau một tai nạn máy bay. Được dì May và chú Ben nuôi nấng, Peter lớn lên là một chàng trai thông minh, nhạy cảm nhưng cũng đầy mặc cảm.
    Mọi thứ thay đổi khi Peter tìm thấy chiếc cặp cũ của cha, hé lộ bí mật về nghiên cứu khoa học dang dở của ông. Hành trình tìm kiếm sự thật đưa cậu đến Oscorp, nơi cậu bị cắn bởi một con nhện thí nghiệm. Cú cắn đó đã đánh thức tiềm năng siêu phàm trong Peter, ban cho cậu sức mạnh, tốc độ và khả năng leo trèo như nhện.
    Chương 2: Tự Hào Khoác Lên Bộ Trang Phục Người Nhện
    Ban đầu, Peter sử dụng sức mạnh mới cho mục đích cá nhân. Tuy nhiên, cái chết bi thảm của chú Ben bởi một tên tội phạm mà Peter đã có thể ngăn chặn đã thức tỉnh cậu. Peter nhận ra một bài học đau đớn: “Sức mạnh to lớn đi kèm với trách nhiệm lớn lao.”
    Mang trong tim nỗi đau và lời hứa với chú, Peter tự tay thiết kế bộ trang phục, trở thành Người Nhện, bắt đầu hành trình bảo vệ công lý cho thành phố New York.
    Chương 3: Giữa Tình Yêu Và Trách Nhiệm
    Trong hành trình của mình, Peter phải đối mặt với không ít thử thách: từ những tên tội phạm nguy hiểm cho đến những sinh vật đột biến đáng sợ. The Lizard, kẻ thù đầu tiên của Người Nhện, vốn là tiến sĩ Curt Connors, đồng nghiệp cũ của cha Peter. Connors bị biến đổi thành một con quái vật bò sát sau khi thử nghiệm huyết thanh tái tạo chi trên chính mình.
    Giữa những trận chiến đầy cam go, Peter tìm thấy tình yêu với Gwen Stacy, cô bạn cùng lớp thông minh và xinh đẹp. Tuy nhiên, tình yêu của họ đối mặt với nhiều trắc trở khi Peter phải che giấu thân phận thật và bảo vệ Gwen khỏi những kẻ thù luôn muốn hãm hại Người Nhện.
    Chương 4: Nỗi Đau Mất Mát Và Ánh Sáng Phía Trước
    Phần 2 của “The Amazing Spider-Man” mở ra với những biến cố mới. Harry Osborn, người bạn thân của Peter, trở về và phải đối mặt với căn bệnh di truyền quái ác. Trong khi đó, một kỹ sư điện tên Max Dillon vô tình bị biến thành Electro, kẻ điều khiển điện năng với sức mạnh khủng khiếp.
    Cái chết của Đại úy Stacy, cha của Gwen, trong cuộc chiến với Electro đã gieo vào lòng Peter nỗi đau khôn nguôi. Lời hứa cuối cùng với Đại úy, bảo vệ Gwen bằng cách rời xa cô, khiến Peter càng thêm dằn vặt.
    Kết Thúc Một Chương Và Khởi Đầu Mới
    Bộ phim khép lại với hình ảnh Gwen ra đi mãi mãi sau một cú ngã từ tòa tháp đồng hồ. Nỗi đau mất mát, day dứt hằn sâu trong tim Peter Parker, buộc cậu phải lựa chọn: gác lại trách nhiệm của Người Nhện hay tiếp tục chiến đấu vì công lý cho những người cậu yêu thương?
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  11. Một cuộc xung đột vũ trang buộc đôi vợ chồng trẻ Pedro và Alma Madrigal với những đứa con sinh ba (Julieta, Pepa và Bruno) phải chạy trốn khỏi ngôi làng quê hương của họ ở Colombia. Những kẻ tấn công giết Pedro, nhưng ngọn nến của Alma bỗng dưng trở nên mầu nhiệm thổi bay chúng và tạo ra ngôi nhà tri giác tên là Casita, rồi núi cao dâng lên bao quanh vùng đất Encanto thần kỳ.
    50 năm sau, một ngôi làng mới đã phát triển trù phú dưới sự bảo vệ của cây nến. Phép thuật mà nó ban tặng cho mỗi hậu duệ nhà Madrigal lúc họ lên 5 tuổi được dùng để phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Trước đó 10 năm, Bruno Madrigal, người bị phỉ báng và ghẻ lảnh bởi phép thuật nhìn thấu tương lai của mình, trốn chạy khỏi Encanto và vào cùng thời điểm đó, cô bé Mirabel 5 tuổi bí ẩn thay lại không được cây nến ban phép mầu.
    Vào sinh nhật lên 5 của Antonio Madrigal, cậu bé được ban khả năng nói chuyên với động vật. Trong lúc gia đình đang ăn mừng, Mirabel đột nhiên phát hiện những vết nứt xuất hiện tại Casita và ngọn lửa của cây nến trở nên lập lòe, song những lời cảnh báo của cô bị bỏ ngoài tai vì dường như đó chỉ là ảo giác. Sau khi nghe trộm được Alma cầu nguyện bên ô cửa sổ, Mirabel quyết tâm cứu lấy phép mầu. Ngày hôm sau, cô nói chuyện với người chị tráng sĩ Luisa, người mà thú nhận rằng có điều gì đó không ổn với phép mầu và thổ lộ hết nỗi lo âu mà chị ta đã đè nén bấy lâu. Luisa chỉ dẫn cho Mirabel đột nhập vào căn phòng Bruno ở tháp cấm của Casita, nơi có lẽ ẩn chứa câu trả lời. Ở đó, Mirabel tìm thấy những mảnh thủy tinh lục bảo chứa thị kiến tương lai của Bruno và sống sót thoát ra khỏi căn phòng dần sụp đổ. Sau khi nghe lời cảnh cáo của gia đình về người cậu Bruno, Mirabel vẫn cố chấp ghép lại những mảnh vỡ và thấy hình ảnh của chính mình đứng trước một Casita bị nứt mẻ.
    Tối hôm đó, người chị ruột có khả năng khiến trăm hoa đua nở của Mirabel, Isabela, ra mắt trước người chồng đã được đính hôn là Mariano Guzmán. Giữa lời thỉnh hôn của Mariano dành cho Isabela, Dolores tiết lộ khám phá của Mirabel cho mọi người nhờ khả năng siêu thính giác của cô, khiến cho Casita lại rạn nứt, và phá hỏng bữa tối trịnh trọng sau khi Pepa vô tình gây ra một trận mưa như trút nước. Giữa cả thảy hỗn loạn đó, Mirabel bám theo một đàn chuột tha những mảnh vỡ lục bảo và phát hiện một lối bí mật đằng sau một bức chân dung, nơi cô tìm thấy Bruno đang ẩn náu. Bruno hóa ra chưa bao giờ rời khỏi ngôi nhà, anh tiết lộ rằng thị kiến về tương lai của Mirabel không hoàn toàn chắc chắn, khiến anh tin rằng cô bé chính là chìa khóa để giải cứu phép mầu; trước đây do không muốn làm tổn thương Mirabel, Bruno đã phá vỡ thị kiến của mình và từ bỏ gia đình. Trong phòng của Antonio, Bruno miễn cưỡng nhìn vào tương lai theo lời của Mirabel và chứng kiến cảnh cô bé ôm lấy người chị gái Isabela, điều mà có lẽ sẽ hồi sinh phép mầu.
    Mirabel đành đi xin lỗi Isabela, người thú nhận rằng không muốn kết hôn với Mariano và bị gánh nặng bởi vẻ ngoài hoàn hảo của mình. Mirabel thông cảm với Isabela và cả hai ôm chầm lấy nhau làm cho ngọn nến bùng cháy. Tuy vậy, Alma buộc tội Mirabel gây ra bất hạnh cho gia đình bởi vì tủi thân do không có năng lực. Mirabel cãi vã với Alma rằng chính bà mới là nguyên nhân khiến phép thuật suy yếu. Mâu thuẫn giữa Mirabel và Alma khiến ngọn nến vụt tắt, chẻ đứt dãy núi bao quanh Encanto và hủy diệt Casita. Mirabel đau đớn chạy trốn khỏi gia đình.
    Alma tìm thấy Mirabel đẫm lệ tại dòng sông nơi Pedro hi sinh thân mình để cứu đoàn dân tị nạn. Alma chia sẻ bi kịch của mình với người cháu gái và giải thích tại sao việc bảo tồn phép mầu lại quan trọng với bà đến nhường đó. Mù quáng vì thế nên Alma đã đặt kỳ vọng quá cao lên con cháu, mà chẳng hề hay biết gia đình mình đang rạn nứt dưới áp lực đó. Bà chịu trách nhiệm cho những gì đã xảy ra; Mirabel và Alma hòa giải và cả hai, hội ngộ với Bruno, tụ họp với các thành viên Madrigal khác. Với sự giúp đỡ của dân làng, họ tái xây dựng Casita. Mirabel được trao cho một tay nắm cửa và sau khi cô bé lắp nó lên cửa chính, phép thuật được hồi phục và Casita sống lại. Kết phim, cả gia đình Madrigal, bao gồm Mirabel và Bruno, cùng nhau chụp tấm hình kỷ niệm.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  12. Được thực hiện bởi Edward Wright – đạo diễn của Baby Driver, bộ phim Last Night in Soho (tạm dịch: Đêm cuối ở Soho) đã khiến mình tò mò ngay từ trailer đầu tiên. Một câu chuyện được kể bằng ánh sáng neon, kết nối hai con người ở thế kỷ XXI và thập niên 60s, với những tình tiết kinh dị được hé lộ. Ngay từ giây phút ấy, mình đã đặt Last Night in Soho vào shortlist năm nay, cùng với những bộ phim The French Dispatch, The Green Knight, The Lamb, Titane, The Hunt, The Matrix Resurrections…
    Bộ phim mở đầu bằng câu chuyện của cô bé Eloise từ vùng quê nước Anh lên London theo học ngành thiết kế thời trang. Tại đây, một cô bé có phần “quê mùa”, hơi “weird”, yêu thích nhạc cổ điển, đã bị đám bạn cùng ký túc kỳ thị, dẫn tới việc cô phải tìm đến một nhà trọ cũ kỹ ở London. Ngay từ đêm đầu tiên qua đêm ở căn nhà trọ này, Eloise đã hóa thân và được chứng kiến câu chuyện về cô gái trẻ xinh đẹp Sandie ở thập niên 60s. Sandie – với tham vọng trở nên nổi tiếng ở London, đã đến quán Cafe de London nổi tiếng nhất lúc bấy giờ, làm quen với Jack. Sandie và Jack vừa có mối quan hệ tình cảm lãng mạn mà Eloise hằng mơ ước, bên cạnh đó, Jack cũng hứa hẹn sẽ đưa Sandie trở thành một ngôi sao.
    Eloise gần như bị cuốn vào thế giới quá khứ đó. Cô nhận ra đó không chỉ là mơ, bởi vết hickey của Jack lên Sandie vẫn hằn trên cổ Eloise khi cô hóa thân thành Sandie. Vậy là Eloise luôn mong chờ tới ban đêm để được du hành về quá khứ, nhập thân vào “thần tượng” Sandie, khám phá cuộc tình lãng mạn của hai người; cũng như được Sandie truyền cảm hứng để Eloise tự tin bên ngoài đời thực.
    Nhưng liệu rằng mối tình của Jack và Sandie có đẹp như Frank Sinastra và Ava Gardner? Không. Biến cố xảy ra giữa hai người, và Eloise nhận ra cuộc sống của Sandie rơi vào địa ngục. Đó cũng là lúc Eloise bị nỗi ám ảnh mang tên Sandie đeo bám ra ngoài đời thật. Kể từ đây, mạch phim trở nên nhanh, với nhiều tình tiết rùng rợn, kỳ ảo và ám ảnh.
    Điều khiến mình ấn tượng nhất với bộ phim, đó là bộ phim rất đẹp. Từ cinematography, tới thiết kế bối cảnh, phục trang; và đặc biệt là khâu edit phim cùng với VFX đều rất ấn tượng. Nếu như cảnh quay có nhiều góc quay qua gương và đổi vai ấn tượng giữa Eloise và Sandie, thì ánh sáng phim được kết hợp chủ đạo bởi hai màu neon đỏ và xanh cũng tạo một cảm giác huyền bí, ám ảnh. Mạch phim được đội ngũ Editor cắt rất có nhịp điệu và ý đồ, với nhiều pha chuyển cảnh ấn tượng, khiến cho bộ phim thực thực, ảo ảo, nhưng xem vẫn không quá khó hiểu như những phim của Christopher Nolan.
    Kỹ xảo cũng là điểm đáng khen của bộ phim, khi tạo hình của những “bóng ma” không bị giả, “rẻ tiền”; ngược lại, thực sự ấn tượng và ám ảnh. Có nhiều trường đoạn đội ngũ VFX đã xử lý để kết hợp giữa tưởng tượng với thực tế; hoặc những phân cảnh mang đậm chất fantasy, khiến cho Last Night in Soho thêm phần kỳ ảo và nghệ thuật.
    Thông thường với một bộ phim hơi hướng kinh dị, teenager như này, mình thường không đánh giá cao về nội dung kịch bản. Nhưng phải nói Last Night in Soho có một kịch bản rất hay, rất cuốn hút mà cũng lại rùng rợn. Ban đầu, mình đồng cảm và yêu thích cô bé Eloise lạc lõng (có lẽ do mình cũng hay cảm thấy khác người và lạc lõng như vậy), để rồi sau đó hoàn toàn đi theo gót chân của Eloise để khám phá quá khứ của Sandie. Câu chuyện bi kịch của Sandie cũng vừa đủ để tạo ý nghĩa cho bộ phim, cũng như gây ấn tượng với khán giả, dù cho với mình không quá mới mẻ. Ý nghĩa này ta có thể tìm thấy như trong Bombshell, Promising Young Woman, Girl From Nowhere; nhưng đảm bảo cách dẫn dắt và cảm xúc phim trong Last Night in Soho hoàn toàn khác biệt so với những phim kể trên.
    Đạo diễn Edward Wright cũng rất biết cách biến tấu kịch bản để Last Night in Soho không trở nên nhàm chán; khi biến những kẻ gây bất hạnh cho Sandie trở thành những bóng ma ám ảnh Eloise ngoài đời thực, qua đó kết nối hai quãng thời gian, hai thế giới, thông qua tiềm thức của Eloise. Chúng ta như được nhập vào Eloise để trải qua cơn ác mộng, mà đôi khi giống như cảm giác bị bóng đè: sợ hãi, bất lực, không biết đâu là thực, đâu là hư. Đây chính là điểm đặc sắc và thú vị nhất của bộ phim. Cùng với đó, bộ phim cũng giải quyết cao trào bằng những plot twist vừa đủ để khiến khán giả không dễ dàng nhận ra. Dù cho những người hay xem phim và tinh ý, có thể nhận ra trước thời điểm mà bộ phim cho chúng ta thấy, thì chúng ta cũng khó đoán đúng plot twist ngay từ trước khi cao trào diễn ra. Như vậy, về kịch bản, Last Night in Soho có một kịch bản tương đối chắc chắn, cuốn hút, thú vị, ám ảnh và cũng đầy bất ngờ, ý nghĩa.
    Bộ phim Last Night in Soho cũng có sự góp mặt của nữ diễn viên xinh đẹp Anna Taylor-Joy (từng đóng vai chính trong The Queen Gambit) trong vai Sandie và Matt Smith (từng đóng vai chính trong Dr.Who) trong vai Jack. Đội ngũ diễn viên của phim, bao gồm cả những diễn khác, đều diễn rất thành công, đủ để làm nên một bộ phim hay.
    Có thể nói, Last Night in Soho nằm ở ranh giới giữa giải trí và nghệ thuật, tương tự như cách bộ phim kể câu chuyện ở ranh giới giữa thế kỷ XXI và thập niên 60s của thế kỷ trước. Mình rất mong Last Night in Soho sẽ được đề cử ở những giải thưởng sắp tới, nhưng theo mình đánh giá, ý nghĩa và mức độ nghệ thuật của bộ phim chưa đủ đạt đến tầm đó. Mình hy vọng bộ phim sẽ góp mặt ở các giải kỹ thuật trong các giải thưởng sắp tới, bởi theo mình đánh giá, Last Night in Soho xuất sắc hơn Baby Driver nhiều.
    Tổng kết lại, theo mình, Last Night in Soho là một bộ phim hay, có sự kết hợp của giải trí lẫn nghệ thuật. Bộ phim thực sự cuốn hút, rùng rợn và có cả sự bi thương nếu ta suy nghĩ sâu về nó. Nhưng về ý nghĩa, bộ phim chỉ nằm ở lưng chừng, vừa đủ để hay hơn các phim giải trí, nhưng chưa đủ ý nghĩa khi so sánh với các phim hàn lâm. Dù sao chăng nữa, Last Night in Soho với mình cũng là một bộ phim hay, và phù hợp với tất cả mọi người.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  13. "Ghostbusters: Afterlife" (2021) là phần tiếp theo của loạt phim "Ghostbusters" gốc, mang đến một câu chuyện mới nhưng vẫn giữ được tinh thần của nguyên tác. Phim xoay quanh một gia đình đang gặp khó khăn, bao gồm mẹ Callie và hai con, Phoebe và Trevor, khi họ chuyển đến một thị trấn nhỏ ở Oklahoma sau khi nhận được di sản từ ông của họ, một trong những thành viên của đội Ghostbusters.
    Tại đây, Phoebe — một cô bé thông minh và đam mê khoa học — bắt đầu khám phá những bí mật liên quan đến quá khứ của ông mình, trong khi Trevor làm việc tại một tiệm sửa xe. Họ phát hiện ra các thiết bị và vật dụng liên quan đến các vụ bắt ma của Ghostbusters, cùng những hiện tượng siêu nhiên đang xảy ra xung quanh thị trấn.
    Khi những thế lực siêu nhiên bắt đầu xuất hiện trở lại, cả gia đình phải hợp tác để đối phó với những mối đe dọa và cứu lấy thị trấn, đồng thời kết nối với di sản của tổ tiên. Bộ phim không chỉ mang đến những tình huống hài hước và hành động hấp dẫn mà còn chứa đựng nhiều yếu tố về tình cảm gia đình và sự kế thừa. "Ghostbusters: Afterlife" đã nhận được sự ủng hộ từ cả người hâm mộ cũ lẫn khán giả mới, nhờ vào sự tôn vinh các nhân vật gốc và tinh thần của loạt phim ban đầu.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  14. Một ngày của bé siêu quậy 1994, Baby's day out  Phim hài hước kể về cuộc phiêu lưu thú vị của cậu bé Bink 1 tuổi từ trong nôi ra ngoài đời. Vốn là con của 1 gia đình triệu phú, lúc mới sinh đã được bao bọc trong nhung lụa nên Bink dễ dàng trở thành mục tiêu của bọn bắt cóc tống tiền. Sau khi cải trang và chiếm được bé Bink, 3 tên tội phạm Eddie, Norby và Veeko vô cùng hí hửng vì nghĩ mình sắp vớ được 1 món hời lớn. Tuy nhiên, cũng từ đây, những rắc rối, không phải bắt nguồn từ cảnh sát mà từ chính cậu bé chỉ vừa mới chập chững biết bò này, đã liên tục xảy ra với bọn chúng. Eddie, Norby và Veeko lần lượt trở thành những “nạn nhân tội nghiệp” cho những trò nghịch phá hồn nhiên của Bink. Bằng sự thông minh, ngây thơ và hài hước cùng sự giúp đỡ của những nhân vật tốt bụng như chú đười ươi trong vườn thú, cô giữ trẻ hay những cựu chiến binh hóm hỉnh, Bink đã lần lượt cho bọn bắt cóc 1 bài học đích đáng, khiến bọn chúng phải bao phen sống dở chết dở.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  15. "A Hard Day's Night" (1964) là một bộ phim âm nhạc hài hước, nổi bật với sự tham gia của ban nhạc huyền thoại The Beatles. Phim theo chân bốn thành viên của nhóm — John Lennon, Paul McCartney, George Harrison và Ringo Starr — trong một ngày thú vị và điên rồ khi họ chuẩn bị cho một buổi biểu diễn.
    Câu chuyện bắt đầu khi nhóm đang đối mặt với sự nổi tiếng và những áp lực đi kèm. Họ phải chạy đua giữa các cuộc phỏng vấn, sự kiện truyền thông và buổi diễn, trong khi vẫn cố gắng giữ cuộc sống cá nhân và mối quan hệ với gia đình.
    Phim không chỉ nổi bật với những bài hát kinh điển của The Beatles mà còn thể hiện sự hài hước và sự năng động của nhóm. Thông qua những tình huống hài hước và hình ảnh sinh động, "A Hard Day's Night" đã định hình lại thể loại phim âm nhạc và trở thành một tác phẩm kinh điển trong điện ảnh. Bộ phim cũng phản ánh cuộc sống của những người trẻ trong thập niên 60, với thông điệp về tình bạn và đam mê.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  16. "Juice" (1992) là một bộ phim tâm lý hình sự tập trung vào cuộc sống của một nhóm thanh niên ở New York, đặc biệt là bốn người bạn thân: Q, Bishop, Raheem và Steel. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của họ trong bối cảnh đô thị, nơi mà sự cám dỗ và áp lực từ xã hội xung quanh đang tác động mạnh mẽ đến họ.
    Nhân vật chính, Q (do Omar Epps thủ vai), có đam mê với âm nhạc hip-hop và muốn trở thành DJ, trong khi Bishop (do Tupac Shakur thủ vai) lại bị cuốn vào lối sống gangster và tìm kiếm quyền lực. Khi một sự kiện bi thảm xảy ra, nhóm bạn phải đối mặt với những quyết định khó khăn và mâu thuẫn, dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng cho cả nhóm.
    Bộ phim không chỉ khai thác những vấn đề về bạo lực và tội phạm mà còn thể hiện sâu sắc tình bạn, sự trưởng thành và những lựa chọn trong cuộc sống. "Juice" được đánh giá cao về cách xây dựng nhân vật và thông điệp mạnh mẽ về hậu quả của sự tham lam và tìm kiếm quyền lực.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  17. Phim Will Smith đóng chính dựa trên chuyện có thật về nỗ lực của Venus và Serena Williams - huyền thoại quần vợt thế giới.
    Phim nhận sáu đề cử Oscar 2022 bao gồm: Phim hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc (Will Smith), Nữ diễn viên phụ xuất sắc (Aunjanue Ellis), Kịch bản gốc xuất sắc, Dựng phim xuất sắc và Ca khúc trong phim hay nhất (Be Alive - Beyonce). Dự án là sự trở lại màn ảnh của Will Smith - ứng viên sáng giá nhất của hạng mục nam chính, từ sau Gemini Man (2019).
    Tác phẩm dõi theo hành trình của Richard Williams, người cha nuôi dạy hai vận động viên tài năng trở thành nhà vô địch bộ môn tennis. Lấy bối cảnh những năm 1990 ở thành phố Compton, phía Nam Los Angeles, Mỹ, nơi tập trung đông người da màu, phim ghi lại những năm đầu trong sự nghiệp quần vợt của Venus và Serena Williams. Ban ngày, Richard cùng hai con tập luyện trên các sân tennis công cộng. Ban đêm, ông làm bảo vệ tại một khu chợ địa phương để trang trải sinh hoạt phí cho bảy thành viên trong nhà. Ông dành thời gian đi đến những sân tennis của giới nhà giàu giới thiệu tài năng của con mình với các huấn luyện viên nhưng đều bị từ chối, thậm chí còn bị chế nhạo.
    Giữ vững niềm tin, người cha chở hai cô gái đến sân tập của huấn luyện viên Paul Cohen (Tony Goldwin), nhờ ông đào tạo. Nhưng chỉ có Venus nhận được cái gật đầu từ huấn luyện viên, sau đó cô về nhất giải Tennis thiếu niên. Bất đồng quan điểm với Cohen, Richard tìm đến Rick Macci (Jon Bernthal) - người thầy của tay vợt chuyên nghiệp Jennifer Capriati. Từ đây, Richard cùng Rick hỗ trợ về mặt kỹ năng cho Venus. Vợ ông - Oracene Williams (Aunjanue Ellis), là hậu phương vững chắc, động viên tinh thần cho chồng và con gái.
    Hóa thân chân thật của Will Smith là điểm cộng lớn cho phim. Tài tử thể hiện được tâm lý của một người cha, một người bạn luôn đồng hành và che chở các con. Richard sống nguyên tắc, có kế hoạch bài bản. Ông kiên định theo đuổi những mục tiêu, có tầm nhìn xa rộng để biết hai con sẽ đạt được thành công thế nào sau khi khổ luyện.
    Có năm người con nhưng Richard không thiên vị ai, luôn tìm cách bảo vệ con trước những cạm bẫy của xã hội. Ông chịu đựng khi bị gangster đánh hội đồng, trước đó ông đã đánh tên cầm đầu vì buông lời khiếm nhã với con gái lớn Tunde. Ông khước từ những hợp đồng béo bở của những kẻ đặt lợi ích của họ lên trên tài năng của con gái mình.
    Richard không bắt các con làm theo ý ông mà dạy họ những bài học thực tế của cuộc sống, để con tự trải nghiệm. Ông dạy con trong bất kỳ tình huống nào cũng phải sẵn sàng đương đầu, vượt qua mọi nghịch cảnh. Ông cho năm người con xem phim hoạt hình Cinderella để học được bài học về sự khiêm tốn. Ông cũng dạy những người con của mình trong cuộc đời không có gì là miễn phí vì mọi thứ luôn đi kèm với điều kiện.
    Một trong những cảnh xúc động của phim là khi Richard cắt ngang buổi phỏng vấn Venus - mới 14 tuổi - trên đài National TV năm 1994, khi người phỏng vấn cố khiến cho cô con gái da màu trẻ tuổi nghi ngờ về tài năng của mình, khi đó Venus mới 14 tuổi. Richard thể hiện ông không phải là người cha dễ nhân nhượng trước những tình huống khiến các con ông bị cuốn theo sự phán xét hay định kiến của xã hội.
    Diễn viên trẻ Saniyya Sidney (Venus Williams) và Demi Singleton (Serena) nỗ lực vào vai hai tay vợt có sức ảnh hưởng của làng thể thao thế giới. Cả hai mất nhiều tháng để học chơi tennis chuyên nghiệp. Saniyya và Demi diễn xuất ăn ý. Trong những cảnh quay riêng của từng nhân vật, Saniyya thể hiện tốt sự tập trung và tinh thần thể thao của Venus khi thi đấu, còn Demi khiến khán giả đồng cảm khi cô e sợ bản thân quá nhỏ bé với chiếc bóng của chị. Bên cạnh hai diễn viên trẻ đầy triển vọng, đạo diễn Reinaldo Marcus Green còn sử dụng những tay vợt thực thụ nhằm làm tăng độ chân thực cho các pha thi đấu.
    Tác phẩm kể theo thời gian tuyến tính, dựng phim phát huy tối đa kỹ thuật chuyển cảnh 'cutting on action', cho thấy được kỹ thuật ghép nhiều góc máy với nhau để tạo nên sự liền mạch cho câu chuyện trong cùng một phân cảnh. Có thể kể đến như những cảnh Venus thi đấu trên sân tennis với những cảnh toàn bao quát sân, trung cảnh Venus phát bóng sau đó lia máy theo chuyển động của cô bé khiến cho người xem cảm giác như được trực tiếp theo dõi trận đấu.
    Việc sử dụng góc đặt máy qua vai (over the shoulder shot) trong những phân cảnh đối thoại đã phát huy khả năng dẫn dắt câu chuyện của bộ phim, biến người xem trở thành một phần của cuộc trò chuyện, tiêu biểu là cảnh đối thoại giữa Rick Macci và nhà Williams trong lần đầu gặp mặt, hay cảnh cãi vã của hai vợ chồng Richard khi ông không đồng ý cho Venus thi đấu chuyên nghiệp.
    Ngoài miêu tả sự khắc nghiệt của những băng đảng ở Compton, King Richard còn lên án nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ. Phim đề cập quá khứ của nhân vật chính, ông từng bị người da trắng nhiều lần đánh đập. Nhà làm phim lấy hình ảnh Richard, Venus và Serena để cất lên tiếng nói cho cộng đồng người da màu, tinh thần nữ quyền. Theo Harper's Bazaar, bài hát Be Alive do Beyonce thể hiện ở cuối phim đã tôn vinh sự kiên cường và những chiến thắng của chị em nhà Williams.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  18. Nội dung
    Kể về Amano Hina trong bệnh viện với mẹ mình, rồi cô trông thấy ánh nắng ở phía xa xa chiếu rọi một khu dân cư bỏ hoang, trên tầng thượng có chiếc cổng cầu nguyện, cô tới đó, tới tầng thượng và cầu nguyện. 
    Chuyển cảnh về nhân vật chính Morishima Hodaka tới Tokyo xin việc làm, nguyên nhân dẫn đến việc này là cậu muốn rời xa gia đình, khi trời mưa đến, cậu ra ngoài để nhận cơn mưa thì bỗng tàu nghiêng ngả vì sóng, cậu xém bị rời con tàu và được Keisuke Suga cứu. Hodaka đãi Suga một bữa vì cứu cậu, Suga đưa cho Hodaka thẻ giới thiệu khi cậu cần giúp đỡ.
    Hodaka đến Tokyo để xin việc, hầu hết mọi người từ chối cậu vì còn quá trẻ, cậu ngủ ở trước cửa một nơi nhà thổ, người ta đuổi cậu đi và cậu vô tình đụng phải thùng rác làm rơi các lon ra ngoài, cậu nhặt vào trong thùng rác thì trông thấy một bịch giấy dán vào nhau và cậu đi vào một nhà ăn hamburger. Mở ra thì trông thấy một khẩu súng nên cậu liền bỏ vào túi, cậu ngủ tại nơi này, rồi Hina tặng cho cậu một bánh hamburger để ăn.
    Rồi cậu đi tìm Keisuke Suga để tìm việc và nơi ở, khi đến văn phòng của Keisuke Suga, Suga không có ở nhà mà chỉ có Natsumi đang ngủ ở đó, rồi cả hai nói chuyện với nhau, Suga về nhà và cũng là lúc cậu nhận được việc tại nơi này.
    Lúc cậu đi thăm con mèo con ở ngoài hẻm, thì vô tình bắt gặp Hina đi cùng hai người mà lúc trước đi vào Club rồi đuổi cậu ra ngoài, cậu vô tình nghe được bọn họ dụ dỗ Hina đi vào nhà thổ liền ra ngăn cản và cùng chạy với Hina, thế nhưng cậu bị hai người kia tóm được và thằng cha lúc trước đó đánh cậu, cậu rút súng ra tự vệ nhưng may là cậu bắn trượt, cậu và Hina trốn vào trong căn nhà bỏ hoang. Cậu và Hina cãi nhau vì rút súng ra thế nhưng cũng làm hòa với nhau vì cậu đã cứu Hina.
    Rồi lý do liên kết nào đó đã dẫn hai người đến với nhau, cũng là lúc tòa soạn của Suga đi tìm cô gái nắng và phỏng vấn những người trông thấy cô gái nắng, Hina đã dẫn Hodaka đi đến một nơi, đó là đền cầu nguyện trên khu dân cư cũ, rồi cô cầu nguyện, ánh nắng mặt trời đến trên sân thượng. 
    Hodaka nảy ý tưởng sử dụng ánh nắng mặt trời để kinh doanh, thế rồi Hina lôi kéo em trai mình là Nagi để kinh doanh kiếm tiền, thế nhưng Natsumi và Suga đến một ngôi đền và được nghe về cô gái nắng – đứa con thời tiết. Cả ba người Hodaka, Hina và Nagi đến một ngôi nhà của người dân để thực ánh nắng mặt trời, cũng như nói với người bà ở đó rằng sẽ thực hiện thêm một vụ ánh nắng mặt trời lần cuối cho sân bóng.
    Suga đã mướn cô gái nắng để thực hiện chơi với đứa con gái của anh, và Hodaka mới vỡ lẽ ra anh là người mướn nhóm cậu để thực hiện, lúc này Hodaka mới biết đến đứa con gái và Natsumi là cháu của Suga, lúc này Natsumi nói với Hina về việc cô gái nắng sẽ tế thần cho mặt trời và Hina mới thật sự buồn.
    Lúc này, sở cảnh sát truy tìm người đàn ông đã dụ dỗ Hina và suýt bị Hodaka bắn, rồi sở cảnh sát đến nhà Hina và nhà Suga để điều tra, khi cảnh sát đến nhà hina, Hina đã nói dối với cảnh sát là không có Hodaka ở đây, đồng thời cảnh sát cũng báo với cô bé là sẽ có người đến bảo hộ cô và đứa em vào sáng mai. 
    Suga chờ Hodaka ở trên xe trước cửa nhà Hina, Nagi nói với Hodaka là anh biết chuyện cảnh sát chưa, sau đó Hodaka vô trong xe nói chuyện Suga, Suga cho biết anh không thể chứa Hodaka ở trong nhà vi hiện tại đang giành quyền nuôi con và không thể xảy ra tình huống xấu nào trong hiện tại.
    Hodaka, Hina và Nagi bắt buộc phải rời bỏ căn phòng hiện tại để bỏ trốn, thế nhưng trong thời tiết xấu nên hầu hết đã hết phòng hoặc không nhận học sinh hoặc dưới 18 tuổi, đang lúc đang đi tìm thì bị cảnh sát đến kiểm tra và Hodaka cố gắng chạy trốn, nhưng bị cảnh sát bắt lại, cũng may Hina đã dùng lời cầu nguyện để sét đánh trúng vào xe tải và thoát được cảnh sát. Rồi cả ba người tìm được khách sạn.
    Trong lúc đó, Hina nói với Hodaka cô là vật tế thần, nếu tế cô thì trời sẽ hết mưa, trong đêm đó cô biến mất, trời nắng lại và cảnh sát đến bắt hai người là Hodaka và Nagi, khi đến sở cảnh sát Hodaka đã xin được đi tìm Hina nhưng cảnh sát không đồng ý, rồi Hodaka bắt buộc phải bỏ trốn. Cảnh sát rượt đuổi theo, may sao lúc đó Natsumi cũng có mặt rồi chở Hodaka chạy trốn, nhưng không may là lúc tới đoạn đường ngập, Hodaka bắt buộc phải chạy trên đường ray.
    Cảnh sát đến văn phòng Suga để tìm Hodaka nhưng Suga bảo không có tại đây, lúc này Suga mới biết Hodaka đã chạy trốn và anh biết Hodaka ở đâu, Nagi bị bắt, cũng may có hai cô bạn gái đến thăm và cải trang để thoát ra khỏi phòng cảnh sát.
    Hodaka đến khu dân cư bỏ hoang gặp được Suga, Suga khuyên nhủ không được, Hodaka bị bắt, nhưng Suga ngăn cản cảnh sát và Hodaka đi đến sân thượng, Hodaka đến đền và cầu nguyện, gặp được Hina và bảo mặc kệ tất cả, thế rồi cả Hodaka đã lôi Hina trở về.
    Thành phố Tokyo ngập ngụt, ba năm sau Hodaka quay lại đi tìm Hina.
    Review
    Tích cực
    Đây là bài viết review thứ hai của mình sau bài viết Review Mary and The witch’s Flower (2017), vì vậy có rất ít kinh nghiệm để review Anime vì vậy mong các bạn lượng thứ cho ạ.
    Khi Weathering With You ra mắt, đạt được khá nhiều thành công và đón nhận từ phía khán giả, cũng như đạt doanh số khá cao, hầu hết là xuất phát từ nội dung hay của Weathering With You cũng như thiêng về tình yêu của thanh thiếu niên. Kèm theo nữa là thần thoại xen kẽ lịch sử Nhật Bản, mặc dù không đi vào chi tiết hóa nhưng được thông qua lời thoại của các nhân vật phụ.
    Weathering With You đã mang lại cho chúng ta cảm xúc nhẹ nhàng, êm dịu từ phía âm nhạc, ý nghĩa về tình cảm bất chấp mọi khó khăn, thử thách và trông thấy những điều trái chiều về cuộc sống, hơn hết, khi xem xong mình nhận ra tình cảm ý nghĩa như thế nào nếu chúng ta thật sự biết yêu và bất chấp cái khó khăn đó để làm mọi thứ.
    Đây không phải là bộ phim duy nhất về tình cảm thiếu niên, nhưng cũng là bộ phim có âm nhạc tạo ra điểm số cao hơn, đồng thời cũng là bộ phim đầu tiên mình có thể cảm thụ âm nhạc và đánh giá cao hơn các bộ phim khác.
    Một điều ý nghĩa nữa là cầu nguyện, hình như đạo diễn Shinkai Makoto đã muốn truyền tải đến cho mọi người là hãy cầu nguyện, mọi thứ sẽ ổn và bầu trời sẽ lắng nghe và sẽ đem lại theo ý muốn của mọi người nếu như thành tâm cũng như thường xuyên cầu nguyện. Rất ít bộ phim đem mang thông điệp là cầu nguyện, ngoại trừ các tôn giáo ra thì các nhà làm phim không bao giờ muốn truyền tải điều này vì người xem chưa muốn hoặc chưa có đất diễn cho hành động này.
    Ý nghĩa khác nữa là mang thông điệp tích cực, niềm tin và tình yêu thì vũ trụ sẽ đáp trả cho ta những thứ xứng đáng với ta, đó là thứ mình yêu thích bộ phim Weathering With You, mang cho người xem vừa nhẹ nhàng, vừa mang thông điệp từ bầu trời, cũng như tinh thần và tình yêu giữa cặp đôi thuần khiết. Hãy bảo đảm rằng những điều bạn mong muốn, nhắc đi nhắc lại trong tiềm thức, đó gọi là Luật Hấp Dẫn – hay nói cách khác gọi là Luật xứng đáng những thứ bạn có. 
    Thì với Hodaka, một cậu nhóc, mang tình yêu nặng tình với Hina, và cái xứng đáng đã và đang diễn ra với cậu, vì vậy Weathering With You đã gần như nhắc rằng, những thứ xứng đáng luôn là những thứ phải mất đi điều gì đó để nhận lại điều lớn lao, nếu không, hiện tại cũng chỉ có thế, với thứ mong muốn lớn lao sẽ không đến nếu chúng ta không hành động hoặc hướng về nó.
    Mặt khác cũng truyền tải đến thông tin về môi trường, còn nhiều điều về bầu trời cũng như biển cả mà con người chưa thật sự khám phá hết, sự hủy hoại sẽ dẫn hậu quả khó lường, để nhận được một điều gì đó từ ánh nắng mặt trời sẽ phải đánh đổi, không phải thứ cho không là miễn phí, thứ mong muốn điều có được.
    Bối cảnh
    Bối cảnh thuộc thành phố Tokyo, trọng tâm của các nhân vật là 5 nhân vật quan trọng, 6 nhân vật phụ – những nhân phụ này chủ yếu dẫn dắt vào cốt truyện khá quan trọng,  do đó tuy các nhân vật ít trong bối cảnh lớn, cho tới thành phố bị ngập lụt vào trong giây phút cuối, nhưng đã làm tốt vai trò, không dẫn đến nhân vật quá ít mà không gian rộng tạo ra cảm giác cô độc – cái này nói rõ thêm là có rất nhiều bộ phim cũng lấy bối cảnh rộng và nhân vật ít nhưng cũng tạo ra cho người xem cảm thấy như thành phố chết hoặc là quá chú trọng vào các tuyến tính nhân vật mà các nhân vật dàn cảnh trong phim như là làm cho có.
    Do đó Weathering With You đã tạo ra một bầu không khí không quá cô độc hoặc lạc loài giữa chốn đông người, nhưng ngược lại cũng tạo ra người khác cảm giác vui tươi như sau cơn mưa trời lại sáng vậy.
    Đặc biệt là không có một chút nét nào của tăm tối xuyên suốt trong phim – khi mà hầu hết các bộ phim nhẹ nhàng cho tới tăm tối thì việc cơn mưa luôn là một thứ gì đó thuộc về buồn bã, vì vậy mình cảm thấy bộ phim Weathering With You nhẹ nhàng từ đầu cho chí cuối không một chút buồn bã dù Hodaka và Hina rời xa nhau khoảng ba năm trời hay cho tới lúc cảnh Hina biến mất và để lại hai người ở trong phòng.
    Tóm lại, bối cảnh Weathering With You đã thành công về mặt bối cảnh không gian mà hầu hết các bộ phim khác dễ mắc phải sai lầm.
    Đồ họa
    Về mặt đồ họa thì có thể nhận ra Anime đã phác họa trên máy tính, các tòa nhà, đường ray, thuyền, pháo hoa và ánh nắng cực kỳ đẹp mắt và 3D hóa, dù vậy cũng không hẳn là 3D cả luôn nhật vật, mà các nhân vật thì được vẽ bằng tay do đó chúng ta cũng không thấy được chiều không gian nhân vật như các tòa nhà và pháo bông được chiếu ra. Mình thấy hầu hết các nhân vật 3D thường không được đẹp như vẽ bằng tay, thật đấy, hay tại mình chưa chứng kiến bộ phim 3D thuộc Anime nào?
    Tóm lại, màu sắc tươi sáng, lấy màu xanh dương da trời làm trọng tâm, màu tối cũng không hề có (hoặc rất ít) tạo ra một bộ phim tình cảm lãng mạn thời niên thiếu.
    Âm nhạc
    Thật ra mà nói mình thấy nền nhạc trong phim rất nhẹ nhàng, êm dịu, thậm chí mình cực kỳ thích bài The Taste Of Kindness, làm mình gợi nhớ về game DEEMO, đây là game dẫn mình đến những khoảng cách nhẹ nhàng và thanh tịnh, sau khi bạn xem xong bộ phim, hãy đến nghe các bài hát tại đây để cảm nhạc đầy đủ hơn nhé.
    Tiêu cực
    Đây là bộ phim thuộc thể loại tình cảm lấy thần thoại Nhật Bản làm nền cho câu chuyện, thế nhưng việc lấy thần thoại làm nền và các nhân vật phụ khác kể về đứa con thời tiết khá mơ mờ, tới cuối phim chúng ta được biết trước đây 200 năm có xảy ra hiện tượng tương tự như vậy nhưng không kể nốt và tạo cho nhân vật chính tự hỏi. 
    Mình không có ý kiến về việc này nhưng về việc nội dung thần thoại vốn dĩ từ đầu cho tới cuối khá nông, tức là không có chiều sâu hơn thế nữa, kiểu làm nền và sẽ không bao giờ có một câu trả lời nào sẽ xảy ra và để cho người xem tự thắc mắc, thế nhưng chiêu bài này khá là được nhưng trong trường hợp lấy thần thoại làm nền tảng thì sẽ bị dội ngược. Do đó sẽ khiến cho người xem thích thú nhưng không ấn tượng gì về đứa con gái mưa, ý mình là người xem sẽ tự hỏi là cách nào và trước đây là chuyện gì, làm sao có thể giải quyết được nó?
    Hầu hết các đánh giá thấp điều xuất hiện nội dung chưa khai thác hết, cũng như chứa quá nhiều điều nhưng chỉ xuất hiện ở bề mặt mặt nước, chính vì vậy, trong khoảng 1 tiếng đồng hồ khi xem, chúng ta sẽ nhận ra điều đó, nhẹ nhàng, dễ hiểu và cảm động, nhưng chưa thật sự thuyết phục ta ở bên trong nội dung, cụ thể hơn là thần thoại, cho ra cái kết cục mở sau này. 
    Vấn đề lại nằm ở cái kết cục, thì có thể đạo diễn Shinkai Makoto muốn người xem đoán kết cục cho cả thành phố sau này lẫn cả tình cảm, tuy nhiên, không hẳn bộ phim nào cũng có thể làm tốt điều này, và bộ Weathering With You nằm trong số các bộ phim chưa làm tốt kết thúc phim.
    Kiểu như thế, bộ phim Weathering With You đã làm tốt vai trò của mình là kể câu chuyện tình cảm của cậu nhóc và cô bé, dù vậy nội dung và thần thoại chưa thật sự có chiều sâu nhưng không thể vì thế mà đánh giá thấp bộ phim Weathering With You được.
    Tóm lại
    Đây là bộ phim Anime tình cảm nhẹ nhàng, nếu như bạn có người yêu, hãy xem cùng với người đó nhé, còn không có cũng không sao, xem xong bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng với âm nhạc của Weathering With You đem lại sẽ làm cho bạn thư giãn và yêu mến bộ phim hơn, cũng như sẽ khiến cho bạn tìm hiểu về Anime nhiều hơn là dừng tại bộ phim này.
    Tóm lại Weathering With You xứng đáng là một Anime của năm 2019, với tình cảm và nhiều thông điệp khác nhau, sẽ không phí thời gian dành cho bạn.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  19. "Robot Carnival" (1987) là một bộ phim hoạt hình anthology Nhật Bản, bao gồm nhiều câu chuyện ngắn về robot, được sản xuất bởi một nhóm các đạo diễn và họa sĩ nổi tiếng. Phim được chia thành tám phần, mỗi phần có phong cách và thể loại khác nhau, từ hành động đến hài hước và cả bi kịch.
    Câu chuyện chung xoay quanh một lễ hội robot, nơi mà những cỗ máy và công nghệ thể hiện sự sáng tạo và khả năng của con người. Mỗi đoạn phim khám phá những khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa con người và robot, cũng như những cảm xúc và trải nghiệm mà chúng mang lại.
    Một số phần trong phim nổi bật với hình ảnh ấn tượng và âm nhạc đầy cảm xúc, mang đến cho người xem những trải nghiệm độc đáo. "Robot Carnival" không chỉ thu hút người xem bởi kỹ thuật hoạt hình tinh xảo mà còn bởi những thông điệp sâu sắc về công nghệ, tình cảm và bản chất con người. Bộ phim đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại hoạt hình khoa học viễn tưởng.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  20. "Epic" không còn là một từ thường xuyên được dùng để miêu tả các tác phẩm điện ảnh. Vào thập niên 50 và 60, đây là tên gọi dành cho nhưng bộ phim phiêu lưu sử thi như Ben-Hur hay Lawrence of Arabia, với quy mô khổng lồ, kỳ vĩ tới mức huyền ảo.
    Nhưng giờ đây, với sự phát triển của công nghệ kỹ xảo, điện ảnh dường như lại tập trung hơn vào những "set piece" công phu, thay vì muốn nhấn chìm khán giả vào một không gia rộng lớn.
    Dune và Dune: Part Two vì thế sừng sững hiện lên như một ngoại lệ. Chuyển thể từ tác phẩm kinh điển năm 1965 của Frank Herbert, hai bộ phim đưa khán giả tới một thế giới xa xôi, mênh mông tới nỗi chỉ có thể được ghi lại trên khổ phim 70mm.
    Giống như người tiền thân, Dune: Part Two là một bản thiên hùng ca uy nghi hùng vĩ gây choáng ngợp mọi giác quan, dày đặc về mặt nội dung với những yếu tố trải dài từ chính trị tới tôn giáo. Nhưng khác với phần một, Dune: Part Two có phần lộn xộn hơn, nhưng cũng giàu cảm xúc và đậm tính con người hơn rất nhiều.
    Đối với những khán giả chưa xem phần một, thì 165 phút của Dune: Part Two sẽ là khoảng thời gian phải căng não. Bởi lẽ bộ phim không tốn giây phút nào để nhắc lại nội dung của Dune, mà kể tiếp câu chuyện ngay sau cái kết đột ngột của phần một.
    Năm 10191 tại hành tinh sa mạc Arrakis. Gia tộc Atreides vừa bị tàn sát bởi nhà Harkonnen, dưới sự chỉ đạo của lão Nam tước Vladimir (Stellan Skarsgård). Harkonnen giành lại Arrakis để tiếp tục thu hoạch Hương dược, một loại tài nguyên quý giá có khả năng kéo dài tuổi thọ, gây ảo giác và cho phép du hành không gian.
    Như lời dẫn truyện đầu bộ phim đã nói: "Ai kiểm soát Hương dược, kiểm soát tất cả."
    Nhưng Paul Atreides (Timothée Chalamet) và mẹ vẫn còn sống sót ngoài sa mạc cằn cỗi, được tiếp đón bởi tộc người bản địa Fremen.
    Nhiều người Fremen tin rằng Paul là Lisan al-Gaib, một vị cứu tinh trong truyền thuyết sẽ giúp họ giành lại được Arrakis, biến hành tinh này thành một thiên đường. Nhưng Paul biết rằng lời tiên tri này thực chất được gieo mầm bởi các Bene Gesserit, một dòng nữ tu vốn từ lâu đã âm thầm thao túng chính trị của vũ trụ.
    Và những ảo mộng về tương lai cảnh báo Paul rằng nếu hiện thực hóa vận mệnh như lời tiên tri, cậu sẽ mở ra một cuộc thánh chiến và tàn sát cả vũ trụ.
    Song Paul vẫn cần sự ủng hộ của người Fremen, nếu cậu muốn thành công trong con đường trả thù nhà Harkonnen và Hoàng đế Shaddam IV (Christopher Walken), người đã bí mật tiếp tay sát hại nhà Atreides.
    Tượng đài mới của dòng phim khoa học viễn tưởng
    Dune: Part Two là một tượng đài tham vọng tới khó tin của thể loại khoa viễn tưởng và điện ảnh nói chung, là một trải nghiệm phi thường nhấn chìm giác quan và trí tưởng tượng của khán giả vào một thế giới không tồn tại.
    Qua ống kính của đạo diễn hình ảnh Greig Fraser cùng sự kết hợp tài tình giữa công nghệ kỹ xảo và hiệu ứng thực tế, những đụn cát sa mạc, những con sâu khổng lồ, những cỗ máy thu hoạch Hương dược thô kệch hiện lên hùng vĩ tráng lệ, biến khán giả trở nên tí hon và bất lực trước quy mô khổng lồ của từng thước phim.
    Các phân cảnh hành động của Dune: Part Two, từ Paul cưỡi sâu rẽ cát dọc sa mạc, tới trận đánh du kích của tộc người Fremen, được đẩy lên một tầm cao mới với những điệu nhạc tựa sấm rền của Hans Zimmer.
    Ngược lại, những đụn cát với tinh thể Hương dược phảng phất trong gió, đi kèm với những nốt nhạc tí tách như tiếng lấp lánh của kim cương, lại đem đến một vẻ huyền ảo như thể chính khán giả đang được trải nghiệm thứ tài nguyên gây ảo giác này.
    Đạo diễn Denis Villeneuve muốn cho thấy đây là một cuộc chiến âm hưởng khắp vũ trụ, và vì vậy đưa khán giả tới nhiều hành tinh khác nhau như Arrakis, Kaitain hay Caladan, mỗi nơi đều sặc sỡ một cách riêng biệt. Vậy nhưng địa điểm gây trầm trồ nhất lại chỉ sử dụng màu sắc ở hai điểm cực của dải quang phổ.
    Đó là tại hành tinh Geidi Prime của gia tộc Harkonnen, nơi tên phản diện Feyd-Rautha được giới thiệu qua một trận giác đấu. Toàn bộ đấu trường được phủ một màu đen trắng rùng rợn, tạo cảm giác nơi này khắc nghiệt và quỷ quyệt tới nỗi màu sắc cũng không thể tồn tại.
    Dune: Part Two có thể là một bộ phim yêu cầu sự tập trung dài hạn của khán giả, nhưng một khi đã chiêm ngưỡng, khó ai có thể rời mặt khỏi màn hình.
    Câu chuyện giàu cảm xúc và đậm tính con người
    Yếu tố hình ảnh, dù kỳ vĩ tới đâu, không thể là thứ khiến Dune: Part Two đột phá quá nhiều so với người tiền nhiệm, và 6 tượng vàng Oscar ở các hạng mục kỹ thuật của phần một là minh chứng cho điều này. Thứ tách biệt Dune: Part Two, là một câu chuyện giàu cảm xúc và đậm tính con người hơn.
    Dune và Dune: Part Two, vừa là hai phần phim chiến tranh khoa học viễn tưởng, nhưng cũng là một câu chuyện coming-of-age hay tuổi mới lớn của Paul Atreides (trong tiểu thuyết, Paul mới chỉ 15 tuổi). Nếu phần một Paul chỉ như một nạn nhân bị động liên tục bị cuốn theo những biến cố của câu chuyện, thì ở Dune: Part Two, khán giả thấy rõ được sự xung đột bên trong cậu.
    Được thể hiện đầy tinh tế bởi Timothée Chalamet với một sự yếu đuối và mông lung của tuổi trẻ ẩn sau vẻ duyên dáng đầy lôi cuốn, khán giả thấy rõ Paul đang đứng giữa hai lựa chọn mà cậu biết đều không hoàn toàn tốt. Chi tiết này đẩy câu chuyện mang "motif" đã lạc hậu về Người được chọn hay Đấng cứu thế da trắng trở nên dễ đồng cảm hơn.
    Bên cạnh Paul là Chani (Zendaya), người đã được trao cho một vai trò thực sự sau khi gần như chỉ xuất hiện trong những ảo mộng ở phần một. Nữ chiến binh Fremen đóng vai trò mỏ neo tới nhân tính của Paul, (cố gắng) nhắc nhở cậu không bị trôi quá xa trong vô vàn những lời hô hào từ các giáo đồ.
    Mối quan hệ thân thiết ngoài đời thực của Timothée Chalamet và Zendaya thẩm thấu vào vai diễn, tạo cảm giác liên kết thực sự giữa hai nhân vật, giúp tình yêu của họ
    Và đó là chưa kể tới màn hóa thân rợn tóc gáy của Austin Butler trong vai tên tâm thần máu lạnh Feyd-Rautha; Công nương Jessica (Rebecca Ferguson) người đang ngày một trở nên quyền lực và bí hiểm với những toan tính mờ ám của riêng mình; hay "ông chú" Stilgar (Javier Bardem), nhân vật khiến bao khán giả phải bất ngờ bật cười mỗi lần ông tung hô Paul.
    Chưa phải cái kết?
    Dune: Part Two không phải không có những khiếm khuyết. Bộ phim, giống phần một, thêu dệt nên một câu chuyện dày đặc với quy mô khổng lồ, chứa đựng những yếu tố vĩ mô như địa chính trị hay thánh chiến. Vì vậy nên đôi khi, kịch bản của bộ phim cảm giác chật chội vì bị nhồi nhét quá nhiều.
    Một phần ba cuối của bộ phim diễn ra gấp gáp như thể thiếu mất một vài phân cảnh quan trọng. Thế nhưng ít nhất khi đang ngồi trong rạp chiếu phim, hiếm khán giả nào sẽ để ý quá về điều này, khi ai cũng đang bận trầm trồ trước những kỳ quan trên màn ảnh.
    Dune: Part Two là tác phẩm chuyển thể khép lại cuốn tiểu thuyết gốc của Frank Herbert, nhưng chắc chắn sẽ chưa phải cái kết của câu chuyện mà Denis Villeneuve muốn kể. Nếu được "bật đèn xanh", một viễn cảnh rất khả thi nếu xét về thành công mà Dune: Part Two đang nhận được, thì bộ phim thứ ba sẽ chuyển thể tác phẩm Dune: Messiah. Khi đó, câu chuyện của Paul Atreides, ít nhất là Paul Atreides của Timothée Chalamet mới khép lại.
    Có thể lại là ba năm nữa, hoặc cũng có thể là sớm hơn.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  21. "American Underdog" (2021) là một bộ phim tiểu sử thể thao kể về cuộc đời của Kurt Warner, một cầu thủ bóng bầu dục nổi tiếng, người đã trải qua nhiều thử thách để trở thành một trong những quarterback xuất sắc nhất trong lịch sử NFL.
    Bộ phim theo chân Kurt từ những ngày đầu khó khăn, khi anh không được chọn vào đội bóng đại học và phải làm việc để kiếm sống. Mặc dù gặp nhiều trở ngại, bao gồm cả việc chăm sóc gia đình và tìm kiếm cơ hội chơi bóng, Kurt không từ bỏ ước mơ của mình.
    Phim cũng khai thác mối quan hệ của anh với người vợ Brenda, người luôn ủng hộ và động viên anh trong hành trình theo đuổi sự nghiệp bóng đá. Qua những thử thách và thất bại, Kurt cuối cùng đã có cơ hội tham gia NFL và nổi lên như một ngôi sao, đưa đội bóng của mình đến Super Bowl.
    "American Underdog" không chỉ là một câu chuyện về thể thao mà còn là thông điệp về niềm tin, sự kiên trì và sức mạnh của tình yêu gia đình.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  22. "The Guns of Navarone" (1961) là một bộ phim chiến tranh và phiêu lưu dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Alistair MacLean. Câu chuyện diễn ra trong Thế chiến II, khi một nhóm lính Đồng minh được giao nhiệm vụ phá hủy hai khẩu đại bác khổng lồ của Đức nằm trên một hòn đảo ở Biển Aegean. Những khẩu súng này có khả năng tiêu diệt tàu chiến của Đồng minh, đe dọa một chiến dịch cứu hộ quan trọng.
    Đạo diễn J. Lee Thompson đã khéo léo tạo nên một không khí căng thẳng và kịch tính, với sự tham gia của các diễn viên nổi tiếng như Gregory Peck, David Niven và Anthony Quinn. Nhóm lính phải đối mặt với nhiều thử thách, bao gồm địa hình hiểm trở, sự giám sát của quân Đức và những mâu thuẫn nội bộ. Bộ phim không chỉ xoay quanh hành động mà còn khai thác sâu sắc các chủ đề về tình bạn, lòng dũng cảm và sự hy sinh.
    Với kỹ xảo đặc sắc và cốt truyện hấp dẫn, "The Guns of Navarone" đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại phim chiến tranh.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  23. Kết thúc của Dune dừng lại trong cuộc đấu trí căng thẳng và để lại khá nhiều thứ chưng hửng, băn khoăn cho khán giả. Dune: Part One được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết của nhà văn Frank Herbert vào năm 1965, tác phẩm từ khi ra đời đã tạo ra nhiều tiếng vang cũng như mang về không ít giải thưởng danh giá. Một kiệt tác khoa học viễn tưởng đề cập đến những vấn đề lớn của nhân loại như chủ nghĩa thực dân, chính trị, tôn giáo, xã hội học. Phần kết của Dune(2021) chỉ kết thúc ở việc giải quyết nửa đầu của cuốn tiểu thuyết, chính vì lẽ đó nó đã gây nên không ít tranh cãi khó chịu cho người xem, ngược lại nhìn một cách tích cực, đó là tín hiệu của một phần phim hấp dẫn tiếp theo đang chờ đợi chúng ta từ đạo diễn Villeneuve. 
    Không dẫm lại bước chân sai lầm của David Lynch, Dune của Villeneuve nhận được nhiều đánh giá khởi sắc hơn. Part One kết thúc khi Paul và Jessica chạm trán với người Fremen. Sau khi gần như thoát chết trong gang tấc dưới sự truy lùng của lực lượng Harkonnen và Sardaukar, Paul tự tay giết chết Jamis và cùng người mẹ gia nhập bộ tộc dưới sự dẫn dắt của Stilgar. Chani do Zendaya thủ vai khi chứng kiến điều này đã đưa ra nhận xét Đây mới chỉ là sự khởi đầu của hành trình bọn họ chuẩn bị tiến vào sa mạc Arrakis. 
    Những hạn chế nhất định sẽ xảy ra khi chuyển thể một tác phẩm khoa học viễn tưởng dày đặc thông tin và những thứ mới mẻ cần được khám phá như thế này. Chính vì điều đó, tác phẩm văn học khi được xây dựng thành phim cũng mang đến nhiều chi tiết hoặc khoảnh khắc khó nắm bắt đến với khán giả, mà đó sẽ càng đúng với những người chưa từng thưởng ngoạn trước bộ tiểu thuyết này cũng như nắm bắt được các thuật ngữ của riêng Dune. Đơn giản là bộ phim không thể giải thích rõ các nghĩa tường tận chỉ trong thời lượng 2 tiếng rưỡi của, điều đó mang đến nhiều băn khoăn và để lại dấu hỏi lớn trong lòng người xem. Phần lớn những câu hỏi bỏ ngỏ của Dune xuất phát từ những sự kiện và cuộc trò chuyện bị bỏ sót từ tiểu thuyết, may mắn là bộ phim vẫn xây dựng trung thành sát với nguyên tác nhất. Và những câu trả lời phần khuyết của bộ phim sẽ không cần tìm đâu đấy xa xôi mà nó nằm chính trong những trang sách kiệt tác của Frank Herbert. 
     1. Giáo phái Bene Gesserit đóng vai trò như thế nào đối với Paul và Jessica ở Arrakis?
    Trong bản Dune của Frank Herbert, Lệnh bà Jessica nhận được hướng dẫn từ Bene Gesserit phải hạ sinh con gái cho Công tước Leto, đó như một phần của kế hoạch nhân giống kéo dài hàng thế kỷ nhằm đánh thức sự sống của Kwisatz Haderach, một nam nhân hội tụ yếu tố gen vượt trội không bị giới hạn bản sắc di truyền của nữ giới. Tuy nhiên, Jessica đã bất chấp mệnh lệnh và sinh ra Paul, khiến cho Kwisatz Haderach được tạo ra quá sớm. Đây chính là lý do Paul của Dune có những giấc mơ kỳ lạ và khả năng nhìn về tương lai lẫn quá khứ. Cũng chính điều đó, Mẹ Gaius Helen Mohiam đã thử nghiệm gom jabbar trên người Paul. 
    Sau bài thử kiểm tra, Mohiam nói với Jessica rằng Bene Gesserit sẽ làm tất cả những gì họ có thể để vạch ra con đường sáng suốt, dẫn dắt Paul khi ở Arrakis. Đó là tình tiết đề cập đến Missionaria Protectiva, một nhánh của Bene Gesserit cũng nhằm gieo rắc niềm tin mê tín và mang đến những lời tiên tri để hỗ trợ cho thế lực chính trị của phụ nữ. Mặc dù, thuật ngữ Missionaria Protectiva không hề được nhắc đến trong phần reboot của Dune, nhưng đây có thể xem là một lời lý giải cho việc tại sao nhiều người Fremen và nhiều người dân khác ở hành tinh Arrakis coi Paul như một Đấng Tối Cao. Đây cũng là một phần của kế hoạch của Bene Gesserit nhằm tạo đường cho Kwisatz Haderach. 
    2. Hai cận thần Gurney Halleck và Thufir Hawat của Công tước Leto liệu còn sống sót? 
    Sau khi gia tộc Harkonnen tấn công gia tộc Atreides, Dune không hề có bất cứ tình tiết nào đề cập đến hai nhân vật Gurney Halleck và Thufir Hawat. Trong sách, bậc thầy vũ khí Halleck vẫn còn sống sót sau cuộc chiến, nhưng bị vỡ mộng khi chứng kiến sự sụp đổ của Atreides, ông đã trở thành một tay buôn lậu. Trong một lần bị bắt bởi người Fremen, ông đã có dịp hội ngộ với Paul và quyết định thực hiện tôn chỉ trung thành với vị Công tước trẻ tuổi. Trong lúc đó, Hawat lại đầu quân trở thành cố vấn cho gia tộc Harkonnen.
    Đáng chú ý, sự vỡ mộng của Halleck cũng bắt nguồn từ việc ông nghi ngờ Lệnh bà Jessica chính là gián điệp của Harkonnen. Và Hawat cũng buộc tội Jessica phản quốc ngay cả trước khi âm mưu của Harkonnen bị bại lộ. Quay trở lại với phần phim, sự tồn tại của cả hai nhân vật này vẫn là một băn khoăn lớn, họ vẫn có thể trở lại trong phần phim tiếp theo và mang đến nhiều rắc rối cho Jessica.  
    3. Tại sao Hoàng đế Padishah lại phản bội gia tộc Atreides? 
    Hoàng đế Padishah chính là người đã ban mệnh lệnh cho gia tộc Atreides trị vì Arrakis, người có công trong cái bẫy của Harkonnen. Tuy được nhắc đến tương đối nhiều nhưng Hoàng đế chưa bao giờ thật sự xuất hiện trong phim, và cũng không có một lời giải thích rõ ràng nào việc ông ta đã cho phép Harkonnen tiêu diệt toàn bộ một gia tộc quyền uy như thế, thậm chí còn cho phép Sardaukar tham gia vào cuộc chiến. 
    Trong sách được tiết lộ rằng Hoàng đế Shaddam IV của gia tộc Corrino không có người thừa kế là nam giới, chính vì thế hai gia tộc Atreides và Harkonnen chính là mối nguy hiểm tiềm tàng đe dọa triều đại tồn tại hơn 10000 năm của họ. Tuy nhiên, Hoàng đế của Dune coi Atreides là mối đe dọa với quyền lực lớn hơn rất nhiều so với Harkonnen. Hơn nữa, gia tộc Harkonnen không chỉ giàu mạnh mà còn đủ sự xảo quyệt của giúp Hoàng đế loại trừ Atreides. Vai trò của Hoàng đế ở Arrakis có lẽ sẽ được gợi mở hơn ở phần phim tiếp theo, hoàn thành nửa sau của cuốn tiểu thuyết. 
    4. Chính xác thì người Fremen điều khiển được Sâu Cát bằng cách gì? 
    Mối nguy hiểm tiềm tàng được tôn vinh là những bậc thầy thực thụ ở Arrakis chính là những con Sâu Cát khổng lồ lang thang dưới vùng sâu của sa mạc, được người Fremen gọi là Shai-Hulud. Trong đoạn trailer, Dune cho khán giả thấy người Fremen đang cưỡi Sâu Cát, thực tế trong phim Jamis đã xuất hiện trước mặt Paul khi anh ấy đang mang trong người một chiếc móc, chính là dụng cụ người Fremen dùng để điều khiển trên lưng Shai-Hulud. Tuy nhiên, suốt quá trình diễn biến bộ phim không thật sự cho khán giả thấy được người Fremen điều khiển Sâu Cát bằng cách nào và chỉ đưa đến những phân đoạn khi mọi sự đã diễn ra xong xuôi cả rồi. 
    Theo nguyên tác, người Fremen dẫn dụ những con Sâu Cát bằng dùi gọi, tạo ra những nhịp điệu lặp đi lặp lại nhiều lần khiến Shai-Hulud không thể cưỡng lại được. Sau khi thực hiện trôi chảy sự kêu gọi đó, người Fremen dùng dây thừng và móc để đặt lên lưng nó và điều khiển. Chiếc móc có thể sử dụng để đưa Sâu Cát đi đến hướng mà người lái muốn di chuyển. Phần phim đầu tiên chỉ lột tả sơ qua về sự nguy hiểm tiềm tàng cũng như giới thiệu lướt qua phần người Fremen có thể điều khiển Sâu Cát, thì ở phần phim tiếp theo chúng ta có thể hy vọng nhiều tình tiết về sinh vật bí ẩn này sẽ được tiết lộ qua góc nhìn của Paul. 
    5. Fremen Sietch trông như thế nào? 
    Duncan Idaho sau chuyến dò thám của mình, đã mô tả với Công tước Leto nơi người Fremen sinh sống. Đó chính là ngôi nhà hoặc những hốc đá rộng lớn ẩn dưới lòng đất, chứa được đến hàng nghìn con người và có được những khe nước sâu quý hiếm ẩn trong sa mạc. Phần phim đã khép lại khi nhóm người Fremen dẫn đầu là Stilgar đồng ý dẫn Paul và Jessica đến nhà của họ. Dune: Part Two sẽ dựa trên nửa sau còn lại của quyển tiểu thuyết, khả năng cao là nó sẽ tiết lộ sietch - nơi sinh sống của người Fremen trông như thế nào và thậm chí là cách chúng hoạt động ra sao. 
    Trong sách, Fremen sietch là một thành phố rộng lớn dưới lòng đất, các lối vào được bảo vệ bởi những lớp màn chống ẩm. Bên trong, người Fremen phát triển các công nghệ bảo quản nguồn nước khác nhau, thực hiện các nghi lễ thần bí và tiêu thụ Spice (Hương dược), xem nó như một phần gia vị thiết yếu trong các bữa ăn thường ngày. 
    6. Tiến sĩ Liet Kynes là mẹ của Chani? 
    Tiến sĩ Liet Kynes là người hỗ trợ Atreides trong việc quản lý Arrakis và cả khi lánh nạn khi gia tộc Harkonnen tấn công. Theo tiểu thuyết, Liet Kynes ban đầu là nam, sau đó được tiết lộ là cha của Fremen Chani (Zendaya). Đây chính là lý do mà các fan của tác phẩm này lại đặt ra câu hỏi lớn liệu Liet Kynes trong Dune có phải thật sự là mẹ của Chani hay không. Và nếu câu trả lời là phải, nó có thể xảy ra nhiều giả thuyết có ảnh hưởng lớn đến mạch phim chính, kể cả với câu chuyện của Liet Kynes hay mối quan hệ với những đứa trẻ của Paul và Chani. 
    Trong Dune, tính linh cảm được cảm nhận phân biệt khác nhau giữa hai giới nam và nữ, thể hiện ở việc giáo phái Bene Gesserit chỉ có thể truy cập chính xác ký ức của tổ tiên là giới nữ. Nếu Tiến sĩ Liet Kynes có cùng dòng dõi với những đứa con của Paul và Chani, thì sự giới hạn này sẽ được phá bỏ và nó sẽ còn gợi mở được rất nhiều vấn đề khác nữa. Cuốn sách thứ ba của Frank Herbert Children of Dune đã đề cập rất nhiều về những đứa con sau này của Chani và Paul, nhưng nó không nằm trong quyển mở đầu, vì thế điều này khó có thể được khai thác ở phần phim tiếp theo. 
    7. Dune (2021) có phải là lần cuối để chúng ta thấy được Duncan Idaho? 
    Trong Dune, chiến binh dũng cảm của Atreides là Duncan Idaho đã chiến đấu tới hơi sức cuối cùng với bọn người Sardaukar, nhằm giúp Paul và Jessica có thời gian tẩu thoát. Tuy nhiên, cũng có nhiều khả năng cho rằng Duncan sẽ trở lại vào một phần phim khác của Villeneuve, nếu mọi thứ được dựa theo nguyên tác trong quyển sách thứ 2 Dune: Messiah. Trong phần truyện đó, Duncan đã tái sinh thành một con ma cà rồng, sau đó được mang tặng cho Paul bởi Bene Tleilax. 
    Trên thực tế, cái chết của Duncan trong phim chỉ là một trong những cái chết mà nhân vật này phải trải qua vô số lần trong các cuốn sách tiếp theo của Frank Herbert. Và sau mỗi lần tái sinh, anh ta đều biến thành ma cà rồng. 
    8. Tại sao Paul luôn nhìn thấy hình ảnh con chuột ở Xứ Cát? 
    Lần đầu tiên Paul bắt gặp hình ảnh con chuột trong sa mạc là nhờ vào những cuốn phim tài liệu ba chiều anh xem khi ở Arrakis. Lần tiếp theo hình ảnh con chuột lại xuất hiện một lần nữa khi anh ấy cùng mẹ Jessica ẩn náu trong sa mạc khi gặp nguy. Con chuột được đại diện cho một biểu tượng kiên cường trong sa mạc, chúng có thể cảm nhận được sự chuyển động của Sâu Cát và đôi tai có thể hấp thụ được không khí hơi ẩm ở sa mạc. 
    Trong sách, người Fremen gọi những sinh vật này là muad’dib. Điều này gợi nhắc đến việc Paul cũng được gọi là Muad’dib trong những phân đoạn hồi tưởng ở đầu các chương sách đầu tiên. Cái tên này do chính Paul đã chọn khi người Fremen chấp nhận sự gia nhập của anh trong cộng đồng, vì muad’dib của sa mạc là biểu tượng của sự kiên cường và trí tuệ. 
    9. Paul nhìn thấy được một cuộc chiến nổ ra với danh nghĩa của anh ấy? 
    Những hình ảnh tiên đoán về tương lai đã cho Paul thấy chuẩn bị có một cuộc chiến chuẩn bị nổ ra dưới danh nghĩa của anh ấy là dấu hiệu biểu hiện tính linh cảm bí ẩn của nhân vật này. Trong Dune của Frank Herbert, những hình ảnh mà Paul đã thấy về cuộc chiến đó đã thật sự diễn ra trong phần cuối của cuốn sách đầu tiên. Khi Paul trở thành Hoàng đế và cai trị Arrakis, người Fremen và những dòng dõi thân cận khác đã lấy danh nghĩa của Paul để phát động cuộc chiến tranh với các thiên hà khác nhằm chinh phục khắp vũ trụ. Lúc này, Paul không còn khả năng để ngăn chặn sự diệt chủng mà cuộc chiến mang lại.
    Tuy nhiên, nếu lạc lối trên con đường này sẽ buộc phải hy sinh tính mạng của cả Paul hoặc Jessica, Paul đã cố gắng vượt qua và sử dụng khả năng nhìn thấy tương lai của mình một cách khôn ngoan hơn. Nó giúp anh giảm thiểu thiệt hại trong các cuộc chiến. Viễn cảnh mà Paul nhìn thấy được ở những cuộc chiến tương lai không chỉ đơn giản là những điềm báo, chúng còn cho thấy sự cân bằng trong khả năng lãnh đạo của Paul, sức nặng chàng Công tước trẻ tuổi phải gánh vác khi góp phần trong những sự kiện lịch sử và trở thành Đấng Tối Cao của Dune.
    10. Tại sao lính tráng trong Dune không dùng súng mà chỉ dùng kiếm
    Công nghệ cao luôn là điều hiện hữu trong tâm trí khán giả khi nhắc đến thể loại phim khoa học viễn tưởng. Và nó được thể hiện thông qua những vũ khí "siêu ngầu" mà hai bên dùng để "choảng nhau". Nhưng tiếc thay, trong Dune chỉ có những thanh kiếm và tấm áo giáp có vẻ là công nghệ cao, mà những thanh gươn này còn không phải những thanh gươm ánh sáng huyền thoại của các Jedi. Một câu hỏi đặt ra tại sao súng ống hiện đại lại vắng mặt ở Dune?
    Dune là một quyển sách vô cùng khó chuyển thể, "vô cùng" đã là một cách nói giảm. Một điều mà phiên bản của Villeneuve đã đúng là bản chất của hành động trong vũ trụ Dune. Lý do chính khiến thế giới có rất ít vũ khí đạn đạp là vì có một tấm chắn năng lượng cá nhân rẻ và sẵn có bao bọc quanh cơ thể người đeo nó và bảo vệ họ khỏi gần như tất cả các loại vũ khí bắn đạn. Nó đủ nhỏ và di động để vừa với một chiếc vòng tay và có thể được bật lên ngay lập tức. Tất cả binh lính và mọi thành viên của một gia đình quý tộc đều mang một chiếc. Holtzman Shield là một bước ngoặt trong sự tiến bộ công nghệ ở đây và dòng thời gian của nó. Việc phát minh ra lá chắn khiến chiến tranh tầm xa, như súng chẳng hạn, gần như lỗi thời.
    Có một số cách để xuyên thủng tấm lá chắn này. Đó là sử dụng một vật sắc nhọn chuyển động từ từ như kiếm hoặc dao. Holtzman Shield, như Gurney Halleck giải thích ngắn gọn với Paul Atreides trong quá trình huấn luyện đấu kiếm của họ, đẩy lùi các vật thể chuyển động nhanh nhưng cho phép một thứ gì đó di chuyển chậm vượt qua. Có lẽ điều này là do đó người đeo Khiên Holtzman vẫn có thể thao tác với các vật thể và thở, đồng thời có thể tự do di chuyển mà không bị hạn chế bởi độ cứng của lá chắn. 
    Việc di chuyển dao, kiếm chầm chậm cho đến khi xuyên qua được tấm chắn rõ ràng là khó khăn và đòi hỏi kỹ năng hơn cầm súng và bóp cò. Điều này không có nghĩa Dune không có vũ khí đạn đạo. Nhưng chúng là các viên "đạn" thông minh, có thể điều khiển được và điều chỉnh được chuyển động của nó, như viên đã hạ gục Công tước Leto (Oscar Isaac).
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  24. Hai bộ phim với hai thời gian khác nhau, bối cảnh xã hội khác nhau đến từ hai nền điện ảnh khác nhau nhưng đều miêu tả nhân vật nam giới có nhiều nét tương đồng đặc sắc. Với Uncut Gems, một bộ phim sản xuất bởi Netflix và A24 lấy bối cảnh là quận Kim Cương ở thành phố New York xa hoa, nơi mà những tệ nạn xấu xa, những sự ngột ngạt luôn bao trùm. Nhân vật nam chính Howard (do Adam Sandler thủ vai) là một ông bố tệ hại khi làm chủ tiệm đá quý nhưng nợ nần chồng chất, đam mê trò chơi cờ bạc, cá độ, đã có gia đình nhưng lại cặp kè với cô nhân viên và không giành sự quan tâm cho gia đình. Trong khi đó, Bi ơi, đừng sợ (đạo diễn Phan Đăng Di), lấy bối cảnh Hà Nội cuối những năm 2000, với sự ngột ngạt ở những khu tập thể, trong xí nghiệp làm đá. Nhân vật người bố sau khi đi làm về lại lao những quán rượu, nhậu say be bét tới khuya, gội đầu mát xa, bỏ mặc người vợ chờ đợi cơm ở nhà. Bên cạnh đó, nhân vật người ông trở về sau mấy mươi năm ở nước ngoài khi bệnh tình đã trở nặng và chờ ngày chết. 
    Những nhân vật nam này tuy có những hoàn cảnh khác nhau, phông văn hóa cũng khác nhau nhưng dường như đều được xây dựng trên hình tượng "Tính nam độc hại (toxic masculinity)". Với việc họ luôn phải chứng minh sự nam tính của bạn thân qua những sở thích như nhậu nhẹt, bia rượu, gái gú,... để làm chứng minh được con người "đàn ông" của họ. 

    Như nhân vật người ông trong Bi ơi, đừng sợ dễ làm ta liên tưởng tới nhân vật người chồng của bà chủ trong phim Mùa đu đủ xanh của Trần Anh Hùng khi họ bỏ gia đình ở lại, đi biền biệt vài năm tới vài chục năm rồi chỉ trở về khi gần đất xa trời mà không ai biết họ đã làm gì sau bây nhiêu ngày. Những người đàn ông ấy chối bỏ cuộc sống gia đình vì những lí do nhất định, đâu đó có thể là áp lực về trụ cột gia đình mà không thể gánh vác hay đơn giản là sự lười nhát và tự cho mình quyền được lười nhát như vậy. Tới nhân vật người bố trong phim của Phan Đăng Di, không chút quan tâm tới gia đình, luôn nhậu nhẹt thâu đêm và về nhà khi đã say bí tỉ. Không những vậy, anh ta còn có cặp bồ với cô gái ở tiệm gội đầu mát xa hay lui trong khi người vợ vẫn trông ngóng ở nhà. Anh ta dường như bát lực với cuộc sống hiện tại, không còn đủ lí trí cần có để dứt ra khỏi vòng tròn bế tắc ấy. Trong Uncut Gems cũng có nhân vật tương tự là Howard. Khi anh ta luôn bị đắm chìm vào những trò cờ bạc đỏ đen với những trận bóng rổ và đợi chờ cơ hội đổi đời. Điều này làm anh ta nợ như chúa chổm và lấy hết đi những gì anh ta đang có, thậm chí đó là cả tính mạng. Và họ luôn chiều chuộng với người tình bên ngoài để lại những giá trị gia đình sang một bên để cảm thấy được độc lập, mạnh mẽ trong họ. 
    Đây thực sự là những nhân vật vừa đáng trách, cũng vừa đáng thương khi trong những hoàn cảnh đó buộc họ phải phát triển theo hướng tiêu cực như vậy mà không tìm ra được một căn tính về giới tính nào tốt hơn.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  25. Bộ phim lần này có lẽ không xa lạ với nhiều người, đặc biệt là văn hoá Mỹ. Có thể nói đây là một trong những bộ phim gia đình kinh điển ở Mỹ, nhắc đến không ai là không biết, đưa tên tuổi nhiều diễn viên đi lên từ đây, đồng thời làm dậy sóng trào lưu Goth và thời trang lúc bấy giờ.
    Xuất phát điểm là một truyện tranh ngắn viễn tưởng vẽ bởi Charles Addams, nhằm trào phúng về gia đình kiểu Mỹ lý tưởng trong thế kỷ 21: giàu có, kỳ cục, thích thú với sự kinh dị và chẳng quan tâm rằng người khác nghĩ mình quái dị hoặc đáng sợ. Ban đầu đây chỉ là một dải truyện ngắn đăng trên The New Yorkers, sau đó vì gây được sức hút và có một bối cảnh thú vị nên nhà đài ABC đã chuyển thể thành TV series năm 1946, tiếp đó phim hoạt hình về nhà Addams cũng được ra mắt năm 1973.
    Phiên bản mình xem là phim điện ảnh The Addams Family (1991) kể về hành trình tìm kiếm người anh trai thất lạc Fester của bố Gomez Addams sau 25 miệt mài trong vô vọng, cuối cùng người bác của gia đình cũng trở về, nhưng mọi người đều nhận thấy ông ta thật “bất thường”, vì ông ta hành xử hệt như những người bình thường!
    Bộ phim khắc hoạ một thế giới hoàn toàn mới mẻ về ma cà rồng (một thể loại mà mình luôn luôn bị cuốn hút): ví dụ như mẹ Morticia chỉ cắm cành hoa và cắt đi bông hoa hồng, hay Thing là vật nuôi trong nhà với hình dạng một bàn tay, hay Gomez thường hỏi yêu vợ rằng “Unhappy, darling?”, căn nhà của gia đình Addams nằm giữa đồng không mông quạnh, cỏ trơ trụi, cây khô héo, và họ thích điều đó!
    Trong phim mình thích nhất là Morticia và Wednesday (mà có lẽ ai cũng vậy). Vì hai người phụ nữ ngầu hơn cái gầu này lúc nào cũng quyết đoán và rất thông minh sắc sảo, lại còn xinh đẹp nữa chứ. Thiệt tình.
    Đây là phim nhẹ nhàng, rất thích hợp để xem trong đêm Giáng Sinh cùng với gia đình nếu gu của bạn là anti-Frozen, nhưng mình nghĩ nên hạn chế cho trẻ nhỏ xem vì phim có phần bình thường hoá những trò đùa hạng nặng (ví dụ như ngồi ghế điện, bắn nỏ…)
    Xem xong mình muốn xem nữa xem nữa, và dù đã xem luôn cả bản điện ảnh Addams Family Value (1993) nhưng mình cảm thấy không thoả mãn, nên quyết định sẽ cày thêm series trắng đen (vì cô Morticia trong phim này cũng rất đẹp, mê cái đẹp quá biết sao giờ nhỉ :)) ). Nếu ai biết phim có nội dung tương tự như thế này hãy giới thiệu mình với nhé. Xin cảm ơn.
    Tổng kết lại, mình rất vui vẻ vì xem được phim hay, đẹp, thú vị cùng những câu đùa thâm thuý trong phim. Tạo hình và tính cách nhân vật rất quái dị, nhưng có nét đáng yêu, diễn viên đóng đạt, thế giới khá lạ lùng, cốt truyện dễ đoán nhưng nhạc hay (soạn bởi Hans Zimmer và David Kitay mà lị)
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted