Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,725 files
-
Tôi cho “The Polar Express” 5 sao không phải vì giải thưởng mà nó đạt được, cũng không phải bởi vì ai đó nói rằng nó hay đến mức xứng đáng được 5 ngôi sao, mà là bởi vì tôi cảm thấy phần tuổi thơ đã trôi qua của mình xứng đáng nhận 5 ngôi sao ấy, và “The Polar Express” đã đưa tôi về với “tôi” năm 10 tuổi.
Hình như khi trưởng thành, cuộc sống và những nỗi lo rất đời đều khiến cho họ cảm xúc của chúng ta chai lì hơn, và ta ít khi nào chìm đắm trong thế giới tưởng tượng mà ngày thơ bé ta vẫn hăng dạo chơi trong đó nữa. Những câu chuyện như “The Polar Express” dường như là một kí ức rất đỗi xa xăm rồi. Ông già Noel, những chú tuần lộc, chiếc xe kéo, món quà giấu sau cây thông hay tiếng chuông bạc trên cỗ xe của ông già Noel, lớn lên, chẳng ai còn tin điều đó. Ông già Noel không có thật! Lâu đài ở nơi cao nhất trên trái đất không có thật!
Nhưng chúng ta có ai dám chắc điều đó không?
Người dễ dàng quên đi tuổi thơ của chính mình, là chúng ta. Người sống thực dụng và chai sạn cảm xúc hơn, là chúng ta. Vậy chúng ta làm sao khẳng định rằng ông già Noel, cỗ xe, lâu đài ở Bắc Cực và những chú tuần lộc không có thật đây?! Như cha mẹ của cậu bé “tôi” không hề nghe thấy tiếng chuông từ cỗ xe của ông già Noel trong khi cậu và em gái lại nghe thấy. Và cô em gái Sarah của cậu cũng không còn nghe thấy tiếng chuông nữa khi cô trưởng thành. Chỉ còn cậu bé ấy, dù có già đi, vẫn nghe tiếng chuông ngân và nhớ về chuyến tàu tốc hành đến “ngôi nhà” của ông già Noel.
Tiếng chuông đó kì thực là lời gợi nhắc của quá khứ, là tiếng ngân vang từ kí ức tuổi thơ, và chỉ có người nào vẫn giữ một tâm hồn thơ trẻ, vẫn giữ trong lòng một niềm tin thì mới có thể nghe thấy nó. Tiếng chuông thực ra chính là tuổi thơ của chúng ta, lớn lên, ta dễ dàng lãng quên những kí ức thời thơ ấu. Nhưng những ký ức đó giống như tiếng chuông ngân vang mãi trong lòng ta, chỉ cần lặng một chút và kiên nhẫn “lắng nghe”, ta sẽ “nghe” thấy âm thang của kí ức vọng về, ta sẽ lại trở về ngày thơ ấu vô tư và trong trẻo đó, ta sẽ lại có lại một niềm tin.
Cuối cùng, “The Polar Express” là một câu chuyện ngắn gọn, đơn giản, súc tích một cách hoàn hảo, điều diệu kì sưởi ấm trái tim của mỗi người, tạo ra niềm thích thú cho lũ trẻ và khiến người lớn không thể không mỉm cười mơ màng mà nhớ về tuổi thơ của mình. Có thế mới thấy được, sức mạnh của ngôn từ thật là kì diệu biết bao, ta không bao giờ cần phải nói quá nhiều, chỉ cần chọn lấy những từ ngữ thật đắt giá, và rồi ngôn từ sẽ tự làm “phần việc” của riêng mình.
“The Polar Express” là điều kì diệu dành cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi!
-
Saturday Night Fever là một bộ phim nhạc kịch của Mỹ năm 1977 do John Badham đạo diễn với John Travolta đóng vai Tony Manero, một thanh niên giai cấp công nhân đang nghỉ hè và chơi nhạc tại một vũ trường ở Brooklyn. Karen Lynn Gorney đóng vai Stephanie Mangano, bạn nhảy của Tony và cuối cùng trở thành bạn tâm giao; và Donna Pescow vai Annette, bạn nhảy cũ của Tony và bạn gái dự định của anh. Khi ở vũ trường disco, Tony là vũ công vô địch. Bạn bè và các sàn nhảy cuối tuần của anh giúp Tony đối phó với những thực tế khắc nghiệt của cuộc đời: một công việc chán ngắt, đụng độ với gia đình không chăm sóc và hay cãi cọ, căng thẳng chủng tộc trong cộng đồng địa phương và sự bồn chồn của chính anh.
Câu chuyện dựa trên một bài báo trên tạp chí New York năm 1976 của nhà văn người Anh Nik Cohn, "Các nghi lễ của bộ lạc vào đêm thứ bảy mới" (Tribal Rites of the New Saturday Night); Vào giữa những năm 1990, Cohn thừa nhận rằng ông đã sáng tác ra bài báo. Là một người mới đến Hoa Kỳ và một người xa lạ với lối sống disco, Cohn không thể giải thích được nền văn hóa ông đã được chỉ định để viết; Thay vào đó, nhân vật trở thành Tony Manero dựa trên một người quen Mod của Cohn.
Bộ phim đã thành công lớn về thương mại và góp phần phổ biến nhạc disco trên khắp thế giới và khiến Travolta, vốn đã nổi tiếng từ vai diễn của mình trên chương trình Welcome Back, Kotter, trở thành một cái tên thân thuộc của mọi gia đình. Nhạc phim của Saturday Night Fever, với các bài hát của Bee Gees, trở thành một trong các album nhạc phim bán chạy nhất lịch sử. Bộ phim giới thiệu các khía cạnh của âm nhạc, khiêu vũ, và các tiểu văn hóa xung quanh thời đại disco: giai điệu với dàn nhạc giao hưởng; phong cách ăn mặc haute couture; tình dục thoải mái thời trước khi có bệnh AIDS; và các bài vũ đạo duyên dáng.Phần tiếp theo Staying Alive (1983) cũng do John Travolta đóng vai chính và được Sylvester Stallone đạo diễn, nhưng nhận được sự tiếp nhận kém tích cực hơn. Trong năm 2010, Saturday Night Fever được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đánh giá là "có ý nghĩa quan trọng về văn hoá, lịch sử, hoặc thẩm mỹ" và được lựa chọn để bảo quản trong Viện lưu trữ phim quốc gia Hoa Kỳ.
-
"Wayne's World" (1992) là một bộ phim hài do Penelope Spheeris đạo diễn, dựa trên một skit nổi tiếng từ chương trình "Saturday Night Live." Phim theo chân Wayne Campbell (Mike Myers) và Garth Algar (Dana Carvey), hai người bạn đam mê âm nhạc sống ở Aurora, Illinois.
Câu chuyện bắt đầu khi Wayne và Garth quyết định sản xuất một chương trình truyền hình trực tuyến về âm nhạc từ hầm của Wayne. Khi chương trình trở nên nổi tiếng, họ thu hút sự chú ý từ một nhà sản xuất đầy tham vọng, Benjamin (Rob Lowe), người có ý định thương mại hóa chương trình.
Mọi chuyện trở nên phức tạp khi Wayne phải đối mặt với cảm xúc của mình đối với Cassandra Wong (Tia Carrere), một nhạc sĩ tài năng mà Benjamin cũng đang theo đuổi. Phim kết hợp nhiều yếu tố hài hước, âm nhạc và văn hóa pop, với những câu thoại và tình huống vui nhộn đã trở thành biểu tượng.
"Wayne's World" không chỉ là một bộ phim giải trí mà còn phản ánh tinh thần tự do và niềm đam mê của thế hệ 90. Phim đã gặt hái thành công lớn và trở thành một tác phẩm văn hóa đáng nhớ.
-
Volver (tiếng Tây Ban Nha nghĩa là Trở về) đánh dấu hàng loạt sự trở về. Không chỉ là sự trở về của nhân vật , đó còn là sự trở về của nữ diễn viên chính Penelope Cruz với đạo diễn đã từng giúp cô trở thành minh tinh màn bạc đẳng cấp thế giới gần 10 năm trước và cũng là sự trở về quê nhà – ngôi làng nhỏ La Manchan của Pedro Almodóvar.
Trong một phần tư thập kỷ, những bộ phim như All about my mother (Tất cả về mẹ), Talk to her (Nói với nàng), Bad Education (Giáo dục tồi) đã tạo nên một dòng phim mang đậm bản sắc riêng của Pedro Almodóvar. Đó là sự hoà trộn của các thể loại phim vào một, từ những cảnh hài dí dỏm ban đầu dẫn dắt người xem đến một bi kịch ở cuối phim, từ cảm giác một phim tình cảm để rồi kết thúc như một phim hình sự, với những cái kết bất ngờ và xúc động.
Mở đầu của Trở về là sự dí dỏm về cuộc sống ở ngôi làng nhỏ La Manchan, nơi phụ nữ sống lâu hơn đàn ông và có cái nhìn lạc quan về cái chết: họ chăm sóc cho ngôi mộ của chính mình như ngôi nhà thứ hai.
Trong một ngày đầy gió, Raimunda (Penelopez Cruz) cùng con gái Paula và chị gái Sole đến chăm nom cho ngôi mộ của Irene, người mẹ đã qua đời ba năm, thăm bà dì sống thui thủi một mình trong làng và nhờ người hàng xóm tốt bụng Agustina chăm nom cho bà dì tội nghiệp.
Khi chồng của Raimunda, một gã vô công rỗi nghề định hãm hiếp đứa con gái mới lớn của họ, bị Paula đâm chết trong lúc cô bé tự vệ, phim như chuyển hướng sang thể loại hình sự. Sau đó người dì qua đời, hồn ma người mẹ trở về cùng với cô con gái Sole, bộ phim lại một lần nữa chuyển hướng.
Khán giả không thể hình dung được chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp, và số phận của những phụ nữ của bộ phim, như Raimunda, Irene và Agustina (một nhân vật thú vị đáng để xây dựng thành một phim riêng về cô), dần mở ra với những nỗi lòng trắc ẩn. Sự thú vị bất ngờ đến vào phút chót, khi mà bí mật về cái chết của người mẹ, thân phận của bé Paula và sự mất tích kỳ lạ của mẹ Agustina hé lộ.
Những phụ nữ trong Trở về đều có nỗi lòng, nhưng họ giấu nỗi buồn phía sau gương mặt rạng rỡ. “Thông điệp của bộ phim là nói về những phụ nữ này và mối quan hệ rất tự nhiên với cái chết” – Pedro nói.
Penelope Cruz có một vai diễn xuất sắc trong bộ phim này, với nhiều lời bàn tán về một giải Oscar dành cho cô năm nay. Cô đã cùng Pedro tranh luận và xây dựng cho nhân vật Raimunda, với nhiều cảm hứng từ mẫu hình tượng phụ nữ trong các phim tân hiện thực của Ý.
Cô không phải là nữ diễn viên duy nhất trong phim thể hiện xuất sắc vai diễn của mình – dù rằng sắc đẹp của Cruz khiến cô trở nên nổi bật hơn cả.
Dàn diễn viên của cả bộ phim, với nữ diễn viên kỳ cựu Carmen Maura trong vai Irene, Lola Duena trong vai Sole và đặc biệt là Blanca Portillo trong vai Agustina, đã hoá thân xuất sắc với sự duyên dáng, hóm hỉnh và sắc sảo của họ.
Cộng thêm Yohana Cobo và Chus Lampreave trong vai Paula và bà dì, sáu diễn viên nữ trong Trở về đã đồng đoạt giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes 2006 hồi tháng 5 vừa qua. Sau khi chinh phục khán giả châu Âu, Trở về bắt đầu khởi chiếu tại Hoa Kỳ ở hai thành phố Los Angeles và New York city từ 3.11.2006.
-
"The City of Lost Children" (1995) là một bộ phim khoa học viễn tưởng và giả tưởng của đạo diễn Marc Caro và Jean-Pierre Jeunet. Câu chuyện diễn ra trong một thế giới tối tăm và mộng mị, nơi một nhà khoa học tên là Krank đang tìm kiếm cách lấy cắp những giấc mơ của trẻ em để kéo dài tuổi thọ của mình.
Krank, người không thể mơ, sống trong một thành phố bị bỏ quên, nơi mà những đứa trẻ bị bắt cóc và sử dụng để phục vụ cho những mục đích mờ ám. Trong khi đó, một người đàn ông tên là One, do Ron Perlman thủ vai, đang tìm kiếm em gái của mình, đã bị Krank bắt. One kết hợp với một nhóm trẻ em và một cô gái tên là Miette để cứu em gái và chống lại các thế lực của Krank.
Phim nổi bật với hình ảnh đẹp mắt, phong cách nghệ thuật độc đáo và không khí u ám. "The City of Lost Children" không chỉ là một câu chuyện phiêu lưu mà còn đề cập đến các chủ đề như tuổi thơ, tình yêu và sự mất mát. Phim nhận được nhiều lời khen ngợi và trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại giả tưởng.
-
"The Celluloid Closet" (1995) là một bộ phim tài liệu do Rob Epstein và Jeffrey Friedman đạo diễn, dựa trên cuốn sách cùng tên của Vito Russo. Phim khám phá sự đại diện của người LGBTQ trong điện ảnh từ những năm đầu của Hollywood cho đến những thập kỷ sau này.
Bằng cách phân tích các bộ phim nổi tiếng và các nhân vật, phim chỉ ra cách mà đồng tính và các vấn đề liên quan đến giới tính đã bị kiểm duyệt, biến dạng hoặc thể hiện một cách sai lệch trong suốt lịch sử điện ảnh. "The Celluloid Closet" sử dụng nhiều đoạn phim cổ điển, phỏng vấn các nhà làm phim, diễn viên và nhà phê bình, nhằm tạo ra một cái nhìn sâu sắc về những thách thức mà cộng đồng LGBTQ phải đối mặt trong ngành công nghiệp điện ảnh.
Phim không chỉ là một hành trình qua lịch sử điện ảnh mà còn là một bài luận về quyền của người LGBTQ, sự chấp nhận và tầm quan trọng của việc đại diện công bằng trong văn hóa đại chúng. "The Celluloid Closet" đã nhận được nhiều lời khen ngợi và là một tác phẩm quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về các vấn đề giới tính và bản dạng.
-
"A Christmas Story" (1983) là một bộ phim hài gia đình, xoay quanh mùa Giáng sinh của một cậu bé tên là Ralphie Parker, do Peter Billingsley thủ vai. Câu chuyện diễn ra vào những năm 1940 tại Indiana, nơi Ralphie ao ước có được một món quà đặc biệt: một khẩu súng BB Red Ryder.
Phim theo chân Ralphie và những trải nghiệm của cậu trong mùa lễ hội, từ việc cố gắng thuyết phục cha mẹ rằng súng BB là món quà hoàn hảo, đến những tình huống hài hước với bạn bè, thầy cô và gia đình. Các tình tiết như việc Ralphie phải đối mặt với sự khó khăn trong cuộc sống thường nhật và những niềm vui Giáng sinh tạo nên một bức tranh ấm áp và chân thực về tuổi thơ.
"A Christmas Story" nổi bật với những khoảnh khắc dễ thương, những câu thoại hài hước và một thông điệp ấm lòng về tình yêu thương gia đình. Bộ phim đã trở thành một biểu tượng của mùa Giáng sinh và thường được phát sóng lại trong các kỳ nghỉ lễ.
-
Đặt bối cảnh khi cuộc nội chiến kéo dài ba năm ở Tây Ban Nha sắp đến hồi kết thúc, năm 1939, The Devil's Backbone xoay quanh cuộc đời của cậu bé 10 tuổi Carlos khi được cha gửi vào một trường nội trú dành cho nam sinh.
Sau phút bỡ ngỡ ban đầu, Carlos cũng dần thích nghi được với nhịp sống của cô nhi viện nhưng đồng thời, cậu cũng nhanh chóng khám phá ra nhiều bí mật kinh hoàng tại nơi tưởng chừng là chốn an bình nhất trong chiến tranh.
Giống như nhiều phim kinh dị khác của del Toro, The Devil's Backbone mang màu sắc huyền ảo, đẹp đẽ như một bài thơ. Phim không có những sinh vật kì dị, lạ lùng mà chỉ có những hồn ma để làm yếu tố hù dọa khán giả. Nhưng rốt cuộc, chẳng có ma nào lại đáng sợ bằng lòng dạ con người.
Không chỉ là một câu chuyện ma, The Devil's Backbone còn đem đến những bi kịch về chiến tranh, tình yêu, sự phản bội và tham lam. Ở đó, những dục vọng, những toan tính nảy sinh rồi ăn mòn, hủy hoại người lớn cũng như đẩy trẻ con vào bước đường phải chiến đấu để sinh tồn.
Hoặc bạn cũng có thể xem The Devil's Backbone là một bộ phim 'coming of age' phiên bản đen tối. Phim khắc họa một câu chuyện trưởng thành thật sự tàn nhẫn chứ không mang không khí lưng chừng như bộ 6 đứa trẻ của IT
Âm nhạc, diễn xuất và quay phim đều rất tuyệt vời. Đặc biệt là những cảnh quay về hồn ma mang đến cảm giác vô cùng liêu trai, đẹp nhưng cũng rợn hết cả tóc gáy.
-
"Used Cars" (1980) là một bộ phim hài của đạo diễn Robert Zemeckis, xoay quanh cuộc sống của những người bán xe cũ tại một đại lý ở Arizona. Phim tập trung vào nhân vật Rudy Russo, do Kurt Russell thủ vai, một nhân viên bán hàng tài năng nhưng cũng rất mánh khóe.
Câu chuyện xoay quanh cuộc chiến giữa Rudy và đối thủ cạnh tranh, cũng như những âm mưu và chiêu trò mà anh và đồng nghiệp sử dụng để bán xe. Phim có nhiều tình huống hài hước và châm biếm về ngành công nghiệp ô tô cũ, đồng thời phản ánh các vấn đề như sự cạnh tranh và sự thiếu trung thực trong kinh doanh.
Ngoài những khoảnh khắc vui nhộn, "Used Cars" còn đề cập đến tình bạn và sự đoàn kết giữa những người lao động trong một môi trường khắc nghiệt. Phim nhận được nhiều lời khen về diễn xuất và kịch bản sáng tạo.
-
The Power of the Dog đánh dấu sự trở lại của Jane Campion - nữ đạo diễn New Zealand từng đoạt giải Cành Cọ Vàng với The Piano (1993) - sau 12 năm xa rời điện ảnh.
Giới phê bình đánh giá cao phim từ phần kịch bản, đạo diễn cho đến diễn xuất. Tác phẩm được xem là ứng cử viên sáng giá trong cuộc đua tranh giải Oscar năm nay.
Lấy bối cảnh miền Tây nước Mỹ năm 1925, bộ phim xoay quanh gia đình Burbank gồm hai anh em. Anh trai Phil (Benedict Cumberbatch) chưa vợ, hàng đêm vẫn ngủ cạnh em trai George (Jesse Plemons) không rời. Sóng gió ập đến khi George quyết định cưới góa phụ Rose (Kirsten Dunst), dẫn theo con trai cô Peter (Kodi Smitt-McPhee) về nhà. Thay vì hân hoan chào đón, Phil lại xem 2 mẹ con Rose là cái gai trong mắt, không ngừng buông lời khinh miệt trong khi George chẳng thể làm gì giúp vợ.
Ngay từ những cảnh quay đầu tiên, Phil Burkbank lướt qua ống kính bằng hình ảnh cao bồi thứ thiệt: đầu đội mũ vành, sơ mi dài tay đóng thùng, quần da bò, dây nịt thắt chặt ở hông. Từ cách đi đứng cho đến cử chỉ, nhân vật đều toát lên vẻ mạnh mẽ, đàn ông. Anh dẫn đầu đám cao bồi như thủ lĩnh, ưỡn ngực tiến về trước không sợ hãi, cầm dao thiến bê bằng động tác dứt khoát khiến nhiều người phải dè chừng.
Đôi khi sự nam tính trong Phil trở nên thái quá. Anh muốn mọi thứ phải đúng ý mình, thường xuyên buông lời mỉa mai và quát nạt người khác để áp chế. Phil miệt thị em trai George là “một đứa mập ngố, quá đần nên không học xong đại học”, không ngừng tra tấn tinh thần hai mẹ con Rose bằng mọi cách. Anh chê bai Peter vì vẻ ngoài ẻo lả và lối hành xử giống con gái, ném vào cậu những cái nhìn hằn học. Thậm chí ngay cả khi im lặng, Phil cũng khiến Rose ngộp thở, đến nỗi cô không còn cách nào khác ngoài tìm đến rượu để cứu rỗi tâm hồn.
Nhân vật Phil là minh họa điển hình cho thuật ngữ nam tính độc hại (toxic masculinity). Song, tính cách khắc nghiệt không chỉ khiến những người xung quanh khốn khổ mà còn giết chết bản thân anh. Theo thời gian, người xem nhận ra bên trong lớp vỏ nam tính cũng chỉ là một tâm hồn vụn vỡ, chịu nhiều đè nén. Nhiều cảnh quay gợi mở việc Phil không thích phụ nữ mà đem lòng yêu Bronco Henry - người thầy đã mất cách đây nhiều năm. Trong khi mọi người nói cười vui vẻ giữa bàn tiệc, anh lẳng lặng ra về một mình để làm bạn với sự cô độc.
Kịch bản The Power of the Dog được Jane Campion chuyển thể từ cuốn sách nổi tiếng cùng tên của Thomas Savage phát hành năm 1967. Theo đạo diễn, nguyên tác không phải tiểu thuyết hư cấu mà là tác phẩm bán tự truyện. Sinh thời, Savage là một người đồng tính, dùng trải nghiệm bản thân để viết nên câu chuyện nghiệt ngã về số phận những người giống như mình giữa thập niên 1920. Trong phim, Phil Burbank là người đồng tính nhưng luôn tìm cách che đậy thân phận bằng vỏ bọc mạnh mẽ, thô lỗ.
Nhan đề The Power of the Dog bắt nguồn từ một câu trong Kinh Thánh: “Hãy giải cứu linh hồn tôi khỏi gươm, mạng sống tôi khỏi loài chó”. Khi còn sống, Bronco Henry từng dạy Phil về hình ảnh loài chó chạy dọc theo những ngọn núi bao quanh trang trại nhà Burbank. Xuyên suốt phim, Phil thường xuyên nhắc đến Bronco, nhớ ông và hướng về phía núi như nỗi ám ảnh vô hình. “Chó” cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tính cách độc hại của Phil, khi anh không ngừng “cắn phá” những người xung quanh mình không thương tiếc.
Đạo diễn Jane Campion xử lý các cảnh quay trong phim hết sức tinh tế khi kể lại câu chuyện. Nhiều đoạn bà dùng hình ảnh thay cho lời thoại để lột tả nội tâm nhân vật. Ống kính luôn lướt theo cử chỉ của từng người dù là nhỏ nhất, như cái liếc mắt hay ngón tay bấu chặt. Nữ đạo diễn chuộng những cú máy góc rộng, bắt trọn khung cảnh thiên nhiên hoang dã khiến các nhân vật trở nên nhỏ bé giữa đất trời.
Bên cạnh đó, dàn diễn viên thực lực giúp các nhân vật hiện lên sống động. Là người Anh, nhưng Benedict Cumberbatch lột tả trọn vẹn hình ảnh cao bồi Mỹ, sống cùng cảm xúc nhân vật Phil Burbank. Để vào vai, anh áp dụng kỹ thuật diễn phương pháp (method acting), nhiều ngày liền không tắm và tập hút thuốc đến mức ngộ độc nicotin. Tương tự, Kirsten Dunst cũng quyết định không nói chuyện với bạn diễn trong nhiều tuần liền để nuôi cảm xúc. Cô mang đến nhiều cảm xúc trong vai góa phụ Rose, người phải chịu nhiều nỗi đau tinh thần trước những sự "tra tấn" của Phil.
Đặc biệt, diễn viên sinh năm 1996 Kodi Smitt-McPhee không hề lép vế khi đóng cùng các đồng nghiệp tên tuổi, để lại nhiều ấn tượng với vai Peter, là mắt xích quan trọng trong phim.
Khi ra mắt lần đầu tại Liên hoan phim Venice 2021, The Power of the Dog đem về cho Jane Campion giải Sư tử bạc ở hạng mục “Đạo diễn xuất sắc”. Tác phẩm cũng chiến thắng ba hạng mục tại giải Quả Cầu Vàng 2022, bao gồm “Phim truyện xuất sắc”, “Đạo diễn xuất sắc” và “Nam phụ xuất sắc” (Kodi Smitt-McPhee).
-
"Rudolph the Red-Nosed Reindeer" (1964) là một bộ phim hoạt hình truyền hình cổ điển, được sản xuất bằng kỹ thuật stop-motion. Bộ phim kể về Rudolph, một chú tuần lộc với chiếc mũi đỏ phát sáng, điều này khiến cậu bị coi là khác biệt và bị bạn bè xa lánh.
Khi Giáng sinh đến gần, thời tiết xấu làm cho ông già Noel gặp khó khăn trong việc giao quà. Ông cần một ánh sáng dẫn đường, và Rudolph với chiếc mũi đặc biệt của mình đã trở thành giải pháp. Bộ phim thể hiện hành trình của Rudolph từ một chú tuần lộc bị chế giễu đến vị trí quan trọng trong đội tuần lộc của ông già Noel.
Bên cạnh câu chuyện cảm động về sự chấp nhận và tình bạn, phim còn có những bài hát memorable và hình ảnh đáng yêu. "Rudolph the Red-Nosed Reindeer" đã trở thành một phần không thể thiếu trong mùa lễ hội và được yêu thích qua nhiều thế hệ.
-
"Road House" (1989) là một bộ phim hành động do Rowdy Herrington đạo diễn, với Patrick Swayze trong vai chính. Phim xoay quanh Dalton, một bouncer (người bảo vệ) nổi tiếng với khả năng xử lý tình huống khó khăn tại các quán bar.
Dalton được thuê để làm việc tại một quán bar tên là Double Deuce, nơi có nhiều vấn đề bạo lực và hỗn loạn. Nhiệm vụ của anh không chỉ là giữ trật tự mà còn phải cải thiện bầu không khí của quán. Tuy nhiên, anh nhanh chóng phải đối mặt với sự chống đối từ những tay giang hồ địa phương do một ông trùm tên Brad Wesley đứng đầu.
Khi tình hình leo thang, Dalton phải sử dụng kỹ năng chiến đấu và trí thông minh của mình để bảo vệ bản thân và những người xung quanh. Phim kết hợp giữa hành động kịch tính, những cảnh đánh đấm mãn nhãn và yếu tố lãng mạn, khi Dalton cũng phát triển mối quan hệ với một nữ bác sĩ địa phương.
"Road House" đã trở thành một bộ phim kinh điển của thập niên 80 và nổi tiếng với các cảnh hành động ấn tượng cùng thông điệp về lòng dũng cảm và chính nghĩa.
-
“Đây là thời điểm cho những chiến binh tử vì đạo, và nếu tôi là một trong số đó thì lý do gia nhập chính là tình huynh đệ. Đó là điều duy nhất có thể cứu được đất nước này”. Những lời phát biểu này được một trong những người Mỹ gốc Phi nổi tiếng và gây tranh cãi nhất ở Mỹ thốt ra chỉ hai ngày trước khi anh bị ám sát.
Tên của anh là Malcolm X, tên khai sinh là Malcolm Little. Nhiều cá nhân, tổ chức và trung tâm nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu về người đàn ông này. Trên thực tế tồn tại rất nhiều bản lý lịch và những bài phân tích sâu sắc về cuộc đời và triết lý sống của Malcolm X.
Giấc mơ của Malcolm X
Câu chuyện đề cập ở đây tập trung vào những sự kiện, giả thuyết và nghi ngờ xung quanh vụ ám sát Malcolm X và ảnh hưởng của nó đối với thế giới. Cũng giống như mục sư Martin Luther King, Jr., Malcolm X cũng có một giấc mơ. Ban đầu, nó ngập trong giáo lý của sự giận dữ, hận thù và mong muốn độc lập kinh tế cho những người theo chủ nghĩa ly khai. Sau này, giấc mơ đó chuyển hóa thành sự chấp nhận về một tổ chức thống nhất; thay thế hận thù bằng hòa bình; thay thế giận dữ bằng khát khao cháy bỏng cho sự bình đẳng của nhân loại.
Malcolm, con trai của Louise và mục sư Earl Little, sinh ra ở Omaha, Nebraska (Mỹ) vào ngày 19/5/1925. Earl Little là một mục sư theo phái tin lành Baptist, một người ủng hộ tích cực cho Hiệp hội tiến bộ của người da đen toàn cầu (UNIA). Gia đình nhà Little sau này chuyển tới Lansing, Michigan và tại đây ngôi nhà của họ bị đốt cháy một cách đầy bí ẩn. Mục sư Little sau đó dựng một ngôi nhà khác cho gia đình ở East Lansing. Năm 1931, sau một cuộc tranh cãi với vợ, mục sư Earl Little giận dữ đi khỏi nhà. Thi thể của ông ta sau đó được tìm thấy trên đường ray xe điện. Nhà chức trách tuyên bố, nhiều khả năng đây là một vụ tự tử, tuy nhiên cộng đồng người Mỹ gốc Phi tin rằng, ông đã bị sát hại bởi một nhóm ủng hộ cho thuyết người da trắng thượng đẳng.
Mẹ của Malcolm đã làm tất cả để chăm sóc cho 6 người con. Căng thẳng triền miên đã khiến cô bị mất trí và được đưa vào trung tâm điều trị năm 1939. Những đứa con của cô đã được đưa vào các trung tâm bảo trợ khác nhau. Cùng năm đó, giáo viên của Malcolm đã hỏi cậu sau này muốn làm nghề gì. Câu trả lời của Malcolm là luật sư. Vị giáo viên kia, người thường khuyến khích những học sinh da trắng lựa chọn nghề nghiệp, đã nói với Malcolm rằng, luật sư không phải là lựa chọn thực tế cho người da đen. Malcolm, từ một học sinh giỏi đã nhanh chóng mất hết hứng thú và bỏ học khi chỉ hết lớp tám.
Sau khi làm một vài công việc vặt, Malcolm chuyển đến Boston với cô của mình. Ở tuổi 14, cậu chỉ có thể kiếm được những công việc nhỏ nhặt. Cuối cùng, Malcolm được chọn làm nhân viên cho tuyến đường sắt New Haven – nối giữa Boston và thành phố New York. Cơ hội này đã giúp cậu có thể gặp gỡ rất người Mỹ gốc Phi trí thức. Sau khi bị sa thải, Malcolm lại tiếp tục với những việc lặt vặt ở New York và Boston và thậm chí cũng có những hành vi trộm cắp vặt. Sau khi bị bắt vì mang theo vũ khí, cậu bị kết án tù. Trong thời gian hơn 6 năm chấp hành án tù, Malcolm đã tự xác định con đường đi cho mình, theo đó sẽ chuyển sang đức tin của đạo Hồi và trở thành một thành viên của tổ chức Quốc gia Hồi giáo (NOI).
Sau khi ra tù vào năm 1952, Malcolm Little, lúc này cũng được biết đến là Malcolm X, đi tới Detroit và bắt đầu tích cực rao giảng cho người Mỹ gốc Phi về lợi ích của đạo Hồi. Malcolm truyền bá giáo lý và quan điểm của mình cho bất kỳ ai muốn nghe, dù trên đường phố hay trong thánh đường. Malcolm nhanh chóng nhận được sự ủng hộ và yêu quý của Elijah Muhammad, người đứng đầu NOI. Anh được cử đến các thành phố và rao giảng về đạo Hồi, thành lập những thánh đường mới và thuyết phục hàng nghìn người theo Hồi giáo. Hai năm sau, Malcolm X trở thành mục sư của Thánh đường số 7 ở Harlem, New York.
Sau mối bất hòa với Elijah Muhammad và NOI, Malcolm X hiểu rằng mình đang trong tình thế nguy hiểm. Anh đã thành lập tổ chức nhà thờ Hồi giáo hợp nhất (MMI) và tuyên bố cho rằng lãnh đạo của NOI có thể sẽ giết anh: “Họ không thể để tôi sống được… Tôi biết nơi các thi thể bị chôn giấu. Và nếu họ gây sức ép, tôi sẽ cho khai quật một vài chỗ”.
Malcolm X sau đó thành lập tổ chức thống nhất người Mỹ gốc Phi (OAAU) và bắt đầu cuộc đấu tranh chống lại hệ thống chủ nghĩa tư bản. Anh dự định xây dựng một đảng dân tộc của người da đen cùng với hành trình khắp châu Âu, Trung Đông, Cộng hòa Ảrập thống nhất và châu Phi, những nơi anh muốn bóc trần sự áp bức đối với người Mỹ gốc Phi để thế giới hay biết thông qua phong trào dân tộc Phi thống nhất.
Vào tháng 4/1964, Malcolm X hành hương đến thánh địa Mecca và điều này đã dẫn đến sự chuyển biến thứ hai trong suy nghĩ của anh. Malcolm X gặp gỡ những người có cùng chí hướng đến từ nhiều quốc gia và nhiều chủng tộc, da đen, da nâu, da trắng và tất cả những người con của thánh Allah (theo đạo Hồi). Sự kiện này đã khiến anh chợt nhận ra rằng, ủng hộ sự hợp tác về chủng tộc và tôn giáo sẽ giúp giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc ở Mỹ, xa hơn sẽ dẫn tới một thế giới hòa bình. Ý tưởng và giấc mơ chuyển biến của Malcolm X đã thu được kết quả và sẵn sàng để thực hiện ở cả quy mô quốc gia và quốc tế. Một lần nữa, Malcolm X đổi tên, lần này là El-Hajj Malik El-Shabazz. Và một lần nữa, anh thấy mình đi ngược lại với chế độ. Tuy nhiên, lần này anh sẽ không đơn độc trong cuộc đấu tranh vì bình đẳng và công lý.
Những người nhập cư này cạnh tranh việc làm, lương lậu với người da trắng ở Mỹ trong khi người da trắng tìm cách kháng cự lại cái mà họ coi là sự đồng hóa này. Từ tâm lý đó đã làm xuất hiện tư tưởng phân biệt với người nhập cư da màu.
Một số muốn thanh lọc nước Mỹ và đòi ngăn người nhập cư da màu vào Mỹ bằng luật. Phản lại, nhiều phong trào đòi dân quyền rầm rộ đã nổ ra, trong đó hàng triệu người da màu giận dữ đòi thay đổi. Để đập tan sự phân biệt chủng tộc, thanh niên da màu đã chiếm lĩnh các quán bar, tổ chức phong trào Freedom Rides buộc hệ thống giao thông công cộng phải chấm dứt tình trạng phân biệt người da đen, da trắng.
.
Cái chết của Malcolm X
Không lâu sau, những hành động của Malcolm X đã vấp phải sự phản ứng và chỉ trích từ nhiều phía. Các thành viên của NOI giận dữ với ý nghĩ cho rằng anh đang cố gắng để thay thế Elijah Muhammad.
Các cơ quan của chính phủ lo ngại sự liên quan của Malcolm X với NOI trong các vấn đề quốc tế, trong khi các quan chức thực thi pháp luật coi Malcolm X và những hành động của anh là cực đoan, phạm tội và gây hại cho xã hội.
Sáng sớm ngày 14/2/1965, Malcolm X và gia đình đang ngon giấc trong ngôi nhà ở Elmhurst, New York thì bất ngờ bị đánh thức bởi tiếng kính vỡ và những vụ nổ. Nhiều chai xăng đã được ném qua cửa sổ phòng khách và ngôi nhà bị chìm trong biển lửa. Malcolm X vội vã đưa vợ con thoát ra ngoài. Khi đã ở vị trí an toàn và trong tiết trời lạnh giá, họ buồn bã ngắm nhìn ngôi nhà đang bốc cháy. Malcolm X nghi ngờ NOI là kẻ chủ mưu muốn giết hại gia đình mình khi khai báo với nhà chức trách.
Chiều hôm sau, hơn 400 tín đồ Hồi giáo đã tụ tập tại phòng khiêu vũ Audubon ở thành phố New York, háo hức chờ đợi sự xuất hiện của diễn giả khách mời, giám mục Malcolm X. Bên trong phòng khiêu vũ không thấy có sắc phục của cảnh sát, nhưng có hai nhân viên cảnh sát đứng chốt ở bên ngoài lối vào. Điều này là dễ hiểu, bởi vì một vụ ám sát nhằm vào Malcolm X hoàn toàn có thể xảy ra. Hàng chục cảnh sát có mặt ở phía bên kia con đường, được cho là theo yêu cầu của Malcolm X vì anh e ngại sự xuất hiện của cảnh sát trước phòng khiêu vũ sẽ tạo ra tâm lý bất an cho khán giả. Vợ của Malcolm X, Betty Shabazz, sau đó đã phủ nhận việc chồng của cô đưa ra đề nghị như vậy. Malcolm X luôn lo sợ bị ám sát và chắc chắn sẽ không từ chối sự bảo vệ.
Bên trong phòng khiêu vũ Audubon, một vài nhân viên bảo vệ của NOI mặc đồ đen được bố trí đứng gần sân khấu và hướng về phía sau của căn phòng. Tính chuyên nghiệp của những vệ sĩ này là không phải bàn cãi, họ giám sát căn phòng và lặng lẽ theo dõi vị trí ngồi của những người đến muộn.
Malcolm X, người vợ đang mang thai và bốn người con của họ ngồi tại một phòng chờ. Trong trạng thái căng thẳng và lo lắng, Malcolm X đã yêu cầu hai vệ sĩ đưa gia đình của anh tới hàng ghế gần phía trước sân khấu. Dường như bị căng thẳng và khá mệt mỏi, Malcolm X đã nói với các phụ tá rằng anh có nhiều do dự về bài phát biểu. Họ cố gắng trấn an Malcolm X nhưng không thành công. Sự bồn chồn của Malcolm X phản ánh rõ trên nét mặt đầy căng thẳng và đôi mắt lo âu khi đảo mắt quanh căn phòng. Malcolm X lắng nghe người đồng môn Benjamin Goodman phát biểu khai mạc và chờ đợi yên lặng trong hậu trường.
Khoảng 3 giờ 08 phút chiều, người đồng môn Benjamin kết thúc bài phát biểu và giới thiệu Malcolm X. Anh bước ra sân khấu với sự tung hô kéo dài. Malcolm X tiến tới bục gỗ và nhìn xuống khán giả. Khi tiếng vỗ tay tạm lắng, anh chào khán giả và mỉm cười với họ. Ngay khi Malcolm X bắt đầu phát biểu, một sự huyên náo xảy ra gần phía sau của căn phòng khiêu vũ. Hai người đàn ông đang nổi xung và ném những chiếc ghế gấp bằng gỗ xuống sàn trong khi một người hét lên: “Bỏ tay ra khỏi túi quần của tao!”. Khi Malcolm X đề nghị mọi người bình tĩnh thì bất ngờ một tiếng nổ lớn phát ra ở phía sau căn phòng với rất nhiều khói.
Tình huống này đã khiến vệ sĩ và trợ tá của Malcolm X mất tập trung, và đây chính là cơ hội tốt cho những tay súng có thể thực hiện kế hoạch của chúng. Một gã rời khỏi hàng ghế đầu và rút trong áo khoác ra một khẩu súng săn hai nòng loại ngắn và bắn hai phát vào Malcolm X. Cả hai viên đạn đều xuyên qua bục phát biểu và trúng vào ngực của Malcolm X. Trong lúc Malcolm X ngã ra phía sau và ôm ngực thì hai tên khác nhảy lên sân khấu và tiếp tục nhả đạn vào anh trước khi quay lưng chạy khỏi tòa nhà. Trong lúc bỏ chạy, chúng vẫn tiếp tục xả súng. Một vài môn đệ vội vã nhảy lên sân khấu để cứu giúp Malcolm X. Toàn bộ căn phòng khiêu vũ trở lên hỗn loạn. Đa số trong đám đông cố gắng chạy khỏi căn phòng đầy khói và tránh xa vụ tấn công khủng khiếp, trong khi một số người khác truy đuổi bọn tội phạm.
Betty Shabazz lấy thân mình che chở cho những đứa con bên dưới một băng ghế. Ngay khi hết tiếng súng, chị vội vã chạy về phía chồng đang nằm bất động và hét lên: “Chúng giết chồng tôi rồi!”.
Một trong những kẻ ám sát đã bỏ trốn thông qua cửa sổ phòng tắm, trong khi hai tên khác chạy theo hướng cầu thang. Chúng bị đám đông đang sợ hãi và tức giận ném theo ghế hoặc bất cứ vật dụng gì họ có thể tìm thấy. Một nghi can 22 tuổi, Talmadge Hayer (cũng được biết đến là Thomas Hagan) đã bị vệ sĩ của Malcolm bắn vào chân và không thể thoát khỏi cơn thịnh nộ của đám đông.
Hayer bị đấm đá túi bụi trước khi hai cảnh sát mặc quân phục có mặt và cứu hắn ta khỏi cái chết cận kề. Một đồng phạm của hắn đã cố gắng trốn thoát sau khi bị một cảnh sát chìm có tên Gene Roberts, thành viên của BOSS (cơ quan bảo vệ công dân và tài sản liên bang) đánh gục. Roberts đã lớn lên cùng với Malcolm X và được Malcolm X cũng như môn đệ của anh gọi là người anh em Gene. Roberts sau đó vội vã chạy tới sân khấu và nỗ lực cứu giúp Malcolm X đang chảy rất nhiều máu. Malcolm X nhanh chóng được đưa đến bệnh viện, tại đây các bác sĩ đã cố gắng giữ mạng sống cho anh nhưng không thành công.
Âm mưu, Lý thuyết và Thực tế
Nhiều thập kỷ trôi qua kể từ buổi chiều tháng 2 định mệnh năm 1965 và câu chuyện xung quanh cái chết của Malcolm X vẫn là điều bí ẩn.
Tác phẩm “The Smoking Gun: The Malcolm X Files” tiết lộ, một báo cáo của FBI vào ngày 22/2/1965 đã tuyên bố Malcolm X bị 10 vết thương trên ngực, đùi và mắt cá chân. Biên bản khám nghiệm tử thi này đã chỉ ra một viên đạn cỡ 9mm, một viên đạn cỡ 45mm và một số viên đạn nhỏ đã găm vào cơ thể của anh. Cả hai phát đạn bắn ra từ khẩu súng săn đã trúng vào tim và động mạnh chủ của Malcolm X.
Cảnh sát New York và báo chí địa phương đã đưa ra bản tin đầu tiên, cho rằng hai nghi phạm đã bị bắt giữ và đưa tới đồn cảnh sát. Tuy nhiên, sau đó bản tin này biến mất và cảnh sát đã phủ nhận kịch liệt về sự tồn tại của nó. Đồng thời, họ khẳng định rằng chỉ có Talmadge Hayer bị bắt.
Vì lý do nào đó, Gene Roberts đã chìm dần trong toàn bộ vụ án, tuy nhiên một vài nhà phân tích nghi ngờ rằng anh này chính là người thứ hai đã bị bắt nhưng đã được thả ngay sau đó để bảo vệ vỏ bọc là đặc vụ bí mật của BOSS. Câu hỏi Gene Roberts là ai không bao giờ được nói đến.
BOSS là một cơ quan bí mật và ngay cả cảnh sát cũng không có nhiều thông tin về tổ chức này. Hồ sơ nhân sự của BOSS cũng được giữ bí mật. Vậy Gene Roberts liệu có liên quan đến vụ án và Roberts có phải là tên thật của anh ta hay không? Khẩu Luger không tìm thấy thì như thế nào? Ai đã sử dụng nó? Tại sao có nhiều bí ẩn như vậy?
Trong phiên tòa, Hayer thú nhận đã bắn Malcolm X, tuy nhiên hắn khai rằng Butler và Johnson không có mặt tại vụ ám sát và cũng không liên quan tới vụ nổ súng. Cả hai người này đều có bằng chứng ngoại phạm, vì vậy công tố viên không xem xét kỹ lưỡng về họ.
Thông tin đầu tiên của cảnh sát cho rằng có 5 kẻ tình nghi tham gia vào vụ ám sát. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà báo cáo này biến mất khỏi hồ sơ lưu trữ. Nhiều người vẫn tin rằng Talmadge Hayer cùng bốn tên khác đã tham gia tích cực trong vụ ám sát Malcolm X. Cho đến nay, bốn kẻ tình nghi này vẫn chưa xác định được danh tính.
Karl Evanzz, một phóng viên của tờ Washington Post đã nghiên cứu hơn 300.000 trang tài liệu của FBI và CIA để viết cuốn sách “The Judas Factor”. Trong lời giới thiệu, ông khẳng định rằng: “Sau khi phân tích những tài liệu này, tôi tin rằng Louis E. Lomax, một nhà báo người Mỹ gốc Phi siêng năng và có tình bạn với Malcolm X vào cuối những năm 1950, đã khám phá những bí ẩn xung quanh vụ ám sát Malcolm X”.
Lomax cho rằng âm mưu ám sát được dàn dựng bởi một người bạn cũ của Malcolm X có tên John Ali, một đặc vụ hoặc có thể là người cung cấp tin cho cơ quan tình báo. Trước đó, Malcolm X đã có lời chỉ trích Ali và cho rằng Ali phải chịu trách nhiệm cho việc Malcolm X bị hất cẳng khỏi NOI và cuối cùng Ali leo lên vị trí thư ký quốc gia của tổ chức này. Sau này, Lomax đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn ô tô do xe bị mất phanh.
Đến nay người ta biết rằng, chính phủ và các cơ quan thực thi pháp luật đã đưa người thâm nhập vào OAAU, NOI và hầu hết các tổ chức đấu tranh vì dân quyền khác. Một vài trong số những đặc vụ hoặc người cung cấp tin đã giữ những vị trí cấp cao. Nhiệm vụ của họ không chỉ báo cáo tin tức về hoạt động, kế hoạch và thành viên của tổ chức mà còn gây chia rẽ, nghi ngờ và gieo rắc mối sợ hãi cho những người ủng hộ.
Trong cuốn sách của mình, Evanzz đã đề cập đến sự dính líu của chính phủ qua kế hoạch mang tên Cointelpro nhằm ngăn cản hoạt động của Malcolm X thông qua BOSS, NOI và các nhóm tội phạm có tổ chức. Mục tiêu của chương trình Cointelpro là ngăn chặn những nhà bất đồng chính kiến và các tổ chức chính trị cực đoan thông qua các phương tiện bí mật.
Nhiều người tin rằng Malcolm X và các nhân vật đấu tranh vì dân quyền khác là mục tiêu của chương trình Cointelpro. Mối lo lắng ngày càng tăng khi Malcolm X nhận được sự ủng hộ từ Martin Luther King để biến những cuộc đấu tranh của người Mỹ gốc Phi trở thành vấn đề quốc tế qua việc đệ trình một bản kiến nghị tới Hội nghị của Tòa án công lý quốc tế tại Hague. Trên thực tế, vụ ám sát Malcolm X diễn ra trước hội nghị này chỉ hai tuần.
Cũng có nhiều người tin rằng Malcolm X có lẽ đã bị một băng nhóm tội phạm có tổ chức sát hại do anh đã vận động thành công chiến dịch chống ma túy, rượu và tội ác ở Harlem. Tuy nhiên, nhà chức trách đã không điều tra về sự dính líu của những nhóm mafia mà đa phần trong số đó là những kẻ có quan hệ gần gũi với Malcolm X.
Sự nghi ngờ đổ dồn vào các tín đồ Hồi giáo, những người ghen tị với sự thành công đang lên của Malcolm X trong việc thuyết phục nhiều môn đệ của Elijah Muhammad gia nhập MMI do anh ta thành lập. Nhiều người Hồi giáo cho rằng Malcolm X đang thách thức thủ lĩnh của họ và bôi nhọ danh tiếng của Elijah Muhammad qua việc công khai tố giác ông ta ngoại tình.
Muhammad, người đã coi Malcolm X như con, đã cảm nhận thấy Malcolm X phản bội lại mình và NOI thông qua việc thay đổi mục tiêu thực sự của đức tin Hồi giáo và các giáo lý hòa bình của kinh Koran.
Cũng trong thời gian này, các cuộc gọi điện thoại và thư từ nặc danh đe dọa tính mạng của Malcolm X đã bắt đầu xuất hiện. Một số cuộc điện thoại được gọi đến nhà của anh hoặc tới báo chí địa phương và các hãng tin điện tử. NOI đã yêu cầu Malcolm giao trả nhà cửa và xe con thuộc sở hữu của họ.
Với những gì biết được về vụ ám sát Malcolm X, mục sư Martin Luther King, Jr. nhận xét rằng, một người sẽ phải chế ngự nỗi sợ hãi của cái chết nếu anh ta muốn làm bất cứ điều gì mang tính xây dựng cho cuộc sống và đứng lên chống lại cái ác. Chúng ta có thể sẽ không bao giờ biết tất cả sự thật về những kẻ đứng sau vụ ám sát Malcolm X, nhưng chúng ta biết được rằng những kẻ ám sát không muốn cho anh cơ hội để có thể hành động theo niềm tin mạnh mẽ mới được hình thành.
Ngày nay, người đàn ông này và tên của anh, Malcolm X, đã được biết đến ở Mỹ và trên thế giới. Anh là một người đấu tranh cho tự do nổi tiếng với tầm nhìn sâu rộng và ý chí đứng lên đấu tranh mạnh mẽ. Để công nhận và tôn vinh cho những đóng góp của Malcolm X trong cuộc đấu tranh vì nhân quyền, tên tuổi và hình ảnh của anh đã được in trên những con tem thư còn lưu hành ngày nay.
-
“Call me by your name” là một bộ phim được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết lãng mạn cùng tên của nhà văn André Aciman, người đồng thời cũng là đạo diễn, biên kịch, nhà sản xuất của bộ phim này.
Bộ phim kể về mối tình đồng tính giữa hai Elio (Timonthée Chalamet) và Oliver (Armie Hammer). Elio là cậu con trai 17 tuổi của gia đình ông bà Perlman. Cậu có một vẻ đẹp mỏng manh, đầy nội tâm tựa như những bức tượng Hy Lạp – thoát tục và đẹp đẽ. Với tài năng âm nhạc và niềm đam mê đọc sách mê mỏi, cậu mang trong mình một sức quyến rũ kì lạ, khiến cho ai gặp qua cũng cảm thấy tò mò và muốn tìm hiểu cậu. Và một trong những người bị cậu quyễn rũ chính là Oliver – cậu sinh viên ngành khảo cổ học vạm vỡ, đẹp trai người Mỹ mang trong mình dòng máu Do Thái. Với phong thái chủ động, đầy tự tin của mình, Oliver không chỉ làm mê mệt những cô gái địa phương, mà còn cả chàng Elio nữa.
Có thể thấy rằng Elio và Oliver là hai mảnh ghép trái ngược nhau: một Elio mới lớn với một vẻ đẹp khá nữ tính, một tâm trí vô ưu vô lo, bay bổng với những bản nhạc, những phím đàn và những vần thơ. Còn Oliver lại là một người đã trưởng thành, mạnh mẽ, tự tin, chủ động tạo mối quan hệ cùng nhưng trong tâm trí lại tồn tại bao lo âu về tương lai, gia đình và sự nghiệp. Thế nhưng khi xếp lại, họ trùng khớp với nhau một cách kỳ lạ, không có lý do gì ngoài việc:
“Because it was him (Vì đó là anh ấy)
Because it was me” (Vì đó là con)
(Lời thoại của bố Elio khi nói về sự gắn bó đặc biệt của Elio và Oliver)
Tác giả André Aciman không chỉ khiến người đọc, người xem thích thú bởi sự đối nghịch của hai nhân vật chính mà còn bởi bối cảnh của câu truyện. Đó là vào mùa hè của những năm đầu 1980 ở nước Ý. Mùa hè Địa Trung Hải thật thanh bình với nắng vàng, táo chín và làn nước mát lạnh soi bóng cây xanh. Nhưng chính cái khung cảnh thanh bình, cách kể chuyện nhẹ nhàng của tác giả lại làm nổi bật những suy nghĩ của cặp đôi Elio và Oliver. Đó là những nỗi lo lắng, sợ hãi về định kiến xã hội, và cả những ngờ vực của họ về chính cuộc tình này.
Thế nhưng, bất chấp những ngờ vực, bất chấp những lo âu, họ đã đến với nhau để rồi yêu nhau. Mùa hè năm ấy, Elio và Oliver đã đắm chìm trong tình yêu, nhục dục và khoái cảm.
Thế nhưng, tại sao lại phải vội vã, phải hối hả đến vậy? Cũng dễ hiểu thôi. Bởi họ đã mất rất nhiều thời gian để nhận ra ra cảm xúc của mình và khi đó, họ cũng đồng thời nhận ra những ngày hè còn lại thật ngắn ngủi. Nhưng như một ngôi sao băng, ngắn ngủi nhưng đẹp đẽ thì tình yêu họ cũng vậy. Chính vì sự ngắn ngủi của thời gian mà họ đã cố gắng dành mọi phút giây ở bên cạnh nhau, để có thể được cảm nhận nhau, để có thể hòa quyện vào nhau. Và chính điều đó đã khiến mùa hè ngắn ngủi bỗng trở nên dài vô tận.
Và rồi cái gì đến cũng phải đến. Oliver cuối cùng cũng phải rời xa cái nắng hè của miền quê nước Ý, những vần thơ, những thanh ấm của những phím đàn, và trên hết là rời xa Elio. Mối tình này kết thúc thật chóng vánh để lại trong lòng người xem và cả chính Elio những thắc mắc về tương lai. Giống như chính lời bài hát Mystery of love của Sufjan Stevens – bản soundtrack được sử dụng trong phim:
“And what difference does it make when this love is over?” (Và sẽ khác biệt gì khi cuộc tình này kết thúc ?)
Thế rồi thật buồn làm sao khi cuộc tình này lại kết thúc và để lại trong lòng cả hai người những nuối tiếc, những nỗi đau khi mà Oliver gọi gia đình Perlman để thông báo rằng mình sắp kết hôn sau hai năm xa biệt. Nhưng dù vậy, ký ức của hai người vẫn vẹn nguyên, như chính Oliver đã khẳng định với với Elio rằng: “I remember everything” (Anh nhớ tất cả mọi thứ)
Đúng vậy, cuộc tình này đã kết thúc. Đó quả là điều đáng buồn nhưng không hề đáng tiếc chút nào. Bởi Elio và Oliver đã yêu hết mình để rồi những ngày hè rực rỡ đó sẽ tồn tại trong ký ức như là một dấu ấn của tuổi trẻ đầy ngây thơ và khờ dại – những ngày hè ngắn ngủi mà đẹp đẽ đó.
Qua câu chuyện của mình, André Aciman đã mang đến cho người xem một thông điệp thật dung dị rằng tình yêu không phân biệt giới tính hay tuổi tác mà đơn thuần chỉ là sự thấu cảm giữa hai tâm hồn. Câu chuyện này còn cho chúng ta động lực để dám yêu thương, dám mở lòng bởi dù sau này có những tổn thương, những giọt nước mắt nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hối tiếc vì đã yêu bằng cả con tim và thể xác của mình.
Cảm ơn André Aciman vì những dòng văn thật êm đềm, cảm ơn Timothée Chalaman và Armie Hammer vì những cung bậc cảm xúc thật chân thật. Họ đã cùng nhau kể một vẽ nên một câu chuyện về tình yêu đồng tính thật chân thật, nhẹ nhàng, êm ái, lãng mạn, dung dị và đẹp đẽ. Cảm ơn “Call me by your name”!
-
"Orlando" (1992) là một bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Virginia Woolf, do Sally Potter đạo diễn. Phim kể về cuộc đời của Orlando, một nhân vật sống qua nhiều thế kỷ và trải nghiệm sự thay đổi về giới tính.
Câu chuyện bắt đầu vào thế kỷ 16, khi Orlando là một quý tộc trẻ tuổi. Sau khi được giao nhiệm vụ làm đại sứ cho Hoàng gia Anh, Orlando sống cuộc sống đầy tham vọng và sáng tạo. Tuy nhiên, sau một cuộc tình tan vỡ, Orlando ngủ thiếp đi và khi thức dậy, phát hiện ra mình đã trở thành phụ nữ.
Phim theo chân Orlando qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, từ Elizabethan cho đến thế kỷ 20, khám phá những khía cạnh của giới tính, bản sắc và sự tự do. Với phong cách hình ảnh đẹp mắt và cách kể chuyện độc đáo, "Orlando" không chỉ là một tác phẩm về hành trình cá nhân mà còn phản ánh những biến chuyển xã hội và văn hóa. Tác phẩm đã nhận được nhiều lời khen ngợi và được xem là một trong những bộ phim quan trọng về giới tính và bản sắc.
-
"Halo 4: Forward Unto Dawn" (2012) là một mini-series dựa trên loạt trò chơi video "Halo". Bộ phim diễn ra trong bối cảnh cuộc chiến giữa Liên minh UNSC và Covenant, tập trung vào một nhóm cadet tại học viện quân sự của UNSC.
Câu chuyện xoay quanh Thomas "Tom" Merrick, một sinh viên đang cố gắng thích nghi với cuộc sống quân sự. Khi Covenant tấn công học viện, nhóm cadet buộc phải hợp tác để sinh tồn và chiến đấu. Trong quá trình này, Tom gặp gỡ và phát triển mối quan hệ với các nhân vật khác, bao gồm cô gái tên Chyler.
Bộ phim không chỉ thể hiện các trận chiến và hành động kịch tính mà còn khai thác các chủ đề về tình bạn, sự hy sinh và tinh thần đồng đội. Ngoài ra, nó còn tạo cầu nối giữa cốt truyện của loạt game "Halo" và những sự kiện trong "Halo 4", giúp người xem hiểu rõ hơn về vũ trụ phong phú của "Halo".
-
Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng tiếp tục cuộc hành trình của Mèo Đi Hia (Puss) – một trong những anh hùng nổi tiếng nhất của vũ trụ cổ tích bắt đầu trong Shrek (2001), sau bộ phim Puss in Boots (2011). Lần này, sau một phi vụ thành công nhưng không may gặp vấn đề bất ngờ, Mèo Đi Hia đã mất tổng cộng 8 trên 9 mạng của mình. Cuộc đụng độ với Thần Chết theo đúng nghĩa đen sau đó khiến Puss bị sang chấn tâm lý, buộc phải về hưu trong một nhà dưỡng lão dành cho mèo. Song, Puss tình cờ nghe được về bản đồ dẫn đến ngôi sao băng ban điều ước. Quyết tâm lấy lại 8 mạng trước kia, Puss tái xuất giang hồ nhằm đến được ngôi sao thần kỳ. Điều này, nói dễ hơn làm.
Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng là bộ phim đưa chú mèo mang giày bốt nổi tiếng màn ảnh rộng trở lại rạp sau hơn một thập kỷ. Những tưởng bộ phim sẽ gặp khó khăn kể một câu chuyện mang ý nghĩa hay thuyết phục một bộ phận khán giả mới, bên cạnh những mọt phim đã lớn lên cùng Shrek, Lừa và Puss in Boots, vì sao phải yêu chú mèo này, nhưng không, Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng làm điều đó với câu chuyện gãy gọn, xúc tích, hàm súc và truyền đạt những bài học vô cùng ý nghĩa thông qua một kịch bản được trang hoàng bằng những màn tung hứng màu sắc, vui nhộn giữa các nhân vật.
Những hình ảnh vui tươi, tròn trịa và tràn ngập các dải màu tươi tắn, Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng không che giấu đối tượng khán giả mà nó hướng đến là ai. Nhưng khác với dự án hoạt hình gần đây là Chuyến Đi Nhớ Đời, bộ phim trên không tự giới hạn chính nó trong tâm trí những mọt phim trẻ tuổi. Trên thực tế, chủ đề mà nó tiếp cận quả thật “khó nhai” hơn những gì thể hiện ở phần phim 10 năm về trước – cái chết và sự sống, tương lai và hiện thực. Trong khi đó, ước nguyện và khát vọng dù đã được thể hiện nhiều lần ở những bộ phim khác nhau, cũng được phủ màu sắc mới trong Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng. Tuy nhiên, sức nặng gai góc của cái chết vẫn được lồng ghép vào những cảnh phim, dường như để nhấn mạnh tình thế của nhân vật chính, “ngàn cân treo sợi tóc”, lưỡi hái thần chết có thể hạ xuống bất cứ lúc nào.
Người viết nhận xét Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng là một phim “y chang” nhân vật chính, không biết sợ và vô cùng dũng cảm. Là một nhánh phim tách ra từ thương hiệu che đậy các ám chỉ người lớn sau những câu truyện cổ tích như Shrek, sẽ chẳng có gì ngạc nhiên nếu Mèo Đi Hia sử dụng phương pháp tương tự để mô tả những điều khủng khiếp trong đây. Nhưng điều thật sự dũng cảm là để Puss hoảng sợ và bỏ chạy như một kẻ ham sống sợ chết. Đây là một nước đi không hề dễ dàng và phá cách công thức người hùng của thể loại chuyên ưu ái các nhân vật chính luôn đối đầu trực diện với khó khăn trước mắt như phim hoạt hình. Suy cho cùng, hoạt hình là phương tiện dạy các em nhỏ những bài học ý nghĩa mà! Song, cái thời hoạt hình đơn giản dành với các bài học một màu đã qua rồi.
Khao khát được sống là một khao khát có thật và thực tế. Nhận thức được sự hữu hạn của sinh mạng mới là thứ khiến cuộc sống có ý nghĩa. Thật dễ để trở nên dũng cảm và lao đầu vào những hiểm nguy bất tận khi bạn có đến 9 cái mạng dự trù. Nhưng Tử Thần là một kẻ nhẫn nại. Biến một anh hùng sôi động như Puss thành một con mèo sợ sệt là một quyết định đã khiến Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng sở hữu một tầng ý nghĩa hiện thực sâu sắc hơn. Nó đã làm Puss phải khiêm tốn nhìn lại cuộc đời huyển thoại của mình, như Tử Thần sẽ làm điều tương tự khi thời khắc đến. Với Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng, sợ chết thì ai cũng sợ cả, điều quan trọng nhất không phải là sống không sợ chết, mà là sống sao cho thật ý nghĩa cho đến khi cái chết đến.
Về điểm này, bộ phim khiến người viết liên tưởng đến Pinocchio mới ra mắt gần đây của nhà đài Netflix, cũng là một bộ phim nói đến sự tréo ngoe giữa sự sống và cái chết, nhưng với tông giọng đen tối hơn nhiều. Điều đó hắn sẽ khiến nhiều mọt phim thích thú với Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng hơn – một thành tựu không hề tầm thường khi bạn biết ai đứng sau Pinocchio. Tung hứng một lượng nhân vật khá nhiều, Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng có thể nhấn nhá sự đa diện và đào sâu tính cách của họ trong thời lượng chỉ hơn 1 tiếng rưỡi quả là một nỗ lực phi thường. Mỗi một nhân vật trong đây, chính hay phụ, đều có điểm đáng nhớ, vì mỗi một người đều được chống lưng bởi những ý nghĩa lắng đọng được truyền tải bằng các câu thoại vừa buồn cười vừa đắt giá.
Bên cạnh sự tử, Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng còn đề cập đến những bài học rất “người lớn” (các bạn phải đi xem mới biết được). Vậy mà Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng không hề gặp khó khăn khi đặt những nhân vật của nó vào các tình huống dở khóc dở cười, mang đến những tràng cười tự nhiên. Nhịp điệu là một yếu tố được trân trọng không kém trong đây. Những màn đối đầu đầy kịch tính diễn ra liên tục, khiến bộ phim thêm sôi nổi. Nhưng chúng ẩn chứa những thông điệp mà bộ phim cần, chứ không đơn thuần chỉ được thêm thắt để thể hiện ở đây có hành động, cho phép bộ phim chú tâm vào tình tiết trước mắt thay vì để nó vụt qua một cách vô nghĩa.
Đến cuối cùng, Mèo Đi Hia: Điều Ước Cuối Cùng kết thúc trên một nốt cao đúng điệu và tròn trịa, trên sự cân bằng giữa những thứ nặng nề và những gì hồn nhiên. Có vẻ như chúng ta đã tìm được một bộ phim chất lượng đầy ý nghĩa cho dịp cuối năm, trùng hợp thay là dịp người ta hoài niệm về những gì đã qua.
-
"Planes, Trains & Automobiles" (1987) là một bộ phim hài do John Hughes đạo diễn, với sự tham gia của Steve Martin và John Candy. Phim kể về Neal Page (Steve Martin), một giám đốc quảng cáo đang cố gắng trở về nhà ở Chicago để đón Thanksgiving cùng gia đình.
Khi chuyến bay của Neal bị hoãn, anh tình cờ gặp Del Griffith (John Candy), một người bán hàng vui tính nhưng có phần lôi thôi. Dù ban đầu không ưa Del, Neal buộc phải chấp nhận đi cùng anh ta trong hành trình gian nan qua máy bay, xe lửa và cuối cùng là xe hơi để về nhà.
Hành trình đầy rắc rối và trớ trêu này đã tạo ra nhiều tình huống hài hước, nhưng cũng dần dần hé lộ những câu chuyện và cảm xúc sâu sắc về tình bạn, sự kiên nhẫn và sự chấp nhận. Bộ phim không chỉ mang đến tiếng cười mà còn truyền tải thông điệp ấm áp về gia đình và tình người. "Planes, Trains & Automobiles" đã trở thành một trong những bộ phim kinh điển của mùa lễ.
-
"Run Lola Run" (1998) là một bộ phim tâm lý hành động của Đức, do Tom Tykwer đạo diễn. Phim xoay quanh Lola, một cô gái trẻ, và hành trình 20 phút đầy kịch tính để cứu bạn trai của cô, Manni.
Câu chuyện bắt đầu khi Manni, do lỡ mất một túi tiền quan trọng của một tên tội phạm, quyết định sẽ thực hiện một hành động liều lĩnh để có tiền trả lại. Lola biết rằng cô chỉ có 20 phút để tìm ra 100.000 mark và giúp Manni trước khi anh ta có nguy cơ gặp phải những rắc rối nghiêm trọng.
Phim sử dụng cấu trúc phi tuyến tính, khi mỗi lần Lola bắt đầu lại từ đầu, cô phải đưa ra những quyết định khác nhau. Mỗi phiên bản hành trình của Lola dẫn đến những kết quả khác nhau, cho thấy tầm quan trọng của sự lựa chọn và ngẫu nhiên trong cuộc sống.
Với nhịp độ nhanh, hình ảnh đặc sắc và nhạc nền hấp dẫn, "Run Lola Run" đã trở thành một tác phẩm nổi bật trong điện ảnh thế giới, khám phá các chủ đề về tình yêu, số phận và sự khẩn trương.
-
Đã 20 năm trôi qua nhưng bộ phim Tâm trạng khi yêu (In the mood for love) của đạo diễn Vương Gia Vệ vẫn để lại dấu ấn trong lòng khán giả bởi một câu chuyện tình buồn thầm kín và bởi phần phục trang đầy ấn tượng khiến cuốn phim trở thành tác phẩm kinh điển.
Tâm trạng khi yêu còn có tên gọi khác Hoa dạng niên hoa, tạm dịch: Năm tháng vui vẻ trôi đi như những cánh hoa, là một bộ phim kinh điển của điện ảnh Hồng Kông phát hành năm 2000 của đạo diễn Vương Gia Vệ với hai diễn viên chính Lương Triều Vỹ và Trương Mạn Ngọc.
“Tâm trạng khi yêu” được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của điện ảnh Châu Á mọi thời đại, khiến giới phê bình điện ảnh quốc tế phải ngưỡng mộ và được đánh giá là bộ phim hay hàng đầu của thế kỷ 21.
Bộ phim xoay quanh mối quan hệ bị dồn nén giữa ông Chu (Lương Triều Vỹ) và bà Trương (Trương Mạn Ngọc), khi cả hai đều mắc kẹt trong hai cuộc hôn nhân không hạnh phúc vì những người bạn đời không chung thuỷ. Ông Chu và bán Trương biết vợ chồng của mình là tình nhân của nhau, nhưng họ tìm thấy ở nhau niềm thấu hiểu và những cảm giác rung động. Thế nhưng, họ không giữ cho bản thân mình không vượt khỏi giới hạn.
Vào những năm 60 ở Hong Kong, việc phụ nữ thể hiện cảm xúc vẫn được coi là một điều cấm kỵ. Chính vì thế, 23 bộ xường xám xuyên suốt bộ phim đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện nội tâm của nhân vật đến với người xem. Trang phục trong phim, những chiếc xường xám đã đưa nữ diễn viên Trương Mạn Ngọc trở thành biểu tượng đẹp nhất của người phụ nữ Trung Quốc trên màn ảnh. Không chỉ chiều lòng thị giác của khán giả, nó còn thể hiện cảm xúc âm ỉ trong lòng bà Trương. Đạo diễn Vương Gia Vệ đã từng phát biểu rằng: “Chiếc xường xám đó không chỉ đơn thuần là một chiếc xường xám. Nó thể hiện tâm trạng của nhân vật chính. Như thể cô ấy đang khoác lên mình tâm trạng đó trong suốt cả ngày dài”.
Năm 2016, chuyên trang điện ảnh của hãng tin nổi tiếng nhất thế giới BBC đã tiến hành một khảo sát kỳ công đối với 177 nhà phê bình phim danh tiếng. Kết quả khảo sát cho thấy “Tâm trạng khi yêu” là bộ phim điện ảnh vĩ đại thứ hai của màn ảnh cine thế giới trong thế kỷ 21 chỉ sau “Mulholland Drive” của đạo diễn người Mỹ David Lynch. “Tâm trạng khi yêu” được Steven Jay Schneider chọn vào danh sách “1001 phim phải xem trong đời”.
Phong cách làm phim đặc sắc, ngôn ngữ biểu cảm thay cho lời thoại, hình ảnh nhiều ẩn ý, nội dung súc tích, đào sâu nội tâm con người trong một cộng đồng xã hội có mối quan hệ mật thiết khi mà những giá trị văn hoá tinh thần Á Đông còn tương đối sâu rễ bền gốc. Nhạc phim có chọn lọc, khi gợi buồn da diết, lúc tình tứ tuôn trào…
Bộ phim đã được vinh danh tại rất nhiều giải thưởng điện ảnh quốc tế lớn, bao gồm giải Phim nước ngoài xuất sắc nhất tại Giải thưởng điện ảnh César (Pháp), giải Nam diễn viên xuất sắc nhất (Lương Triều Vỹ) và Kỹ thuật xuất sắc nhất (Christopher Doyle) tại Liên hoan phim Cannes, chiến thắng ở hạng mục Phim ngoại ngữ hay nhất và Quay phim xuất sắc nhất tại giải Tinh thần độc lập (Independent Spirit Awards) của Mỹ. Bộ phim còn được trao giải Phim xuất sắc nhất tại Giải thưởng của Viện Hàn lâm Phim châu Âu (European Film Academy), Giải thưởng phim độc lập của Anh (British Independent Film Awards), Giải thưởng của Hiệp hội Phê bình Phim Quốc gia Mỹ (National Society of Film Critics), Giải thưởng Hiệp hội phê bình phim New York (New York Film Critics Circle), Giải thưởng Điện ảnh Đức (German Film Award),…
-
Được đánh giá là phim độc lập hay nhất mọi thời đại nhưng ‘Reservoir Dogs’ cũng khiến khán giả kinh hoàng bị bạo lực.
Reservoir Dogs là bộ phim đầu tay của đạo diễn Quentin Tarantino, được quay năm 1992. Tạp chí Empire đánh giá, đây là bộ phim độc lập hay nhất mọi thời đại. Kịch bản của Reservoir Dogs được đạo diễn ấp ủ từ khi ông mới 18 tuổi và bắt tay vào làm sau khi nhận được sự trợ giúp của hãng phim độc lập Miramax.
Quentin Tarantino được coi như một kẻ lập dị thiên tài của Hollywood khi ông không được đào tạo bài bản trong trường lớp về điện ảnh nhưng lại cho ra mắt những tác phẩm cực độc đáo.
Nội dung của Reservoir Dogs rất hỗn loạn và “tào lao”. Mở đầu phim là cảnh 8 người đàn ông đang ăn sáng tại 1 quán ăn ở Los Angeles trước khi họ bắt đầu thực hiện kế hoạch cướp kim cương của mình.
Sáu người trong số họ sử dụng bí danh: Mr. Blonde (Michael Madsen), Mr. Blue (Eddie Bunker), Mr. Brown (Quentin Tarantino), Mr. Orange (Tim Roth), Mr. Pink (Steve Buscemi) và Mr. White (Harvey Keitel). Hai người còn lại là ông trùm xã hội đen Joe Cabot (Lawrence Tierney), người lập ra kế hoạch vụ cướp và con trai ông, “Nice Guy Eddie” (Chris Penn).
Sau khi ra mắt, Reservoir Dogs được coi là một trong những bộ phim xuất sắc về đề tài tội phạm, và là bước khởi đầu thành công cho Quentin Tarantino. Bộ phim được đánh giá rất cao từ các nhà phê bình và trên các trang web điện ảnh uy tín. Reservoir Dogs cũng tạo cảm hứng và được coi là dấu ấn quan trọng trong sự phát triển của dòng phim độc lập.
Thế nhưng đồng thời, bộ phim này luôn nằm trong danh sách những phim gây tranh cãi của điện ảnh, vì những cảnh phim quá bạo lực và tần suất các câu chửi thề. Đặc biệt trong phim có cảnh Mr.Blonde cắt tai viên cảnh sát bị coi là cảnh phim không dễ chịu với nhiều khán giả.
Thậm chí cảnh phim này còn khiến đạo diễn Wes Craven, chuyên trị các phim kinh dị cũng phải “chuồn” khỏi phòng chiếu vì quá sợ hãi.
Thậm chí trong buổi công chiếu đầu tiên với khán giả đại chúng, đạo diễn Quentin Tarantino còn gọi đây là một thảm họa và ông đã quyết định đếm xem có bao nhiêu khán giả bỏ về khỏi rạp chiếu. Kết quả đã có 33 người bỏ về giữa chừng. Bộ phim này còn bị cấm tại Anh Quốc đến tận năm 1995 dù là phát hành dưới dạng bản DVD.
Thế nhưng cũng nhờ Reservoir Dogs, những cảnh bạo lực trở thành “đặc sản” trong phim của Quentin Tarantino, khiến khán giả dần dần chấp nhận điều đó. Với bất cứ bộ phim nào của mình, Quentin Tarantino cũng tìm cách tô đậm những cảnh bạo lực đẫm máu.
Như với Reservoir Dogs, vị đạo diễn người Mỹ này để tông phim một màu lạnh nhằm nổi bật màu đỏ của máu. Những nhân vật trong phim cũng cá tính một cách đầy duyên dáng dù suốt cả phim đều chỉ nói những câu thoại hết sức tào lao.
Những câu chuyện hậu trường xung quanh Reservoir Dogs cũng rất thú vị. Vì đây là bộ phim độc lập của Quentin Tarantino nên ông cũng phải chủ động nguồn tiền để sản xuất. Phim được quay chỉ trong 35 ngày với chi phí ban đầu là 30.000 USD, sau được tăng lên 1,5 triệu USD khi Keitel trở thành nhà sản xuất. Kết quả là các diễn viên trong phim đều phải tự mặc quần áo của mình vì không có tiền đầu tư cho trang phục.
Nam diễn viên Eddie Bunker, người đóng vai Mr. Blue trong phim thậm chí còn từng có quá khứ làm tội phạm. Ông đã bị bắt đi tù và được tha sau khi tham gia vào một vụ cướp. Nam diễn viên này hài hước chia sẻ sau khi bộ phim được phát hành, là không bao giờ nghĩ mình lại tiếp tục một phi vụ với những người xa lạ khác.
-
Lại một bài review không có tiêu đề nhưng hy vọng nó sẽ không lan man như những bài review không tiêu đề trước. Hôm trước vừa đi xem Puss in Boots xong. Thật sự trước khi xem thì mình không hề có kì vọng gì vào phim này, và mình thì vốn không có thói quen đi đọc review trước (tính nó thế đấy, quan niệm là hay dở tùy mình nên hơi ương, đôi khi chấp nhận uổng tiền vì phim dở chứ không thích đọc review trước), nên mình thật sự hoàn toàn không có khái niệm rằng đây là một phim hay và được đánh giá cao. Trước đó mình cũng đã có xem series Shrek rồi, nhưng có thích Shrek cũng vì nó buồn cười, nó đảo lộn các định nghĩa về các nhân vật cổ tích và nó hay chêm yếu tố hiện đại vào trong thế giới fantasy, nhưng về mặt ý nghĩa thì nội dung của Shrek cũng không thấm vào mình lắm (mình không nói nội dung nó không hay nhé, mình chỉ nói nó không thấm được vào mình thôi). Nhưng Puss in Boots thì mình hoàn toàn không ngờ nó hay đến thế, dù nó cùng nhà sản xuất với Shrek.
Nội dung là thế này. Puss là một em mèo bị truy nã biết đánh kiếm giỏi, biết ăn trộm, biết cưỡi ngựa, biết nhảy nhót, biết tán gái, nói chung là thập phần hào hoa phong nhã. Trong lúc đang chuẩn bị ăn trộm những hạt đậu thần (mọc ra cây đậu thần leo lên tới lâu đài của người khổng lồ có kho báu) của vợ chồng sát thủ Jack và Jill thì đụng độ em mèo cái Kitty, sau đó thì tái ngộ với người bạn thơ ấu – qua trứng Humpty Dumpty – ngày xưa gài hàng Puss để giờ ẻm mới sống ngoài vòng pháp luật như thế này. Dù vết thương lòng vì bị phản bội còn khá sâu nặng, nhưng Puss quyết định tin một lần nữa và hợp tác. Hợp tác thành công. Nhưng mọi chuyện mà như thế thì chả còn cái quái gì để nói. Nhưng nói chung là mọi người đi xem đi thì biết, há.
Thôi hết phần mình nói năng nhảm nhí gây hài rẻ tiền rồi, vì mình muốn bàn về Puss in Boots với sự nghiêm túc. Thật ra mọi người sẽ nhầm to nếu tưởng rằng Kitty sẽ là người song hành với Puss trong vai trò “nhân vật chính”. Kitty đối với mình chỉ là một nhân vật mờ nhạt, không mấy ấn tượng và được thêm vào như một nhân vật nữ cần có cho vẻ hào hoa của Puss và cho một câu chuyện tình yêu nhất định phải có trong một bộ phim sặc mùi lãng mạn Latin này. Người cùng chia sẻ những mâu thuẫn và ý nghĩa trong phim với Puss chính là Humpty Dumpty. Có thể nói, mâu thuẫn giữa hai người bắt đầu từ sự thất vọng. Mình từng nói (cũng khá nhiều lần rồi), cảm giác tiêu cực nhất của con người không phải là đau đớn hay buồn khổ, mà là thất vọng. Thất vọng sẽ dẫn đến mất niềm tin, và việc mất niềm tin sẽ gây ra một nỗi đau cực kì khó chữa lành. Sự thất vọng của Humpty Dumpty thời niên thiếu khi thấy cậu và Puss bắt đầu đi trên hai con đường khác nhau đã khiến cậu nông nổi gài hàng Puss, sự thất vọng đã khiến Puss đào tẩu một mình mà bỏ lại Humpty Dumpty, sự thất vọng vì bị bỏ lại của Humpty Dumpty đã dẫn thêm nhiều những tiêu cực khác. Cái lúc Humpty Dumpty kêu Puss hãy hợp tác và tin tưởng anh ta lần nữa, Puss đã đi ngang qua mặt anh ta và nói nhẹ: “Never again – Không bao giờ nữa”. Khoảnh khắc đấy đã khiến mình nhói lên một chút trong lòng. Không phản ứng mạnh mẽ, chỉ là một câu nói khẽ “Never again” thôi mà mình hiểu được vết thương lòng của Puss sâu đến thế nào, thậm chí có thể nó đã lành, nhưng vết sẹo của nó đã để lại thì thật khó phai mờ. Giọng của Antonio Banderas lồng tiếng lúc ấy sao mà truyền cảm đến như vậy. Nhẹ nhàng, nhưng đầy tổn thương.
Humpty Dumpty là một nhân vật mà theo mình định nghĩa là xấu-nhưng-mà-thương, kiểu nhân vật xấu đang bắt đầu trở nên điển hình. Tuy vậy, nếu Humpty Dumpty bảo rằng ngày bé cậu ta chỉ có Puss là bạn, sao cậu không nhìn lại rằng dường như Puss cũng chỉ có cậu là bạn? Nhưng tính cách hai cậu khác nhau, cậu có thấy không, Puss bước đi trên con đường vinh quan ngày ấy là do bản năng của cậu ấy thôi thúc hành động. Là bản năng thì khó mà trách được Puss. Nhưng thôi, mọi việc đã qua rồi. Và dù một lần nữa thất vọng, một lần nữa tổn thương, Puss đã một lần nữa tin tưởng, đền đáp sự thất vọng bằng một sự tin tưởng tôt đẹp nhất mà mình từng biết (và vì vậy nó cũng thật màu hồng – nhưng mình sẽ bỏ qua cho cái sự “hồng” của lần này), để rồi quay ngược thời gian, trở về với cảnh cây cầu ngày trước. Cách giải quyết cho lần quay ngược thời gian này thật đẹp, phải nói dù không phải tới mức sướt mướt khiến khóc lóc sướt mướt, nhưng nó đã khiến mình không ngừng bồi hồi và có cảm giác như có một cơn gió hơi xoáy một chút đang xoáy trong tâm mình. Vì nó không phải là một kết thúc cực kì vui vẻ. Nhưng nó vẫn rất đẹp. Humpty Dumpty và Puss dành cả đời để đi tìm những quả trứng vàng, nhưng cả hai người đều không biết họ đang sở hữu những quả trứng vàng đích thực – tâm hồn của họ và tình bạn giữa họ. Thực sự rất đẹp, thực sự cả-làng-vui-vẻ. Ây hình như mình mâu thuẫn rồi, nhưng thôi kệ đi, hì hì.
Dĩ nhiên toàn bộ phim không phải chỉ có tập trung vào mâu thuẫn về tình bạn của hai nhân vật chính ở trên. Phim rất hồi hộp và có điểm nhấn cao trào rất là tốt. Những cảnh hành động được đan xen với những yếu tố hài hước quen thuộc của dòng phim Shrek làm phim không hề chán chút nào và cả rạp cười liên tục. Nếu như các bạn còn nhớ chuyện cổ tích thì hẳn sẽ phải nhớ nhân vật Mèo đi hia này là của Pháp, nhưng từ sau khi xuất hiện trong Shrek và được Antonio Banderas lồng tiếng thì em Puss đã được chuyển quốc tịch sang Tây Ban Nha và giống như là một phiên bản mèo của Zorro – nhân vật đóng đinh với Antonio. Chính vì vụ chuyển quốc tịch này mà âm nhạc trong phim mang đậm âm hưởng Tây Ban Nha, tiếng ghi-ta réo rắt rất hay và cả màn đấu nhảy với điệu nhảy giậm chân nữa. Nếu chỉ xét về nội dung như câu chuyện, ý nghĩa được truyền tải, thủ pháp truyền tải câu chuyện thì Puss in Boots không có gì để chê. Mình chỉ không thích một chút ở khoản 3D của phim này vì hiệu ứng 3D ở đầu phim rất tốt nhưng về sau thì mình thấy cũng chả khác gì phim 2D thường. Nhưng thành thật khuyên các bạn hãy đi xem phim 3D bản phụ đề tiếng Việt, chứ 2D thì chỉ có bản lồng tiếng của chị, à nhầm, anh Đàm Vĩnh Hưng thôi. Và thật tình thì mình thấy nếu xem bản lồng tiếng của chị, à nhầm, anh Đàm thì cảm xúc của mình sẽ tụt về âm.
Puss in Boots tương tự như Shrek, là một bộ phim hoạt hình dành cho người lớn. Không phải nói nó hoàn toàn là dành cho người lớn mà không dành cho trẻ em, nhưng cái cách nó xây dựng nhân vật và tình huống thì quả thật không thể nào gọi là màu-hồng-cổ-tích được (trừ chi tiết ‘tiếp tục tin tưởng’ kia). Vì nó đã vẽ nên một hình ảnh của sự thất vọng và những tổn thương từ nó, quả thật trẻ con sẽ không hiểu và không nên hiểu sớm việc đánh mất niềm tin đó. Nhưng Puss in Boots sẽ làm người lớn chúng ta có thêm một chút động lực để dám tin một lần nữa, vì dù sao, vùng đất fantasy Far Far Away đó đâu phải chỉ dành cho trẻ con.
-
"Holiday Inn" (1942) là một bộ phim nhạc kịch cổ điển do Mark Sandrich đạo diễn, với sự tham gia của Bing Crosby, Fred Astaire và Marjorie Reynolds. Phim kể về Jim Hardy (Bing Crosby), một nghệ sĩ biểu diễn quyết định rời bỏ cuộc sống biểu diễn ở New York để mở một khách sạn ở nông thôn, nơi anh chỉ mở cửa vào các ngày lễ.
Khi Jim bắt đầu hoạt động, anh gặp Linda Mason (Marjorie Reynolds), một ca sĩ trẻ. Tuy nhiên, cuộc sống của anh bị đảo lộn khi bạn thân Ted Hanover (Fred Astaire), một nghệ sĩ nổi tiếng, đến thăm và bộc lộ tình cảm với Linda. Câu chuyện phát triển với nhiều tình huống hài hước và lãng mạn, cũng như các màn trình diễn âm nhạc đặc sắc.
Phim nổi tiếng với những bài hát kinh điển như "White Christmas" và mang đến một không khí vui tươi, ấm áp, thể hiện tinh thần lễ hội. "Holiday Inn" đã trở thành một trong những bộ phim Giáng sinh được yêu thích nhất và là cảm hứng cho nhiều tác phẩm sau này.
-
"Elf" (2003) là một bộ phim hài Giáng sinh do Jon Favreau đạo diễn, với Will Ferrell thủ vai chính. Câu chuyện xoay quanh Buddy, một con người được nuôi dưỡng bởi những người lùn ở Bắc Cực. Khi lớn lên, Buddy phát hiện ra rằng mình không phải là người lùn mà là con của một con người.
Buddy quyết định rời Bắc Cực để tìm cha mình ở New York. Khi đến thành phố, anh gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với thế giới thực, đặc biệt là với lối sống của con người. Với tính cách hồn nhiên và lòng tốt, Buddy mang đến không khí vui tươi và kỳ diệu cho những người xung quanh, nhưng cũng đối mặt với những hiểu lầm và khó khăn.
Cuối cùng, Buddy phải đối mặt với thực tế rằng cha mình không hề biết về sự tồn tại của anh, và anh cũng phải giúp cứu Giáng sinh khi niềm tin vào ông già Noel bị lung lay. Phim mang thông điệp về tình yêu, gia đình và tinh thần Giáng sinh, và đã trở thành một trong những bộ phim kinh điển trong mùa lễ hội.
-
"Freeway" (1996) là một bộ phim kinh dị hài hước, do Matthew Bright viết kịch bản và đạo diễn. Phim xoay quanh Vanessa, một thiếu nữ tuổi teen gặp phải nhiều khó khăn trong cuộc sống, bao gồm việc lớn lên trong một gia đình rối ren và phải đối mặt với những thử thách trong xã hội.
Câu chuyện bắt đầu khi Vanessa quyết định chạy trốn khỏi nhà để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trên đường đi, cô gặp một người đàn ông có vẻ lịch sự, nhưng thật ra lại là một kẻ sát nhân. Phim phát triển thành cuộc chiến sinh tồn khi Vanessa phải dùng trí thông minh và bản lĩnh của mình để thoát khỏi tình huống nguy hiểm này.
"Freeway" sử dụng nhiều yếu tố châm biếm và phê phán xã hội, đồng thời kết hợp giữa sự hài hước và kịch tính. Phim có sự tham gia của Reese Witherspoon trong vai Vanessa và Kiefer Sutherland trong vai kẻ bắt cóc, và được xem như một tác phẩm độc đáo trong thể loại phim kinh dị.