Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,725 files
-
Câu chuyện xoay quanh hai anh em, Michael (Jason Patric) và Sam (Corey Haim), khi họ chuyển đến một thị trấn ven biển California cùng mẹ. Tại đây, Michael bị cuốn vào một nhóm thanh niên nổi loạn, do David (Kiefer Sutherland) dẫn đầu. Nhóm này có những bí mật tối tăm: họ thực chất là những ma cà rồng. Khi Michael dần bị cuốn vào lối sống của họ, anh bắt đầu thay đổi và phải đối mặt với sự thật về bản thân.
Trong khi đó, Sam, cùng với hai thợ săn ma cà rồng trẻ tuổi (Corey Feldman và Jamison Newlander), quyết tâm cứu anh trai mình khỏi số phận tăm tối. Phim khéo léo kết hợp giữa hài hước và sự hồi hộp, đồng thời thể hiện những chủ đề về tuổi trẻ, tình bạn và sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. "The Lost Boys" được đánh giá cao và trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại phim ma cà rồng, nổi bật với phong cách hình ảnh đặc trưng và âm nhạc bắt tai.
-
Câu chuyện xoay quanh Henry (Tim Blake Nelson), một người nông dân sống đơn độc cùng con trai mình, Wyatt, sau khi vợ qua đời.
Cuộc sống của họ thay đổi khi Henry phát hiện một người đàn ông bị thương (Scott Haze) đang trốn chạy và quyết định giúp đỡ anh ta. Người này tiết lộ rằng anh ta đang bị truy đuổi bởi những kẻ săn tiền thưởng, và Henry phải đối mặt với quyết định liệu có nên bảo vệ người đàn ông này hay không.
Khi những kẻ săn tiền thưởng tìm đến, bí mật về quá khứ của Henry dần hé lộ, khiến câu chuyện trở nên căng thẳng và kịch tính. Bộ phim không chỉ khám phá các chủ đề về sự hy sinh, lòng trung thành và mối quan hệ cha con mà còn mang đến những cảnh hành động hấp dẫn.
-
In Bruges chỉ mới là phim đầu tay của đạo diễn kiêm nhà viết kịch bản người Anh Martin McDonagh. Thế nhưng bộ phim này đã gặt hái được khá nhiều đề cử quan trọng của các giải thưởng lớn. Mới đây, In Bruges đã mang về một giải Quả Cầu Vàng hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho diễn viên Colin Farrell. Ngoài ra, In Bruges còn nhận được nhiều đề cử giải Bafta, trong đó có đề cử cho phim Anh hay nhất và một đề cử Oscar cho Kịch bản nguyên gốc xuất sắc nhất. Quả là những thành tích ấn tượng đối với một bộ phim độc lập.
In Bruges trước hết gây ấn tượng bởi bối cảnh của nó: thành phố Bruges xinh đẹp trong lòng nước Bỉ. Bruges với những viện bảo tàng cổ kính, những cây cầu thơ mộng, những dòng kênh êm đềm hẳn dễ dàng chinh phục những du khách khó tính tới đây vãn cảnh. Thế nhưng vẻ đẹp nao lòng của thành phố này không thể nào yên ủi trái tim trĩu nặng tội lỗi của một du khách trẻ tuổi. Đó là Ray (Colin Farrell thủ vai), tên giết người máu lạnh không chút do dự khi hạ sát một vị cha xứ già nhưng lại không thể tha thứ chính mình vì đã vô tình giết hại một cậu bé. Trái ngược với Ray, người bạn đường của hắn là Ken (Brendan Gleeson), một tên giết người khác, lại hào hứng với chuyến đi và xem đây như môt dịp để xả hơi và thưởng ngoạn cảnh đẹp. Chuyến đi của Ray và đồng sự được ông chủ của chúng là Harry Waters (Ralph Fiennes) tài trợ, nhằm mục đích giúp hắn nguôi ngoai sau vụ giết người bi kịch dẫn đến cái chết của đứa trẻ vô tội. Tuy nhiên, đằng sau sự tài trợ hào phóng này là một âm mưu đen tối khác.
Phần đầu của In Bruges có thể nói là phần hay nhất trong cả bộ phim, khi chất hài châm biếm rất đặc trưng của Anh được pha trộn hài hoà với tính bi kịch của hoàn cảnh và tâm lý nhân vật. Phần đầu phim vì thế tuy mang không khí nặng nề u uất nhưng vẫn rất lôi cuốn với những đoạn hội thoại , những tình huống hài hước tinh tế giữa hai kẻ sát nhân . Tuy nhiên, càng về cuối phim, câu truyện càng trở nên u ám và nghiêm túc hơn , lộ rõ tính chất của một bộ phim hình sự điển hình dù vẫn điểm xuyết một vài tình huống gây cười .
Ngoài ra, người xem còn có dịp thưởng thức những cảnh quay rất đẹp không khác gì những thước phim quảng cáo du lịch về thành phố Bruges êm đềm và thơ mộng. Vẻ đẹp yên bình của thành phố ngập trong tiếng đàn dương cầm êm dịu ngân vang suốt bộ phim đã tạo nên một hiệu ứng tương phản rõ rệt.
Thành phố yên bình là thế, nhưng tâm trạng con người không chút bình yên. Trong khi Ray bị dằn vặt không dứt bởi tội lỗi mình vô tình gây nên thì Ken lại băn khoăn trước nhiệm vụ mới mà ông chủ hắn giao phó. Sự phức tạp trong tâm lý này khiến cho đôi bạn đường hiện lên như hai con người đáng thương hơn là những sát thủ máu lạnh. Bởi ngay cả những tên giết người đáng ghê tởm nhất cũng có thể có những nguyên tắc đạo đức chúng không muốn vi phạm.
Thành công đó là nhờ In Bruges đã có thể quy tụ được một dàn diễn viên đầy tài năng. Colin Farrell xứng đáng với giải Quả Cầu Vàng anh mới nhận khi khắc họa một tên giết người không thể tội nghiệp hơn. Brendan Bleeson với khuôn mặt buồn đầy biểu cảm gợi nhớ nhiều đến Gene Hackman trong bộ phim Scarecrow từng đoạt giải Cành Cọ Vàng năm 1973, trong đó Gene thủ vai một tên tội phạm mới ra tù bặm trợn, người bạn đường tận tụy của nhân vật do Al Pacino đóng. Với In Bruges, Brendan cũng nhận được một đề cử Quả Cầu Vàng cho Nam diễn viên xuất sắc nhất. Ralph Fiennes với vai Harry Waters tàn ác và đầy nguyên tắc càng khẳng định vững chắc tên tuổi của mình: một trong những diễn viên Anh tài năng nhất. Và In Bruges hẳn là một trong những bộ phim đáng nhớ với diễn viên trẻ người Pháp Clémence Poésy – cô bé Fleur Delacour trong phim Harry Potter. Clémence đóng vai một cô gái người Bỉ mà Ray tình cờ gặp và nảy sinh tình cảm.
* Trước In Bruges, Martin McDonagh đã đạo diễn và viết kịch bản phim, nhưng đó là một bộ phim ngắn. Phim này tên là Six Shooter, đoạt giải Oscar phim ngắn hay nhất năm 2006.
-
Sound of Metal là một bộ phim chính kịch Mỹ được phát hành năm 2020 do Darius Marder đạo diễn và đồng biên kịch với sự tham gia của các diễn viên Riz Ahmed, Olivia Cooke, Paul Raci, Lauren Ridloff và Mathieu Amalric.
Nội dung phim Sound of Metal xoay quanh cuộc đời của Ruben Stone (Riz Ahmed) – tay trống nhạc rock đầy triển vọng bỗng rẽ sang một trang khác khi thính giác của anh bỗng tệ đần. Đây không đơn thuần chỉ là một câu chuyện về những người khiếm thính và khó khăn của họ, nó còn là câu chuyện về những người từng có quá khứ nghiện ngập và về những tâm hồn cần nơi nương tựa và được hồi phục.
Thứ mà cá nhân mình có thể cảm nhận được ở bộ phim này là đôi khi nó hơi lộ liễu trong việc cố gắng nhồi cho người xem thông điệp về sự khác biệt giữa một bên là những người coi “điếc” như một phần đặc trưng mới của bản thân và một bên là những người mà coi “điếc” như một loại bệnh mà họ có thể chữa/cần chữa. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua một phân đoạn khi Ruben đang sửa mái nhà của trung tâm phục hồi nhưng Joe bảo là: “Cậu không cần phải sửa bất cứ thứ gì ở đây”. Ngoài ra, bộ phim còn có thể khiến cho người xem bị một cảm giác có phần hơi tiêu cực đối với những lựa chọn của Ruben.
Tuy kịch bản phim Sound of Metal có gặp một số hạn chế như được nhắc ở trên, không thể nói rằng đây là một kịch bản tệ. Mình nghĩ là dù một số chi tiết có hơi lộ liễu nhưng mình thực sự cảm nhận được bộ phim, cảm nhận được thông điệp/cảm xúc mà nó muốn truyền tải.
Thế nhưng, không thể nào nói về bộ phim này mà không nói về phần biên tập âm thanh xuất sắc của nó. Chính phần âm thanh đã nâng tầm cho kịch bản của bộ phim. Và như mình nhắc đến ở ngay đoạn mở đầu, âm thanh của bộ phim này là thứ khiến cho mình phải thấy khó chịu nhưng là khó chịu theo một cách tích cực.
-
"The Lion of the Desert" (1980) là một bộ phim sử thi do Moustapha Akkad đạo diễn, xoay quanh cuộc sống của Omar Mukhtar, một nhà lãnh đạo người Libya nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Italy vào những năm 1920.
Nội dung phim tập trung vào cuộc chiến của Mukhtar và các chiến binh du kích Libya trong việc bảo vệ quê hương khỏi sự xâm lược của quân đội Italy do tướng Rodolfo Graziani lãnh đạo. Bộ phim khắc họa rõ nét những nỗ lực, chiến thuật và sự kiên cường của người dân Libya trong cuộc đấu tranh giành độc lập, đồng thời nêu bật những tội ác mà quân đội chiếm đóng đã gây ra.
Bên cạnh đó, phim cũng thể hiện mối quan hệ giữa các nhân vật, đặc biệt là tinh thần lãnh đạo và lòng dũng cảm của Omar Mukhtar. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện về chiến tranh mà còn mang thông điệp về tự do, danh dự và sự hy sinh.
Bộ phim được đánh giá cao về mặt hình ảnh, diễn xuất, đặc biệt là vai diễn của Anthony Quinn trong vai Omar Mukhtar.
-
"The Killing" (1956) là một bộ phim noir kinh điển do Stanley Kubrick đạo diễn, dựa trên tiểu thuyết "Clean Break" của Lionel White. Câu chuyện xoay quanh một kế hoạch cướp ngân hàng tinh vi do Johnny Clay, một tên tội phạm đã nghỉ hưu, đứng đầu.
Johnny lên kế hoạch cướp tiền từ một cuộc đua ngựa, dựa vào việc lừa gạt những người liên quan để thực hiện phi vụ này. Anh tập hợp một nhóm tội phạm, mỗi người đều có động cơ và quá khứ riêng. Tuy nhiên, khi mọi thứ dường như diễn ra suôn sẻ, sự phản bội và những bất ngờ không lường trước bắt đầu xuất hiện, dẫn đến một kết cục bi thảm.
Bộ phim nổi bật với cách kể chuyện phi tuyến tính, khám phá tâm lý của các nhân vật và những hệ quả của lòng tham và sự phản bội. "The Killing" đã nhận được nhiều lời khen ngợi về phong cách điện ảnh và kỹ thuật dựng phim của Kubrick, và được xem là một trong những tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp của ông.
-
"Child's Play" (1988) là một bộ phim kinh dị nổi tiếng do Tom Holland đạo diễn, xoay quanh nhân vật Chucky, một con búp bê bị nguyền rủa. Câu chuyện bắt đầu khi một tên giết người tên Charles Lee Ray bị thương và thực hiện một phép thuật để chuyển linh hồn của mình vào một con búp bê "Good Guy" trước khi chết.
Khi con búp bê này được tặng cho Andy Barclay, một cậu bé 6 tuổi, những điều khủng khiếp bắt đầu xảy ra. Andy không hề biết rằng Chucky thực sự là một kẻ giết người và có ý định sử dụng cậu bé như một phương tiện để lấy lại thân xác con người. Khi những cái chết bí ẩn xảy ra xung quanh, mẹ của Andy, Karen, phải tìm cách ngăn chặn con búp bê đáng sợ này trước khi quá muộn.
Bộ phim nổi bật với những pha hành động kịch tính và sự kết hợp giữa yếu tố kinh dị và hài hước. "Child's Play" đã mở đầu cho một loạt phim tiếp theo và trở thành một biểu tượng trong thể loại kinh dị.
-
Trong số ba bộ phim hoạt hình dành cho gia đình bị rối loạn chức năng trên Fox Network, “Bob’s Burgers” được cho là nhẹ nhàng nhất và vui vẻ nhất. Được tạo bởi Loren Bouchardngười cũng đứng sau bộ phim đình đám cuối những năm 1990 của Adult Swim “Home Movies”, “Burgers,” công chiếu vào năm 2011, né tránh sự châm biếm gay gắt của “The Simpsons” và sự nhẫn tâm của “The Family Guy”.
Câu chuyện về Bob và Linda Belcher và ba đứa con của họ, Gene, Tina và Louise, cũng tương đối có cơ sở trên thực tế. Bob là một tay đua cừ khôi, người điều hành những gì mong muốn trở thành một cửa hàng bánh mì kẹp thịt ngon và sáng tạo. Linda là đồng đội và người cổ vũ nhiệt tình của anh ấy, và bọn trẻ là những kẻ kỳ quặc đặc biệt, mỗi đứa đều lộn xộn theo cách riêng của chúng. Sự hài hước của chương trình là vô lý, thô tục một cách vui vẻ và luôn phù hợp với những câu chuyện buồn tẻ, kỳ quặc mà nó kể. Và những câu chuyện luôn chiếm ưu thế – chương trình không đi kèm với những tài liệu tham khảo liên tục về văn hóa đại chúng hoặc phá vỡ nhiều bức tường thứ tư.
Chế độ của “Bob’s Burgers” không chính xác để mở rộng màn hình lớn, có độ dài tính năng, vì vậy thật ngạc nhiên khi “The Bob’s Burgers Movie”, do Bouchard và Bernard Derriman đạo diễn, lại là một bộ phim hấp dẫn và hấp dẫn đến mức nó đủ tiêu chuẩn như một món giải khát mùa hè.
Bức ảnh mở ra với cảnh Bob đang chuẩn bị một chiếc bánh mì kẹp thịt đặc biệt cho nhân viên cho vay của ngân hàng – món mà anh ấy sẽ yêu cầu gia hạn. Anh ấy và Tina chắc chắn rằng họ sẽ hiểu được nó – và cả gia đình cùng hòa vào một bài hát, dự đoán “mùa hè đầy nắng của cuộc đời chúng ta”. (Chiếc bánh mì kẹp thịt đặc biệt có một quả trứng rán trên đó.) Bọn trẻ cũng có mục tiêu – Gene hy vọng ban nhạc của mình, Ủy ban Itty Bitty Ditty (cái tên là ví dụ điển hình về kiểu chơi chữ mà bộ phim này ưa thích) giật gân, Tina tìm kiếm một người bạn trai mùa hè và Louise không muốn gì hơn là được ở một mình.
Cốt truyện dày lên khi tất cả các nhân vật – tất nhiên – bị từ chối mong muốn của họ. Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, một hố sụt khổng lồ mở ra phía trước nhà hàng và mở ra một bí ẩn giết người. Một khách đến thăm hiện trường vụ án được phát hiện là một thám tử không chỉ không phải về vụ việc, nhưng thậm chí không có trong bộ phận xử lý vụ việc. “Đôi khi kẻ giết người cầu xin sự giúp đỡ từ bọn cướp của chúng tôi,” anh nhấn mạnh.
Bộ phim tràn ngập những câu thoại khô khan không kém, được dàn dựng một cách chuyên nghiệp bởi dàn diễn viên lồng tiếng do các nhà điều hành loạt phim H. Jon Benjamin, John Roberts, Dan Mintz, Eugene Mirman và Kristen Schaal đảm nhận. (Những người bán tạp chí theo sê-ri sứt mẻ ở đây bao gồm Kevin Kline và Zach Galifianakis.) Nó cũng nặng về những câu chuyện cười mang tính châm biếm, được phân phối đều đặn trong bối cảnh xem. Ngay cả khi đó không phải là hình thức hài hước yêu thích của bạn, nó vẫn phù hợp với những Belcher kỳ quặc và cáu kỉnh, những người có khả năng gây gổ thấp kém ngay cả khi bị chôn sống.
-
Chúng ta thật may mắn vì là những kẻ sinh sau đẻ muộn, được tiếp cận những bộ phim hay nhất của mọi thời kỳ, điểm mặt gọi tên từng ngôi sao đã định hình nền công nghiệp điện ảnh ngày nay. Nhưng cái may mắn nhất là khán giả hiện đại là được chứng kiến những sự kết hợp độc đáo, những huyền thoại trong cùng một khung hình khi giới hạn điện ảnh ngày càng được xóa mờ. Một trong những sự kết hợp tuyệt vời mà tôi muốn nói tới chính là bộ đôi Al Pacino và Robert De Niro trong phim Heat của Michael Mann.
Tất nhiên tôi biết họ đều từng xuất hiện trong The Godfather II, nhưng họ đâu thực sự sánh vai nhau trong cùng một cảnh quay. Cho đến tận 21 năm sau, những người yêu điện ảnh mới được chiêm ngưỡng một kiệt tác với sự góp mặt của hai siêu sao như vậy. Tuy dần về sau này, khi khái niệm “auteur” – đạo diễn là tác giả của bộ phim càng được đề cao hơn, kéo theo những yếu tố khác được chú trọng phân tích nhiều hơn như màu sắc, góc máy, âm thanh,… nhưng đã là phim thì diễn xuất chính là yếu tố tiên quyết. May mắn thay, trong Heat, người xem được thưởng lãm kỹ năng diễn xuất đỉnh cao và thuần khiết của cả Robert De Niro và Al Pacino.
Sau The Godfather, cả hai đều vụt sáng thành những ngôi sao lớn nhất cho đến nay. Những vai diễn của họ thường cùng thuộc thể loại là trinh thám/hình sự /tội phạm. Đó là lý do tôi nghĩ họ không xuất hiện cùng nhau trong một bộ phim. Mãi đến Heat, chúng ta mới thấy được sự hội ngộ này. Robert De Niro vào vai Neil – một tên cướp nhà băng sừng sỏ và chuyên nghiệp, Al Pacino thủ vai Vincent – một tay cớm lành nghề chuyên truy lùng những kẻ như Neil. Tuy là thế, nhưng tôi lại có cảm giác chẳng có định nghĩa chính diện – phản diện ở đây. Khán giả có thể thấy được những mặt tốt và logic trong nhân vật Neil, nhưng cũng lắc đầu e ngại với mức độ sử dụng bạo lực và đe dọa của Vincent. Họ không đại diện rạch ròi cho tà ác và lương thiện, họ sống và làm việc với hai yếu tố luôn song hành. Điều có thể định nghĩa họ là cách mỗi người để yếu tố nào trội hơn và dùng bên nào làm nền tảng lý trí cho những hành động của mình. Nếu bạn có thấy ý tưởng này quen quen, thì có lẽ bạn đã từng bắt gặp nó trong The Dark Knight của Christopher Nolan. Và bạn có biết không, đây chính là bộ phim truyền cảm hứng cho kiệt tác để đời của Nolan, về cả mặt nội dung lẫn hình ảnh.
Chờ đợi cho một cuộc hội ngộ lâu đến thế, nhưng tới tận giữa bộ phim, ta mới thật sự thấy De Niro và Pacino cùng xuất hiện trong một khung hình. Nhưng trước khi đến đến đó, tôi muốn nói sơ qua về hoàn cảnh dẫn tới đã. Ngoài việc hai nhân vật là hai phía đối nghịch nhau trong pháp luật, cả tính cách của họ cũng chẳng hề giống nhau. Trong khi tên cướp nhà băng Neil luôn cố gắng giữ mọi thứ vào guồng quay, lúc nào cũng bình tĩnh và tỉ mỉ thì tay cảnh sát Vincent lại hung hăng, hay la lối và đi những bước đầy rủi ro. Trong khi nhân vật của De Niro dành thời gian để lên những bước tiếp theo trong kế hoạch thì nhân vật của Pacino cố gắng đẩy nhanh mọi thứ hết mức có thể để bắt được Neil. Ở một mức độ nào đó, họ là hai cá thể hoàn toàn đối lập. Sự trái ngược khiến chúng ta trông chờ vào một cao trào, có thể là một màn ẩu đả gay cấn hay một động thái bất ngờ đầy hồi hộp. Nhưng không, cao trào của phim đến ta không thể ngờ trước, nhẹ nhàng như một cái nhấn phanh từ từ để hai chiếc xe cùng dừng lại.
Đỉnh cao của bộ phim chính là cuộc chạm trán của hai nhân vật chính. Nhưng chẳng có máu đổ, chẳng có đánh nhau. Đó chỉ là một cuộc nói chuyện quanh hai cốc cà phê của hai người đàn ông rất đỗi bình thường. Cuộc đối thoại cho thấy rằng cả hai nhân vật đều có những lỗ hổng, và cũng như những người khác, họ gặp nhiều vấn đề trong cuộc sống của mình. Họ chia sẻ với nhau về giấc mơ, nỗi sợ và những mối quan hệ riêng tư của mình – điều khiến tôi khá bất ngờ vì thông thường đây sẽ là điểm yếu chết người khi hai bên đối kháng. Điều này có nghĩa là gì? Rằng cả Vincent và Neil, dù nằm ở hai cực đối lập của công lý, họ tôn trọng lẫn nhau và công việc của người còn lại. Họ công nhận khả năng của đối phương và biết chắc rằng, người kia là người nhìn thấu rõ tâm can mình nhất. Cảnh phim này thực sự rất xuất sắc, không chỉ nặng ký trong từng câu từng chữ mà còn là tiền đề cho sự giáp mặt lớn hơn về sau. Đây là một lời hứa hẹn cho người xem, rằng cuộc gặp gỡ tiếp theo sẽ không còn diễn ra dưới dạng đối thoại nữa mà cả hai sẽ phải sống chết mà đoạt mạng nhau.
Một điều cá nhân tôi nghĩ đã làm nên sự tuyệt vời của cảnh phim này chính là ở bản thân hai diễn viên. Al Pacino và Robert De Niro – họ như phiên bản đời thực của Vincent và Neil vậy. Họ có vẻ như hiểu rất rõ đối phương và tôn trọng tuyệt đối sự nghiệp của người còn lại, như Pacino đã nói như sau: “Cái quan trọng của việc có tôi và Bobby (Robert) cùng diễn xuất trong một bộ phim là vì chúng tôi ở cùng một vị trí trong sự nghiệp của mình. Chúng tôi đã trưởng thành cùng nhau. Chúng tôi, tôi nghĩ là, hay được đem ra so sánh với nhau trong suốt cuộc đời mình. Đó là môt yếu tố quan trọng trong toàn bộ câu chuyện”.
Có thể nói trong thập niên 90s thì Heat là một chuẩn mực của thể loại hình sự/tội phạm, là nguồn cảm hứng cho những phim cùng thể loại về sau, trong cách dùng góc máy rộng, sử dụng âm thanh để tạo cảm giác căng thẳng và định nghĩa lại khái niệm chính – phản diện,…. Nhưng trên hết, phải đề cập tới diễn xuất đỉnh cao của bộ đôi Al Pacino và Robert De Niro. Gừng càng già càng cay, nếu không phải là họ với sự thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau suốt bao nhiêu năm từ ngày còn là những diễn viên trẻ dấn thân vào con đường nghệ thuật, tạo được tiếng vang cho bản thân bằng những nỗ lực không ngừng nghỉ, và cùng xuất hiện khi đã là những biểu tượng thì sẽ không có một kiệt tác hiện đại như thế này.
Còn gì hợp lý hơn là xem phim này trong khi chờ đợi sự tái hợp của cặp đôi này vào năm 2019 trong The Irish Man của Martin Scorsese nhỉ?
-
Nếu chỉ được dùng 3 từ để nói về bộ phim Event Horizon, mình sẽ chỉ dùng 3 từ trên.
Trong tương tai, loài người đã thành công xây dựng nơi ăn chốn ở tại không chỉ Mặt Trăng mà còn vài hành tinh khác, chúng ta liên tục du hành vào vũ trụ. Vào năm 2047, Trái Đất bắt được tín hiệu từ con tàu Event Horizon - con tàu đã tưởng chừng biến mất 7 năm trước khi thử nghiệm du hành với tốc độ vượt ánh sáng. Sự cố này được coi là vết đen lớn nhất trong lịch sử du hành vũ trụ, toàn bộ phi hành đoàn của Event Horizon (18 người) đã bị coi là chết. Thế nhưng một thế lực gì đó đã mang nó trở lại, đặt nó vào quỹ đạo quay quanh Sao Hải Vương, cách trạm vũ trụ gần nhất 3 tỷ km.
Giáo sư William Weir (Sam Neil), người thiết kế con tàu Event Horizon, quyết định tham gia cùng phi hành đoàn tàu Lewis and Clark đến thám hiểm và nếu có thể, cứu giúp những người sống sót. Càng dành nhiều thời gian trên tàu Event Horizon, đội cứu hộ đã càng nhận ra con tàu kia không còn là một con tàu du hành bình thường mà là một thứ gì đó khiếp sợ hơn rất nhiều, phải chăng chuyến du hành vũ trụ của Event Horizon đã mang nó đến cánh cổng của địa ngục?
Theo mình, đây là một trong những bộ phim kinh dị tởm và ám ảnh nhất từng được làm ra. Tuy có cốt truyện khá đơn giản, khi đến cuối phim, mọi khúc mắc của bạn sẽ được giải đáp nhưng cái để lại dấu ấn trong lòng mình chính là con đường dẫn đến cái kết đó. Đây là một con đường cực kỳ... ghê tởm. Nó tràn đầy những cảnh kinh hoàng đến nghẹt thở, tràn đầy máu me cùng những hình ảnh như được lấy ra thẳng từ nhật ký của Ác Quỷ. Chúng chắc chắn sẽ in sâu vào đầu bạn trong một thời gian dài.
-
Sự ngột ngạt trong The Virgin Suicides (1999) đã vẽ lên một giấc mơ có thực của những người con gái.
Họ sống trong tình yêu thương của cha mẹ và mọi người xung quanh. Nhưng tình yêu đó có xu hướng tôn họ thành những vị thánh. Họ trở thành đức tin của sự trong trắng, trinh bạch. Một thứ trái với cõi thực và sự phàm tục của con người. Ông bà Lisbon cũng như bao người cha mẹ khác. Họ luôn sống trong một nỗi lo sợ vô hình về việc con gái họ sẽ gặp rắc rối với những chàng trai. Họ bắt đầu kiểm soát giờ giấc, không gian thậm chí là đời sống tinh thần của chị em Lisbon.
Họ không cho các cô đến trường chỉ vì Lux đã phạm giờ giới nghiêm và qua đêm với Trip sau buổi dạ hội. Hắn đã bỏ Lux lại một mình trên sân cỏ sau khi ngủ với cô và cắt đứt liên lạc. Để rồi nhiều năm sau đó hắn thuật lại câu chuyện như thể cô là tình yêu vĩ đại của đời hắn.
Như một lẽ hiển nhiên, thứ người ta không thể kiểm soát là những gì mà con sói sẽ làm với con cừu. Và để bảo vệ chúng, con người đưa ra giải pháp nuôi nhốt những con cừu thay vì bắt những con sói.
Ta có thể bắt gặp tính khuôn mẫu của giải pháp này đang vô tình áp đặt lên đối tượng con người, cụ thể ở đây là phụ nữ.
Chị em Lisbon sống những ngày ảm đạm cuối cùng của mình trong căn phòng đóng kín, họ chia sẻ cuộc sống qua thư từ, mã Morse, âm nhạc cùng bốn chàng trai hàng xóm qua ống điện thoại bàn.
Khi tuổi vị thành niên tràn ngập những mơ mộng về tình yêu, tình dục và tự do, họ không thể tránh khỏi những tan vỡ và sự mơ hồ về thứ mong muốn bản năng nằm trong con người họ.
Và kể cả khi độ tuổi đó qua đi, chúng vẫn còn lại một cuộc đấu tranh để không phóng chiếu sự xấu hổ ký sinh và cảm giác tội lỗi đã ăn sâu vào những người mẹ lên con cái họ.
Như cái cách Lux chưa kịp trải nghiệm khoảnh khắc đau lòng ấy một cách trọn vẹn và trưởng thành từ nó, thì bà Lisbon đã tiến hành nhốt cô và các chị gái ở nhà, sau đó đốt cháy thùng đĩa than của cô như một sự trừng phạt.
Tất cả đều là sang chấn từ một xã hội nơi phụ nữ không thể đơn thuần cảm nhận cơ thể mình dưới góc nhìn sinh học với những nhu cầu cơ bản và trần tục nhất mà sẽ luôn bị đặt dưới lăng kính của tính dâm và ràng buộc của sự trong trắng.
Sau tất cả, đúng với cái tên Trinh Nữ Tự Sát, họ đã không chọn lên chuyến xe trốn chạy cùng các chàng trai. Cái chết là quyền quyết định cuộc sống duy nhất mà họ có thể tự dành lấy cho mình, cho thân - tâm họ, cho các cô gái đã mai táng cuộc đời mình trong những giai đoạn đẹp nhất, và kể cả những ai còn sống nhưng đã từng chết ở tuổi vị thành niên:
-
Sau thành công của Mirai, Belle - Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang là tác phẩm kế tiếp của đạo diễn Mamoru Hosoda tự tay chắp bút viết kịch bản.
Đạo diễn Mamoru Hosoda được biết đến là cha đẻ của các bộ anime nổi tiếng như Summer Wars, Mirai… Với lần quay trở lại này, Belle: Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang đã xuất sắc nhận được tràng pháo tay kéo dài 14 phút tại Liên hoan phim Cannes 2021.
Một bộ phim được lấy cảm hứng từ cổ tích Người Đẹp Và Quái Vật (1756)
Lấy cảm hứng từ cổ tích Pháp Người Đẹp Và Quái Vật (1756), bộ phim là câu chuyện đan xen giữa hai thế giới thực và ảo. U là ứng dụng được tạo ra với hơn 5 tỷ người dùng, nơi “bạn có thể sống như một người khác” và Suzu Naito, nữ sinh trung học bình thường nhưng ở thành phố ảo U, dưới cái tên Belle, cô lại là siêu sao. Sự xuất hiện của Rồng, một quái thú xấu xí đang bị truy đuổi và vô tình phá hỏng buổi diễn của Suzu tại U. Tưởng chừng chỉ là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai con người xa lạ nhưng cũng từ đó, một hành trình mới chính thức bắt đầu.
Âm nhạc
Về âm nhạc, đây được xem là điểm nhấn nổi bật nhất trong Belle: Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang. Bằng việc dùng những ca khúc vô cùng bắt tai, ngay từ lúc mở đầu, bộ phim đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với khán giả. Nói âm nhạc là một trong những yếu tố chủ đạo quyết định sự thành công của Belle: Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang cũng không sai vì tổng bài hát được sử dụng trong phim lên đến 30 bài, chủ yếu là những bản ballad nhẹ nhàng nhằm mục đích thể hiện rõ nét nội tâm của Suzu.
Hình ảnh
Belle: Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang đã mãn nhãn người xem bằng những khung hình được trau chuốt kỹ lưỡng.Nhờ sự hỗ trợ từ nhà thiết kế nhân vật và hoạt hình kỳ cựu của Disney là Jin Kim, so với Summer Wars (2009), Belle: Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang đã có một bước tiến xa trong cách xây dựng bối cảnh phim. Trái ngược với hình ảnh của một vùng nông thôn thanh bình ở thế giới thực, thành phố ảo U hiện lên đầy sắc màu. Mỗi cảnh quay đều được Studio Chizu thể hiện một cách vô cùng tỉ mỉ.
Đơn cử với sự thay đổi màu sắc của bầu trời trên đoạn đường Suzu đi học, dọc theo bờ sông. Phần đầu bộ phim, bầu trời mang một màu xám, điều này như nói lên tâm trạng của Suzu khi cô không thể cất tiếng hát, bất lực và lạc lõng. Sự thay đổi bắt đầu kể từ giây phút Suzu hòa mình vào giai điệu của âm nhạc, bầu trời lúc này chuyển sang sắc xanh. Và hoàng hôn xuất hiện, vốn là tín hiệu thông báo cho sự kết thúc của một ngày thì cũng chính khoảnh khắc ấy, Suzu đồng thời kết thúc mối tình đơn phương của mình.
Tính thời sự được lồng ghép
Không chỉ thế, bên cạnh hành trình đi tìm lại giọng hát và giải đáp những bí ẩn về Rồng, Belle: Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang còn là câu chuyện đầy tính nhân văn khi khéo léo lồng ghép những vấn nạn của xã hội hiện nay như bạo lực gia đình hay sự tha hóa của con người trên nền tảng số. Từ một hành động nhân văn là cứu người nhưng mẹ Suzu vô tình trở thành một người phụ nữ vô tâm, bỏ rơi con gái cũng vì những bình luận ác ý trên mạng xã hội. Điều này khiến cho Suzu lớn lên với sự trách móc đối với người mẹ quá cố.
Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực được nhắc đến thì Belle: Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang cũng có một vài điểm trừ khiến bộ phim chưa thật sự ấn tượng với lần quay trở lại này của đạo diễn Mamoru Hosoda.
Về cốt truyện, các chuỗi sự kiện được diễn ra rời rạc, một vài phân đoạn chưa có tính liên kết khiến người xem đôi khi khó hiểu như câu hỏi liệu Suzu, cũng chính là Bella có tình cảm với Rồng hay Mamoru Hosoda, người bạn thanh mai trúc mã của cô. Không chỉ vậy, để tâm lý của nhân vật nữ chính Suzu ở một vài phân đoạn chuyển biến khá đột ngột từ thế giới thực sang thế giới ảo và ngược lại đã dẫn đến sự hoang mang cho khán giả khi theo dõi bộ phim. Bên cạnh đó, vai trò của các nhân vật phụ như bố Suzu, những người dì là bạn của mẹ Suzu vẫn chưa được khai thác triệt để. Đặc biệt là bố Suzu, ông chỉ xuất hiện phần đầu và cuối phim, mờ nhạt đến mức không cần thiết.
Suy cho cùng, Belle - Rồng Và Công Chúa Tàn Nhang vẫn là một tác phẩm nghệ thuật xứng đáng nhận được lời tán dương từ công chúng vì bộ phim đã thật sự thỏa mãn người xem với sự chỉn chu từ chất lượng hình ảnh cho đến âm thanh.
-
"Dog Soldiers" (2002) là một bộ phim kinh dị-hài hước của đạo diễn Neil Marshall. Câu chuyện xoay quanh một nhóm lính đặc nhiệm Anh đang trong một cuộc huấn luyện ở vùng rừng núi Scotland. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, họ phát hiện ra rằng mình không chỉ đối mặt với kẻ thù con người mà còn phải chiến đấu với một nhóm người sói đáng sợ.
Khi những con sói tấn công, nhóm lính phải tìm cách sinh tồn và chiến đấu để thoát khỏi tình huống nguy hiểm. Bộ phim nổi bật với những pha hành động gay cấn, hình ảnh chân thực và sự phát triển nhân vật thú vị, đồng thời mang lại một thông điệp về tình bạn và lòng dũng cảm trong những thời khắc khó khăn. "Dog Soldiers" cũng được khen ngợi về hiệu ứng đặc biệt và sự kết hợp giữa yếu tố kinh dị và hài hước.
-
Sau một năm bị hoãn do dịch bệnh, The Unbearable Weight of Massive Talent đã ra mắt vào tháng 04/2022. Bộ phim hành động hài, châm biếm trong đó Nicolas Cage đóng vai chính mình này ban đầu không hứa hẹn gì mấy về chất lượng, nhất là sau cú flop That Awkward Moment của đạo diễn Tom Gormican. Thế nhưng, mặc dù bị lỗ doanh thu rạp (điều dễ đoán trước), The Unbearable Weight of Massive Talent lại nhận được nhiều đánh giá tích cực với 87% Rotten Tomatoes từ khán giả lẫn giới phê bình, 7.1 IMDB, 3.5/5 sao trên trang đánh giá Roger Ebert… Thành tích không tệ đối với một dự án trông có vẻ “vui là chính”.
Nhưng thật sự, The Unbearable Weight of Massive Talent (TWOMT) là bộ phim với kịch bản gốc dí dỏm, câu chuyện đáng mến, rất ấm lòng. Phim quy tụ dàn diễn viên quen thuộc: Nicolas Cage, Pedro Pascal, Neil Patrick Harris, Tiffany Haddish, Ike Barinholtz… Thậm chí còn mời Demi Moore về cameo một đoạn tí xíu. Đối với người viết, TWOMT là bộ phim xuất hiện đúng thời điểm, bởi nó tôn vinh điện ảnh và cách phim ảnh gắn kết con người. Chúng ta đã lên mạng xã hội bàn luận, cãi nhau quá nhiều (và không cần thiết) đến mức quên đi giá trị đó mà điện ảnh mang lại.
Nicolas Cage vào vai chính ông với nghệ danh Nick Cage: ngôi sao điện ảnh tuổi xế chiều, sự nghiệp xập xình, cháy túi do thói đốt tiền nấu trứng, gia đạo cũng không yên. Ông li dị vợ và gặp khó khăn khi kết nối với con gái 16 tuổi. Nick khao khát một vai diễn vực dậy tên tuổi, cắm đầu tìm việc và khoác lên mình hào quang ngôi sao quá lâu mà quên mất mình còn là người chồng, người cha. Nick chấp nhận đề nghị tham dự tiệc sinh nhật của một fan hâm mộ giàu có (Pedro Pascal), vì mức thù lao 1 triệu đô Biden là cứu cánh tình hình tài chính kiệt quệ.
nicholas
Khi gặp Javi, Nick rất vui vì hóa ra gã nhà giàu này có gu phim rất khá. Đang hào hứng vì ngỡ tìm được tri kỷ thì hai điệp vụ CIA (Tiffany Haddish xuất hiện, cảnh báo cho Nick biết Javi là thủ lĩnh băng đảng nguy hiểm. Hắn đang bắt con gái một chính khách làm con tin để thao túng bầu cử. Vì là người có điều kiện kề cận Javi, Nick buộc phải giúp CIA tìm ra chỗ giấu con tin, nhưng như vậy là phản bội Javi.
Phim sử dụng hầu hết chất liệu cuộc đời Nicolas Cage để tạo nên Nick Cage. Nếu là người yêu mến Cage hoặc chí ít thích vài phim chất lượng của ông, bạn sẽ lên cơn sốt geek bởi references ở khắp nơi. Từ sau Pig (2021), ta nhớ ra rằng Cage không chỉ là diễn viên hành động mà còn có thể đóng những vai nội tâm phức tạp hơn. Trong The Unbearable Weight of Massive Talent (2022), ta sẽ được thấy Cage thể hiện khả năng diễn xuất đa dạng, từ hành động kịch tính, hài ngớ ngẩn, đấu tranh nội tâm, cũng như tình huynh đệ đáng yêu với Pedro Pascal.
Nicolas Cage thông qua Nick Cage, phiên bản hư cấu của ông trong phim muốn nói với mọi người rằng bản thân ông cũng muốn chọn phim hay, cũng ý thức được mình là diễn viên và muốn làm việc với tư cách đó chứ không phải chỉ là ngôi sao điện ảnh. Nhưng vì lý do này kia, đôi khi ta không phải cứ muốn là được. Nick và Javi đều là những con người của “tình cảnh” (circumstances) và ở thời điểm nào đó của bộ phim họ phải thỏa hiệp với điều đó.
Javi (Pedro Pascal) là nhân vật mà ta nghĩ là ông trùm đường dây buôn vũ khí nguy hiểm. Mọi thứ gây bối rối cho khán giả lẫn Nick Cage khi Javi lại là con người mang tình yêu phim ảnh to lớn. Mục đích chính của Javi khi mời Cage dự sinh nhật đó là vì anh có viết một kịch bản phim, mong muốn người hùng của mình đóng vai chính trong đó. Nick và Javi trò chuyện tâm đầu ý hợp, không những cùng ngưỡng mộ The Cabinet of Dr. Caligari (1920), mà còn cho Cage thấy ý nghĩa của Paddington 2. Đúng vậy, mỗi người đều có thể cảm thấy gắn kết với một bộ phim mà không cần bận tâm đó là phim “nghệ” trăm năm hay giải trí thiếu nhi. Bản thân The Unbearable Weight of Massive Talent cũng tự minh chứng điều đó. Có thể với các bạn phim này nhảm, nhưng người viết thấy nó có ý nghĩa và sẵn sàng viết dài thêm chút nữa.
Phân đoạn Javi phát biểu về mối quan hệ căng thẳng giữa anh và cha được hàn gắn bằng Guarding Tess (1994) đã nói lên tất cả. Đó có phải sự kỳ diệu của điện ảnh không? Thật ra thì con người cũng có thể gắn kết với nhau thông qua những sở thích chung khác như sách, âm nhạc, thú vui sưu tầm… Thế nhưng, môn nghệ thuật non trẻ nhất này nó hấp thu cấu trúc và hình thức của những bộ môn lâu đời hơn. Vì vậy, điện ảnh có khả năng gom một đám đông lớn gồm những người yêu văn học, hội họa, âm nhạc, trình diễn, thậm chí điêu khắc, kiến trúc lại với nhau, chiêm ngưỡng tất cả thành quả từ nhiều lĩnh vực trong một bộ phim.
Pedro Pascal một lần nữa gánh vác cho cả bộ phim. Đây không phải là một điểm chê nhé, chỉ là khó mà tưởng tượng được ai khác sẽ đóng được Javi ngoài Pedro bởi anh đang làm ngôi sao thu hút nhiều sự chú ý, đồng thời vai diễn quá đáng yêu khiến khán giả nhân từ hơn với sai sót của phim. Javi cùng Nick đều là những con mọt phim thứ thiệt. Họ bàn luận về phim, rồi đóng kịch như những đứa trẻ, những màn rượt đuổi, khóc lóc rất hoạt hình. Bộ phim của Tom Gormican thiên về physical comedy (hài hình thể), đưa ta về buổi đầu của điện ảnh với những bộ phim câm trắng đen mang lại tiếng cười bằng hành vi cợt nhả của nhân vật. Nhưng cả Pedro và Nick đều xử lý tốt mảng này, phim không bị lố sượng mà khán giả sẽ yêu mến hai gã nerd này.
Chút hậu vị ngọt đắng cuối cùng đó là trong phim, bộ phim của Javi cùng Nick được đón nhận nồng nhiệt, còn thực tế ở ngoài The Unbearable Weight of Massive Talent không làm ăn khấm khá lắm ngoài rạp. Nhưng bù lại phim nhận được nhiều đánh giá tích cực và khán giả đang mua DVD về xem. Mỗi người đều có định nghĩa về một bộ phim hay nhưng đối với người viết, phim hay là bộ phim khiến ta quan tâm tới số phận nhân vật, trong phim lẫn ngoài đời.
-
"The Message" (1976) là một bộ phim do Moustapha Akkad đạo diễn, kể về cuộc đời của Prophet Muhammad và sự hình thành của đạo Hồi. Phim tập trung vào các sự kiện quan trọng trong cuộc sống của Ngài, từ sự khởi đầu của sự mặc khải cho đến việc thiết lập cộng đồng Hồi giáo tại Medina.
Nội dung phim không chỉ khắc họa các nhân vật lịch sử mà còn nhấn mạnh các giá trị cốt lõi của đạo Hồi như tình yêu, lòng khoan dung và sự công bằng. Đặc biệt, phim sử dụng nhiều hình ảnh biểu tượng và nhân vật phụ để tránh việc mô tả trực tiếp hình ảnh của Prophet Muhammad, điều này phù hợp với truyền thống Hồi giáo.
Phim cũng cho thấy những thách thức mà cộng đồng Hồi giáo phải đối mặt trong quá trình phát triển, cùng với những cuộc xung đột với các bộ tộc khác. "The Message" không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một phương tiện giáo dục về tôn giáo và lịch sử Hồi giáo.
-
Raging Bull (1980) được đánh giá là tác phẩm thành công nhất của Martin Scorsese, dù nó không giúp ông dành giải Oscar đạo diễn xuất sắc nhất (phải đợi đến The Departed– 2006). Bộ phim là sự tổng hợp tiêu biểu cho mọi yếu tố nghệ thuật và ảnh hưởng nhiều phong cách, nhưng không hề hỗn độn mà được dẫn dắt rất tài hoa.
Raging Bull dường như phá bỏ mọi quy luật thống nhất trong cách làm phim Hollywood. Scorsese muốn thử nghiệm và phá vỡ nhưng logic cũ, nhưng đồng thời ông vẫn giữ được sự nhất quán trong phong cách phim nên bộ phim vẫn có sự kiểm soát chặt chẽ. Mọi hành động của diễn viên, của máy quay… đều được đạo diễn vạch kế hoạch trước một cách chi tiết, do đó việc dựng phim rất dễ dàng (người dựng phim này là Thelma Schoonmaker đã giành giải Oscar- Best Editor).
Bộ phim sử dụng cách dựng những cảnh xung đột nhau theo phong cách montage Xô Viết mà đại diện là S.Eisenstein. Eisenstein phản đối cách dựng nối tiếp của Hollywood, ông chủ trương phải dựng như thế nào để gây cho người xem những cú sốc chứ không tạo sự uyển chuyển. Những hình ảnh đối lập đặt cạnh nhau tạo cho người xem một ý nghĩ mới mà khi đặt riêng từng cảnh không có được. Cảnh quay sau không phải là kết quả của cảnh quay trước.
Những trận đấm bốc trong phim được tạo một không khí rất đặc biệt, không gian trong phim được bao trùm trong những màn khói, gây cảm giác ngột ngạt nóng bỏng như trong một lò lửa, một chiếc nồi hơi. Các nhà làm phim cũng sử dụng nhiều kĩ thuật mới để quay phim như dùng máy quay nhỏ, nhẹ, ống kính tốc độ cao- super speed, máy chống rung (steadicam)…, kết hợp với những cú bấm máy liên tục, tạo phong cách dựng liền mạch.
Cấu trúc bộ phim khác với quy luật thường dùng trong nhiều phim Mỹ như cắt cảnh không theo cách thông thường, nội dung thông tin giữa các cảnh, đoạn không liền mạch (nhảy thông tin)… nhưng M.Scorsese vẫn làm cho người xem có cảm giác bộ phim là một khối thống nhất khi thường xen kẽ những đoạn phim màu với phim đen trắng, sử dụng những bức ảnh chụp, những đoạn video tư liệu thực… Trong những cảnh đấm bốc, đạo diễn dùng những kĩ thuật phong phú như chuyển động chậm (slow motion); góc máy cực đoan cao/ thấp; zoom hoặc di chuyển máy quay linh hoạt; dùng ánh sáng đèn flash của phóng viên, âm thanh tiếng chuông giữa hiệp được khuyếch đại… tạo nên những hiệu quả đặc biệt, ấn tượng.
Dù bộ phim có nhiều điểm không hợp lý nhưng người xem vẫn có thể chấp nhận và hiểu được. Chẳng hạn như trong đoạn phim cuộc đấu năm 1943, dù dựng phim không theo cách chuyển cảnh nối theo mắt nhìn (eyeline match) hay nối trùng hình (graphic match) nhưng khán giả vẫn không thấy vô lý. Cả những âm thanh được sử dụng cũng không hiện thực, rất lạ lùng như trong phim hoạt hình nhưng người xem vẫn tự điều chỉnh để thấy bình thường, tức là bộ não của họ đã được vận động để tiếp nhận những thông tin của bộ phim. Đây là một sự mạo hiểm chứng tỏ đạo diễn M.Scorsese rất tự tin và tin vào sự hiểu biết của khán giả. Scorsese muốn tạo nên một bộ phim vĩ đại, một kiệt tác điện ảnh chứ không phải là một bộ phim “đúng quy luật” theo kiểu kinh điển Hollywood.
-
Đã xem hầu hết những bộ phim của Bong Joon-ho làm trong nước, đây chính là lần đầu tiên xem phim ông hợp tác với Mỹ và yeah, nó khá ổn, ổn hơn mình nghĩ và nó cũng được đề cử tranh giải Cành cọ vàng 2018 đấy.
Okja có thể nói là bộ phim nhẹ nhàng nhất của Bong mà mình từng xem. Đây là hành trinh giải cứu một superpig, cô lơn siêu to khổng lồ Okja của cô bé vùng thôn quê Mija. Trong quá trình này, Bong đã cài cắm rất mượt những vấn đề tưởng chừng như rất khô khan như môi trường, biến đổi khí hậu và ngược đãi động vật.
Bộ phim gần như là một cuộc chiến truyền thông, một cụm từ cực kỳ hot trong vòng 5 năm trở lại đây. Bong cũng gần như thể hiện một mặt xấu của nó, dựng lên những điều tốt đẹp để che dấu điều tồi tệ, dùng những hình ảnh hào nhoáng, đẹp đẽ và tốn nhiều tiền để che đậy những bản chất xấu xa. Truyền thông, là cuộc chiến của tốc độ và tiền bạc, ai nhanh và nhiều tiền hơn, người đó thắng. Đó là lúc truyền thông bỏ qua lợi ích của người tiêu dùng, người mua hàng.
Như đã nói ở trên, đối với mình, đây là bộ phim đầu tiên của Bong mà mình cảm thấy ông không cho người xem đi vào những hầm tối của cảm xúc quá nhiều. Cách xây dựng gần giống như The host nhưng lại không quá shock và gây sợ hãi. Ông đánh vào cảm xúc của người xem bằng những hành động khá tàn bạo với động vật và tiếng kêu của chúng. Ông không hề quay đặc tả hay zoom cảnh, chỉ thông qua âm thanh cũng đủ khiến người xem thương xót cho những con vật, cụ thể ở đây là lợn, loài động vật được định sẵn là phải chết để cung cấp thịt cho con người.
Thứ hai là về kịch bản, ông không còn cài cắm những chi tiết nhỏ ngay từ đầu phim hay những hành động kết nối với nhau, mọi thứ diễn ra trước mắt, kiểu như ý trên mặt chữ, xem là hiểu ngay chứ không hẳn phải đọc gần chục bài phân tích cảnh nữa. Nhưng như thế khiến mình cảm thấy hơi hụt hẫng. Vì sau khi xem những bộ phim khác của ông, mình có một cái thú vui mới chính là ngồi tìm những ý nghĩa được ông gài vào những đồ vật vô tình nằm trong khung hình hay những chi tiết nhỏ liên kết với mạch truyện sau.
Phim được đề cử Cành cọ vàng mà, chắc chắn phải có những điểm sáng để lọt vào mắt nhà phê bình. Bên cạnh nội dung rất thời sự, diễn xuất của các diễn viên là điều khiến mình phải cảm thán, phim hay thật sự đấy.
Ấn tượng nhất phim chắc chắn phải là bé chính, Ahn Seo-hyun vai Mija. Cô bé có đôi mắt sáng và rất có hồn, rất kiên cường nhưng cũng rất ngây thơ, có thể đánh đổi tất cả, kể cả vật chất để đổi lấy người bạn đồng hành của mình. Đây là ý nghĩ khiến mình khâm phục nhất và chắc chỉ có những cô bé, cậu bé mới làm được, người lớn phải chịu thua thôi.
Người thứ hai chính là chàng thơ mới nhất của đạo diễn Bong, Choi Woo-sik. Thời lượng lên hình trong Okja của chàng trai này chắc cũng chỉ 15 phút là cùng nhưng cậu ấy, quào, sáng khung hình thật sự. Đây là lần đầu tiên mình phải cảm thán như vậy với một diễn viên trẻ của Hàn Quốc, cậu ấy thuộc về giới điện ảnh, và chỉ có điện ảnh mới bộc lộ hết vẻ đẹp thơ cùng tài năng của cậu ấy. Woo-sik không có khuôn mặt quá điển trai, chỉ dừng lại ở mức ưa nhìn nhưng chính khả năng diễn xuất tự nhiên, nhập vai nhanh cùng cách thể hiện cảm xúc nhân vật tốt khiến cậu trở thành một trong những diễn viên trẻ hiếm hoi của Hàn Quốc có 4 phim đến Cannes chỉ trong 3 năm.
Người cuối cùng làm mình nhớ mãi đó chính là nhân vật K. Có thể nói, chính nhân vật này là mắt xích cho chuỗi sự kiện diễn ra tại Mỹ. Anh tốt bụng, vì chính nghĩa nhưng để dẫn đến cái chính nghĩa trên mặt báo thì anh đã từng toan tính, ích kỷ. Mình cực kỳ thích cách xây dựng nhân vật như vậy của Bong, một nhân vật tưởng chừng như rất phụ, có phần hơi hài hước, ngốc ngốc nhưng lại có những góc khuất khác, vậy mới là con người. Tiện thể nhắc về K thì lại nhớ về anh Jay đẹp trai. Bị trauma phim Bong nhiều quá nên càng coi chỉ cầu mong Jay đừng bị twist thành nhân vật xấu thôi, hehe. Ngoài ra phim còn có sự tham gia diễn xuất của một số diễn viên nước ngoài tên tuổi nữa nhen.
Kết thúc bộ phim, mình không sợ đến mức mất ngủ như xem một số phim khác của Bong nhưng cũng khiến mình phải suy nghĩ nhiều. Là một người học và mong sẽ làm việc trong giới truyền thông, những công ty như Mirando chính là những nơi mình không hề mong muốn phát triển chúng cũng như để chúng tồn tại. Biết là nghe rất sáo rỗng và giáo điều nhưng mình luôn mong, con người đừng trở thành những dân văn phòng vô cảm, đứng nhìn bàng quan cảnh đồng loại của mình đang chết dần chết mòn như trong phim.
-
Yếu tố đa vũ trụ ẩn dụ tình trạng hỗn loạn của công nghệ, bàn tay xúc xích tượng trưng những điều không tưởng, ở phim "EEAAO".
Tại Oscar 2023, Everything Everywhere All at Once (viết tắt EEAAO) vượt nhiều tên tuổi lớn để dẫn đầu 11 đề cử Oscar, sau đó chiến thắng bảy hạng mục, gồm giải Phim hay nhất.
Nội dung xoay quanh Evelyn Wang (Dương Tử Quỳnh đóng), một phụ nữ Trung Quốc nhập cư, là chủ cửa hiệu giặt ủi gặp nhiều vấn đề trong cuộc sống bình thường. Một ngày, cô phải học cách đi xuyên các thế giới, vận dụng mọi kỹ năng mà những phiên bản khác đang có để chống lại cái ác. Theo LA Times, Daniels đã lồng ghép nhiều tình tiết phi logic vào tác phẩm để bật lên thông điệp về giá trị cuộc sống và tình cảm gia đình.
Đa vũ trụ - ẩn dụ cho tình trạng quá tải Internet
Daniel Kwan và Daniel Scheinert (viết tắt Daniels) - đồng đạo diễn, biên kịch phim - đã nung nấu ý tưởng cho EEAAO từ năm 2016, sau khi hoàn thành bộ phim Swiss Army Man.
"Khi đó, chúng tôi nhận ra Internet đáng sợ như thế nào, từ sự phấn khích chuyển sang khiếp sợ về tiến bộ trong khoa học. Trong phim, mọi người đang cố gắng chống chọi với sự hỗn loạn của công nghệ", Kwan nói với LA Times.
Đạo diễn cho rằng phong cách và màu sắc làm phim của họ ảnh hưởng từ các video trên YouTube, những bộ phim ngắn theo chủ nghĩa phi lý. Khi phác thảo ý tưởng đa vũ trụ cho dự án, hai đạo diễn muốn truyền tải ý nghĩa cuộc sống qua đề tài này.
Câu chuyện về những người hùng nhập cư gốc Á
Ban đầu, Daniels không có ý định xây dựng bộ phim xoay quanh siêu anh hùng nhập cư. Hai nhà làm phim cho rằng câu chuyện về các thế hệ trong gia đình người Mỹ gốc Hoa đã lồng ghép với chủ đề siêu anh hùng một cách tự nhiên. Hơn nữa, đa vũ trụ trong góc nhìn của người nhập cư tạo ra chiều sâu cho cốt truyện, khiến nhân vật Evelyn (Dương Tử Quỳnh) có lý do để suy ngẫm về những quyết định trong quá khứ.
"Khi phải từ bỏ điều gì đó, trong đầu bạn sẽ hiện lên câu hỏi 'nếu như'. Đa vũ trụ là nơi hoàn hảo để chúng tôi khám phá điều trước đây mỗi người chưa từng thực hiện, đặc biệt đối với người nhập cư ở độ tuổi trung niên. Những người này đã trải qua nhiều khó khăn, họ thường nhìn lại những điều mình từng hối tiếc. Ý tưởng này là cách để khám phá câu chuyện của chính cha mẹ tôi", Kwan nói.
Trong phim, nhân vật giao tiếp bằng tiếng Anh lẫn tiếng Quảng Đông và quan thoại. Đạo diễn nói sự pha trộn nhiều thứ tiếng có thể làm khán giả bối rối, nhưng chi tiết này khiến bộ phim trở nên chân thực, bởi nó giống trải nghiệm của Kwan - người lớn lên trong một gia đình nhập cư gốc Á, từ Đài Bắc và Hong Kong.
Theo Kwan, các khán giả gốc Á đều xúc động sau khi xem phim. Ở phân đoạn cuối có cảnh Evelyn và Waymond (Quan Kế Huy) hôn nhau. Anh nói đó đơn thuần là một cử chỉ nhỏ, nhưng đối với nhiều người cảnh này tác động mạnh đến họ. Đạo diễn chỉ ra rằng hầu hết bậc phụ huynh là người nhập cư thường không có không gian riêng tư để bày tỏ tình cảm.
Thông điệp về khoảng cách thế hệ
Hai mẹ con Evelyn và Joy (Stephanie Hsu) bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không tìm được tiếng nói chung. Ở vũ trụ khác, phiên bản của Joy - Jobu Tupaki - biến nỗi đau của cô thành khao khát muốn phá hủy sự yên bình của đa vũ trụ.
Với Daniels, nhân vật Joy cũng giống họ, cũng phải đối mặt ánh mắt khó hiểu của cha mẹ khi làm nghệ sĩ. Kwan liên tưởng đến việc mẹ mình dần chấp nhận nghề nghiệp của anh để đưa vào kịch bản: Evelyn phải cố gắng hiểu con người của Joy, gồm cả việc chấp nhận con mình là người đồng giới.
"Đây là lời cảm ơn đến mẹ vì bà đã chấp nhận những điều không tưởng của chúng tôi", Daniel Kwan nói.
Trong một kịch bản nháp, Evelyn được xây dựng là người cộc cằn và công khai kỳ thị đồng tính. Tuy nhiên hai nhà làm phim cho rằng điều này không đúng. "Cha mẹ cố gắng chấp nhận con cái, chẳng qua họ khó có thể nói chuyện với chúng tôi. Khi viết lại kịch bản với ý tưởng này, câu chuyện đã trở nên thú vị và mang nhiều sắc thái hơn", Scheinert nói.
Những ngón tay xúc xích - đại diện một thế giới kỳ quặc
Scheinert cho rằng anh và Kwan cần tạo ra một vũ trụ thách thức sự đồng cảm của Evelyn. Ở hiện tại, cô không ưa nhân viên thuế Deirdre cau có, nhưng cả hai là người yêu ở vũ trụ khác - nơi mọi người có những ngón tay giống xúc xích. Evelyn cảm thấy việc bày tỏ tình cảm của những người trong vũ trụ này kỳ quặc. Họ hôn nhau bằng cách đưa tay vào miệng, tương cà và mù tạt từ miệng tuôn ra. Nhưng Evelyn phải học cách yêu vũ trụ đó, phải nhìn thấy vẻ đẹp trong những hình ảnh kỳ dị. Và từ đó, Evelyn - vốn là người cứng nhắc - buộc phải nhìn nhận lại thế giới quan của mình.
-
Eternal sunshine of the spotless mind của đạo diễn Michel Gondry là một bộ phim tình yêu từ một kịch bản xuất sắc của Charlie Kaufman được công chiếu năm 2004, cho đến nay bộ phim vẫn giữ trọn vị trí của nó về mặt giá trị ý nghĩa đến nghệ thuật điện ảnh trong lòng người xem. Bộ phim là sự cộng hưởng tuyệt vời của thể loại kịch, lãng mạn, khoa học viễn tưởng, và hài hước. Chính vẻ đẹp về nội dung đã giúp bộ phim mang lọt top những giải thưởng lớn của năm 2004 như Top 6 Bộ phim xuất sắc nhất năm, Top 10 Bộ phim được bàn bạc nhiều nhất năm và top 7 Bộ phim được chia sẻ nhiều nhất năm, chưa kể đến những giải thưởng trao cho bộ phim của thế kỉ 21.
Đạo diễn Michel Gonry đặt người xem vào một sự cộng hưởng giữa mơ và thực. Khác hoàn toàn với những câu chuyện tình yêu được kể trên phim khác, bộ phim là một câu chuyện tình yêu được kể ngược chiều thời gian, và kết thúc là một cú lội ngược dòng làm thoả mãn người xem. Joel (Carrey) vô cùng bất ngờ và thất vọng khi biết rằng bạn gái cũ của anh ấy Clementine (Winslet) đã xoá bỏ mảng kí ức về mối quan hệ của anh và cô ấy. Anh quyết định liên lạc với người đã sáng chế ra kỹ thuật này, Tiến Sĩ Bác Sĩ Howard Mierzwiak (Wilkinsoon), để giúp anh anh quên đi sự tồn tại của Clementine trong cuộc đời này. Tuy nhiên, khi những ký ức của Joel dần dần biến mất cũng là lúc hành trình tìm kiếm lại tình yêu dành cho Clementine bắt đầu. Trong suốt những hành trình ấy, có những lúc người xem tưởng chừng như tiếng hét của Joel vượt khỏi giới hạn của khung ảnh khi anh níu kéo Clementine. Những khoảnh khắc quay ngược câu chuyện tình cảm của cặp đôi có thể khiến tim người xem như thắt lại vì đau lòng. Nhưng rồi cái kết mặc dù khá mở, nhưng dường như đạo diễn đã khôn khéo đặt cánh cửa ấy ở phía mặt trời mọc, khiến cho cái kết rất đẹp và mát lòng người xem. Nội dung bộ phim là một lời sẻ chia, xoa dịu và cảm thông nỗi lòng của những người đang tan vỡ trong tình yêu và đang trong giai đoạn dằn vặt bản thân để quên đi người cũ nhưng cảm thấy quá khó khăn. Cái kết đẹp như thổi vào họ một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu và cái gọi là duyên phận, bởi lẽ cho dù ta có cố xoá ký ức về người mình yêu thì hình ảnh đó vẫn tồn tại mãi trong tim ta. Câu chuyện tình yêu, rồi cũng sẽ bắt đầu như những gì nó được sắp đặt, cho dù ta không còn nhớ mình đã từng là gì của nhau.
Cảnh quay trong phim có thể đọng lại trong tim của người xem hơn mấy năm trời với vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn được tôn lên bởi những góc quay cực kì chọn lọc của đạo diễn Gondry. Bạn xem có thể sẽ khắc ghi mãi hình ảnh hai diễn viên chính nằm cạnh một vết nứt trên bờ hồ đóng băng kinh điển đã đi được chọn làm poster và điểm nhấn cho bộ phim. Máy quay phim đã ghi nhận được hình ảnh này ở góc đẹp nhất của nó làm cho ta cảm thấy được sự ấm áp lan toả giữa thời tiết giá lạnh. Những góc quay đều bật lên vẻ đẹp của mọi diễn viên trong bộ phim khi họ đang tan vỡ, đau khổ vì tình yêu, xúc động hay vui vẻ hạnh phúc. Những cảnh quay được dàn dựng trong phim mang lại cho người xem một cảm giác thực đến nỗi họ có thể tin chắc rằng báo đài không hề phóng đại khi nói rằng không có sự nhúng tay của vi tính trong các cảnh này. Tiêu biểu là đoạn Joel trong kí ức của anh ấy, đang đến gặp tiến sĩ Howard sớm hơn trong ngày, máy quay ghi nhận hình ảnh Joel đang quan sát cảnh bản thân đang ngồi với bác sĩ trên bàn rồi sau đó lại quay về hình ảnh của anh ấy ban đầu. Nếu chúng ta để ý kĩ sẽ nhận ra rằng không có một kĩ xảo nào được sử dụng ngoài nghệ thuật quay truyền thống, nhưng nó vẫn làm bộ phim chân thật và dễ đi vào lòng người.
Nhìn chung, đây là bộ phim đáng để bạn xem lại nhiều lần. Và nếu bạn đang thất tình, hay đang trong giai đoạn hậu chia tay, bộ phim này có thể sẽ là một món ăn tinh thần, một người bạn có thể đồng cảm, sẻ chia với bạn. Và cho dù bạn nghĩ rằng bạn đang sống những ngày tối tăm nhất trong đời bạn, thì bạn vẫn sẵn lòng Nếu còn tin, và còn yêu, thì rồi duyên phận sẽ lại một lần nữa đưa con người ta trở lại bên nhau…
-
Dựa trên tiểu thuyết Nhật All you need is kill (Điều cần làm là giết), Edge of tomorrow kể câu chuyện về một tương lai không xa, khi loài sinh vật đáng sợ Mimic xâm lăng trái đất.
Chiến tranh hủy diệt châu Âu và bờ biển phía tây nước Pháp trở thành tiền tuyến trước khi cả thế giới chìm trong lửa đạn.
Sau nhiều thất bại, loài người với những bộ áo giáp chiến đấu hiện đại bắt đầu phản công bọn Mimic và nữ chiến binh Rita Vrataski (Emily Blunt), có biệt danh là “Thiên thần xứ Verdun”, trở thành biểu tượng của chiến thắng.
Thiếu tá quân đội Mỹ William Cage (Tom Cruise) bị đẩy vào trận đánh ở bờ biển Pháp dù không muốn và tử thương chỉ vài phút đối mặt với kẻ thù đến từ không gian. Nhưng trước khi chết, máu của một con Mimic xâm nhập cơ thể Cage và bất ngờ anh sống lại ngày hôm trước, khi chiến sự chuẩn bị bắt đầu. Cage bắt đầu quá trình sống, chết rồi lại hồi sinh liên tục cho đến khi gặp Rita Vrataski.
Những cuộc xâm lăng của người ngoài hành tinh là chủ đề muôn thưở trong dòng phim khoa học viễn tưởng của Hollywood. Nhân vật sống lặp đi lặp lại một ngày cũng không phải là ý tưởng mới mẻ, đã từng xuất hiện trong những bộ phim nổi bật như Groudhog day (Ngày chuột chũi) hay Source code (Mã nguồn).
Nhưng Edge of tomorrow vẫn đem lại cảm giác tươi mới và sáng tạo nhờ những yếu tố hiếm khi xuất hiện trong các bộ phim “bom tấn” mùa hè.
Hoàn toàn khác với các nhân vật mà Tom Cruise từng đảm nhận, thiếu tá William Cage hoàn toàn không phải là một người anh hùng, thực tế chỉ là thằng hèn. Để trốn tránh việc tham chiến, Cage sẵn sàng đe dọa cấp trên hoặc cuống cuồng bỏ trốn. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Cage luống cuống trong bộ giáp sắt, vùng vẫy vô vọng trên chiến trường và nhanh chóng bị hạ sát.
Từ cuộc chiến lặp đi lặp lại, chứng kiến sự dũng cảm của các đồng đội, được Rita đào tạo, Cage mới dần trở thành một chiến binh thực thụ, can đảm đối mặt với cái chết.
Ở tuổi 51, Tom Cruise vẫn rất trẻ trung. Anh đã thể hiện rất sinh động và hài hước một William Cage tham sống sợ chết, trải qua quá trình rèn luyện bản thân, tâm lý có sự biến chuyển lớn rồi trở thành một người hùng thực thụ. Nhân vật Cage nhờ thế trở nên người hơn, đời hơn.
Nhưng nổi bật hơn Tom Cruise là nữ diễn viên Anh Emily Blunt với vai Rita Vrataski, “Thiên thần xứ Verdun”.
Nhìn chung, các nhân vật nữ chính trong phim bom tấn Hollywood thời gian qua đều là những cô gái yếu đuối, phụ thuộc vào đàn ông, luôn cần được giải cứu.
Ngược lại, Rita Vrataski là một chiến binh đầy mạnh mẽ, can đảm và thông minh, khiến những người đàn ông trong quân đội phải kính nể.
Rita cần năng lực xoay chuyển thời gian của Cage để chống lại bọn Mimic, nhưng Cage phải dựa vào trí tuệ và sức mạnh của Rita. Emily Blunt đã nhập vai Rita hết sức thành công, gợi nhớ lại những nhân vật nữ mạnh mẽ và nổi bật trong lịch sử Hollywood như Ripley của loạt phim Aliens (Quái vật không gian) hay Sarah Connor của Terminator (Kẻ hủy diệt). Hollywood cần có thêm những nhân vật nữ kiểu này.
Trong phim, một ngày của Cage liên tục lặp đi lặp lại, nhưng mỗi lần đều có sự khác biệt và diễn ra đầy hài hước, không hề dẫn tới sự nhàm chán. Trận chiến trên bãi biển nước Pháp diễn ra dữ dội, khốc liệt, đầy căng thẳng với những hình ảnh gợi lại Thế chiến II không thể lầm lẫn với kỹ xảo hình ảnh đầy ấn tượng.
Edge of tomorrow cho thấy rằng Hollywood không cần phải điên cuồng chạy theo remake và sequel để thành công và thu hút khán giả. Một bộ phim hay luôn cần sự mới mẻ và độc đáo.
-
"RoboCop" (1987) là một bộ phim khoa học viễn tưởng hành động do Paul Verhoeven đạo diễn. Phim lấy bối cảnh tại một Detroit trong tương lai, nơi mà tội phạm và bạo lực đang gia tăng nghiêm trọng.
Câu chuyện xoay quanh Alex Murphy (Peter Weller), một cảnh sát dũng cảm nhưng bị thương nặng trong một vụ tấn công. Để cứu sống anh, các nhà khoa học của OCP (Omni Consumer Products) quyết định biến Murphy thành RoboCop, một cyborg với sức mạnh vượt trội, được lập trình để duy trì trật tự.
Tuy nhiên, RoboCop phải đối mặt với những hồi ức về quá khứ của mình, cùng với sự xung đột giữa nhiệm vụ và bản chất con người. Phim khai thác các chủ đề về nhân tính, quyền lực và sự thao túng của công ty trong xã hội.
-
"The Trouble with Harry" (1955) là một bộ phim hài do Alfred Hitchcock đạo diễn, kết hợp giữa yếu tố hài hước và bí ẩn. Câu chuyện diễn ra ở một thị trấn nhỏ tại New England, nơi một xác chết được tìm thấy trong rừng — đó là Harry.
Những nhân vật chính, bao gồm một cặp vợ chồng và một vài cư dân địa phương, bắt đầu lo lắng và tìm cách xử lý tình huống bất ngờ này. Mỗi người trong số họ có những suy nghĩ riêng về cái chết của Harry, và họ lần lượt tiết lộ các bí mật, dẫn đến những tình huống hài hước và kỳ quặc.
Phim không chỉ là một câu chuyện về một cái xác, mà còn khám phá các mối quan hệ giữa các nhân vật và cách họ phản ứng với tình huống éo le. "The Trouble with Harry" nổi bật với phong cách hài hước đặc trưng của Hitchcock, cùng với những hình ảnh đẹp và âm nhạc lôi cuốn. Bộ phim là một trong những tác phẩm thú vị của ông, thể hiện khả năng kết hợp giữa hài hước và yếu tố ly kỳ.
-
Bộ phim bắt đầu khi một nhóm người lạ, bao gồm một doanh nhân, một người phụ nữ trẻ và một số nhân vật khác, cùng nhau đi vào thang máy. Thang máy đột ngột bị kẹt, khiến tất cả mọi người bị mắc kẹt trong không gian chật chội và bí bách. Mỗi người trong số họ đều mang theo những câu chuyện riêng, cùng với những lo lắng và nỗi sợ khác nhau. Sự căng thẳng bắt đầu gia tăng khi họ nhận ra rằng không có ai đến cứu họ. Trong suốt thời gian bị kẹt, các nhân vật bắt đầu giao tiếp, bộc lộ cảm xúc và những bí mật của họ. Từ những tình huống hài hước cho đến những cuộc tranh luận kịch tính, bộ phim phản ánh cách mà con người đối mặt với khó khăn và áp lực.
-
"Devil in a Blue Dress" (1995) là một bộ phim hình sự do Carl Franklin đạo diễn, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Walter Mosley. Phim lấy bối cảnh Los Angeles vào những năm 1940 và xoay quanh một cựu chiến binh Afro-American. Ezekiel "Easy" Rawlins (do Denzel Washington thủ vai) là một cựu chiến binh vừa trở về từ Thế chiến II. Anh đang tìm kiếm công việc để trang trải cuộc sống và trả tiền cho căn nhà của mình. Khi bị sa thải, Easy được một người đàn ông da trắng tên là Mr. Albright (do Tom Sizemore thủ vai) thuê để tìm kiếm một người phụ nữ bí ẩn tên Daphne Monet (do Jennifer Beals thủ vai), một cô gái xinh đẹp và phức tạp. Albright hứa sẽ trả tiền tốt cho việc tìm kiếm. Khi Easy bắt đầu cuộc điều tra, anh phát hiện ra nhiều bí mật đen tối về thế giới tội phạm, sự phân biệt chủng tộc và những mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng trở thành một cuộc phiêu lưu nguy hiểm, khi Easy bị cuốn vào những vụ giết người và âm mưu đầy bất ngờ. Trong hành trình, Easy không chỉ đối diện với kẻ thù mà còn phải đối mặt với những bóng ma từ quá khứ của chính mình, đồng thời khám phá về bản thân và xã hội xung quanh.
-
Năm con vật chuyên trộm cắp tìm cách để được hoàn lương, trong phim "The Bad Guys".
Phim của đạo diễn Pierre Perifel, dựa trên bộ sách thiếu nhi cùng tên, xoay quanh một nhóm năm động vật chuyên trộm cắp, là nỗi khiếp sợ của người trong thành phố.
Đại ca Sói (Sam Rockwell lồng tiếng) sở hữu "ngón nghề" móc túi. Anh Rắn (Marc Maron) là cao thủ cạy tủ. Anh Cá Mập (Craig Robinson) - bậc thầy cải trang. Anh Cá Hổ (Anthony Ramos) - quả bom nổ chậm. Còn cô Nhện (Awkwafina) là phù thủy công nghệ.
Trong phi vụ trộm chiếc cúp "Công dân lương thiện", nhóm bị cảnh sát tóm được. Cả năm buộc phải trở thành người tốt nếu muốn trắng án. Thời hạn được đặt ra là trước đêm Gala từ thiện của chú chuột lang gương mẫu - Giáo sư Marmalade (Richard Ayoade). Những tình huống dở khóc dở cười trong hành trình thay đổi bản chất bắt đầu từ đây.
Phim đề cập đến nhân cách con người thông qua hình tượng động vật. Năm con vật được biết đến như những tội phạm cộm cán. Chúng vào quán ăn không trả tiền, cướp ngân hàng giữa ban ngày, bị cảnh sát truy đuổi nhưng đều thoát được.
Các con vật làm điều xấu bởi trước đó chịu những định kiến về ngoại hình. Con người nhìn nhận chúng như những kẻ săn mồi (Cá Mập), không kiềm chế được cảm xúc (Cá Hổ), nguy hiểm với cái lưỡi dài (Rắn)...
Chúng cũng chưa bao giờ thử trở thành người tốt, nên khi đứng trước yêu cầu trở thành người tốt để xóa án, nhóm có những hành động kỳ quặc. Thay vì nhẹ nhàng giúp đỡ chú mèo đang mắc kẹt trên cây, chúng lại hù dọa nó. Cá Mập và Rắn học cách chia sẻ cho nhau nhưng tính cách nóng giận bộc phát nên xảy ra một trận ẩu đả. Lúc cứu đám chuột lang khỏi phòng thí nghiệm, chúng vô tình để mọi người nhìn thấy bọn chuột lang bị nhét vào bụng Rắn...
Trong quá trình thay đổi để trở nên tốt hơn, cũng có những khoảnh khắc các con vật ghi điểm. Tiêu biểu là phân cảnh Sói móc túi bà lão nhưng vô tình bà trượt chân, Sói đã kéo bà lão lại để tránh bị ngã. Khi được bà lão khen "cậu là một cậu bé ngoan", Sói nhận ra cảm giác này quá lạ lẫm, làm anh đơ người. Chính chi tiết này là khởi đầu cho chuyển biến tâm lý, khiến Sói muốn trở thành một người tốt. Vì không có ai khuyên răn, năm nhân vật có hành động nông nổi. Khi nhận ra những việc làm xấu trong quá khứ, Sói ngộ ra, tìm cách chuộc lại lỗi lầm, mong được xã hội tha thứ.
Sói - nhân vật chính - muốn thể hiện nhân cách tốt nhưng lại bị chi phối bởi xã hội xung quanh. Điều này dẫn đến việc Sói và nhóm bạn cảm thấy bản thân không phù hợp với mọi người. Chúng đi ngược lại với số đông, làm người xấu hù dọa những người yếu thế hơn. Nhờ sự giúp đỡ của Thị trưởng Diane Foxington (Zazie Beetz) trong hành trình làm người tốt, Sói được cảm hóa và nhận ra giá trị của bản thân.
Phim còn lồng ghép bài học về tình bạn. Nhóm kẻ xấu tách biệt khỏi cộng đồng, bị người dân xa lánh, cảnh sát truy lùng. Năm đối tượng chỉ có thể làm bạn với nhau, phối hợp thực hiện những vụ phạm tội. Trong quá trình trở thành người tốt, nhóm bạn này không thể tránh khỏi những xung đột. Nhưng khi hiểu lầm được hóa giải, họ đoàn kết chống lại thế lực xấu đang đe dọa thành phố.
Bên cạnh thông điệp nhân văn, bộ phim sáng tạo trong các góc quay, hình ảnh và âm nhạc. Phân đoạn rượt đuổi trên đường phố giữa cảnh sát và nhóm động vật dựa trên những bộ phim hành động kinh điển, đồng thời giữ được nét hài hước, tươi vui của thể loại hoạt hình, phù hợp với những khán giả nhí. Sự pha trộn giữa hoạt hình (animation) và truyện tranh (comic) không mới nhưng được sử dụng vừa đủ để gây ấn tượng về mặt thị giác. Bản nhạc Good Tonight do Danniel Pemberton soạn nhạc, chú Cá Hổ Anthony Ramos thể hiện - cũng đã góp thêm điểm nhấn cho tác phẩm.
Tuy vậy, tác phẩm còn nhiều hạn chế. Bộ phim hướng đến khán giả nhỏ tuổi nên không nhiều cao trào. Mâu thuẫn xã hội của nhân vật phản diện không được đẩy lên đỉnh điểm. Nếu nhiều phim hoạt hình hiện nay khai thác sâu về tâm lý phức tạp của con người, DreamWorks giậm chân tại chỗ với một tác phẩm mang thông điệp đạo đức hướng thiện theo môtíp lỗi thời.