Jump to content

Điện Ảnh

Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên

1,725 files

  1. "Mildred Pierce" là một bộ phim tâm lý tội phạm năm 1945, kể về câu chuyện của Mildred Pierce, một người phụ nữ ly hôn (do Joan Crawford thủ vai) đang cố gắng xây dựng lại cuộc sống và nuôi dạy hai cô con gái. Khi con gái lớn, Veda, trở nên tham lam và kiêu ngạo, Mildred phải đối mặt với những quyết định khó khăn để bảo vệ gia đình và thành công trong sự nghiệp kinh doanh nhà hàng. Bộ phim khám phá chủ đề tình mẹ, tham vọng và sự hy sinh, đồng thời có những yếu tố gây cấn khi Mildred bị liên quan đến một vụ án mạng.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  2. "Bubba Ho-Tep" là một bộ phim hài kinh dị được phát hành năm 2002, do Don Coscarelli đạo diễn. Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính: Elvis Presley (do Bruce Campbell thủ vai) và John F. Kennedy (do Ossie Davis thủ vai), cả hai đều sống trong một viện dưỡng lão.
    Elvis, sau khi giả mạo cái chết của mình, đã dành những năm tháng còn lại trong viện dưỡng lão, nơi ông phải đối mặt với một quái vật xác sống xuất hiện và bắt cóc các cư dân. Cùng với Kennedy, người tự nhận là Tổng thống và đã bị nhuộm da, Elvis quyết định đứng lên chống lại con quái vật này để cứu viện dưỡng lão và những người bạn của mình.
    Bộ phim kết hợp giữa yếu tố hài hước, kinh dị và sự phản ánh về tuổi già, danh tiếng, cùng với những ký ức của hai huyền thoại văn hóa Mỹ. "Bubba Ho-Tep" được đánh giá cao nhờ sự độc đáo trong cốt truyện và diễn xuất của dàn diễn viên.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  3. "Streets of Fire" là một bộ phim hành động âm nhạc nói về một anh hùng trở về quê hương để giải cứu người yêu của mình, bị bắt cóc bởi một băng nhóm tội phạm. Phim mang phong cách neo-noir với nhiều yếu tố rock’n’roll, tình yêu và cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  4. Wesley Gibson (James McAvoy) là chàng trai “gà mờ” chìm ngập trong một cuộc sống buồn tẻ với công việc chán ngán và một ông sếp quá quắt. Bạn gái của Gibson lại tò tí cùng người bạn thân nhất khiến Gibson cảm thấy không có hiện tại cũng chẳng có tương lai. Nhiều khi Gibson tự hỏi anh có mặt làm gì trên cõi đời đầy đen tối này. Thế nhưng, ngày nọ, một cô gái đẹp đến thông báo với Gibson rằng cha anh, người đã bị giết, đã để lại cho anh một gia tài cực lớn và một mối thù mà Gibson cần trả. Ngay lúc ấy sát thủ Cross (Thomas Kretschman) xuất hiện. Cô gái dẫn Gibson trốn chạy đến một lâu đài cổ. Tại đây Gibson biết đến một hội kín cổ xưa- hội Fraternity tập hợp những sát thủ chuyên nghiệp và hành động theo một tôn chỉ có từ lâu đời (qua lời kể của Sloan (Morgan Freeman), người đứng đầu hội kín) và giữ gìn nguyên tắc của hội. Cha của Gibson và Cross cũng là những hội viên, nhưng Cross đã phản bội tổ chức và đang tìm cách giết hết những người trong tổ chức.
    Lý do hội Fraternity cần đến Gibson là vì cho rằng anh cũng có dòng máu siêu đẳng: mỗi khi xúc động thì nhịp tim của anh tăng rất cao và khi ấy mọi hành động của anh trở nên cực nhanh. Sau khi được huấn luyện, chỉ có anh là người duy nhất có thể giết Cross. Gibson sợ hãi, từ chối nhưng xiêu lòng trước lời đề nghị của Fox (Angelina Jolie)- cô gái dẫn anh chạy trốn- anh đã tham gia tập luyện để được Sloan công nhận đủ khả năng tiêu diệt Cross.
    Sloan dẫn Fox và Gibson truy tầm Cross mãi tận châu Âu. Sau một màn rượt đuổi náo động trên xe lửa, Gibson có cơ hội để giết được Cross. Thế nhưng Gibson phát hiện ra một sự thật kinh khủng: Cross mới chính là cha anh và Sloan là người rắp tâm dựng nên âm mưu này, bởi Cross không bao giờ bắn con trai mình. Gibson phải làm gì để chống lại thế lực của hội kín và với cả con cáo già Sloan, người đã biết rõ anh đến từng chân tơ kẽ tóc?
    Dù bị các nhà phê bình đánh giá lạm dụng kỹ xảo, nhưng Wanted vẫn được khen ngợi là một phim đáng xem vì kịch tính của phim và hình ảnh ấn tượng.  Đạo diễn người Nga Timur Bekmambetov, lần đầu tiên tham gia vào sân chơi Hollywood đã mang lại phong cách mới khi kết hợp khéo léo thể loại hành động và giả tưởng lại với nhau theo một cách riêng của mình, khác kiểu X-men. Phim có kết cấu đơn giản, nhưng cũng có nhiều bất ngờ tạo nên những bước ngoặt khiến khán giả thích thú. Những yếu tố làm nên thành công của phim phải kể là sự đóng góp của dàn diễn viên loại A như Jolie xinh đẹp, ông già Freeman diễn tỉnh như không và vai nam chính là diễn viên đang lên James McAvoy.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  5. Thành cổ Babylon trở thành phế tích, nhưng không bao giờ nó bị lãng quên. Sự lụi tàn của nó là tất yếu, để trở thành nền móng của nền văn hóa, của lịch sử, và là kiến tạo của thời gian. 

    Lịch sử non trẻ của điện ảnh được nuôi dưỡng từ những bộ phim câm đầu tiên, những thước phim chẳng có gì ngoài những chuyển động đen trắng được ghi hình lại và bảng lời dẫn toàn chữ, cho đến khi những máy ghi âm được đưa vào để thay đổi cả một nền nghệ thuật chỉ trong 100 năm ngắn ngủi và trở thành thứ hình thức giải trí phổ biến nhất dành cho đại chúng. Phải có sự hủy diệt cái cũ để cái mới lên ngôi, và với điện ảnh, thay đổi từ phim câm sang phim có tiếng là sự vận động tất yếu đầu tiên để nó phát triển đến như hiện tại. 
    Babylon không hẳn là kiểu phim dành cho tất cả mọi người cùng thưởng thức – từ đầu đến cuối phim, tôi là người duy nhất ngồi trong rạp tận hưởng bộ phim này. Thêm nữa, giờ chiếu cực kì oái oăm và mỗi rạp chỉ có độc một hai suất chiếu, nhưng kì thực, tôi nửa thấy tiếc cho bộ phim mà nửa thấy thỏa mãn cho bản thân hơn. Phim của Damien Chazelle đầy jazz và âm nhạc, và ngồi một mình tôi có thể thoải mái múa may quay cuồng. 
    Sự tinh tế của Damien khi chọn những khoảng lặng và thời điểm để dội âm nhạc vào là vũ khí để đẩy cảm xúc lên cao - sự xuất chúng trong việc sử dụng âm nhạc của ông càng được chứng tỏ qua đề cử Oscar 2022. Khúc dạo piano nhẹ mỗi khi Emanuel nhìn Nellie đắm đuối, khúc bass dồn dập khi ý tưởng của Emanuel về phim cho nghệ sĩ nhạc jazz được thực hiện một cách thành công đẩy sức sống của cảnh phim lên, hay khi nhạc điện tử dội lên khi anh phải chạy trốn,… Đó là trải nghiệm bạn chỉ có thể cảm được tại rạp, mỗi khi âm nhạc vang lên là thị giác được đẩy lên cao trào đồng thời. Damien vẫn duy trì được khả năng chỉ đạo những cảnh quay one-shot tuyệt vời từ những Whiplash, La la land, và đến bây giờ, là Babylon.
    Nhưng Babylon có thể là một trải nghiệm tuyệt vời, không có nghĩa nó là một bộ phim quá xuất sắc, ít nhất so với cách Damien từng tạo ra Whiplash và La la land. Nếu hai bộ phim này của ông đều lấy chủ đề là về âm nhạc (mà chủ yếu là jazz) và cực kì thành công, thì lần đổi gió này của Chazelle khi muốn tạo ra bộ phim về thời kì chuyển giao mạnh mẽ giữa phim câm và phim có tiếng dường như là quá sức. Cứ như thể trong 20 phút đầu, ông đang cố tái hiện lại mọi bữa tiệc trong The Great Gatsby ở Hollywood vậy, và rất nhiều thời gian, rất nhiều tuyến phim bị lãng phí dù rất tiềm năng. Damien, dẫu vậy, vẫn có thể vẽ nên quãng đời huy hoàng của mọi nhân vật cho đến khi họ lụi tàn, như thể muốn ám chỉ rằng một thời đại buộc phải để trôi vào dĩ vãng, tinh tế, tự nhiên và uyển chuyển, y hệt như cách cái kết của La la land diễn ra. Margot Robbie và Brad Pitt khiến tôi vừa trầm trồ vừa phải rùng mình – những vai diễn gắn chặt với thời đại, và chỉ có thời đại đó họ mới có thể phô bày tài năng, và chính họ cũng sẽ chết như thời đại đó – sự tàn lụi không thể tránh khỏi. 
    Sự tàn bạo của dòng thời gian, chúng ta có thể thấy rõ nó qua hai nhân vật Jack Corden và Nellie LaRoy – những diễn viên là những người bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của sự thay đổi này và họ phải chật vật thích nghi cũng như đối mặt với sự hết thời tất yếu sau thời đại hoàng kim ngắn ngủi. Jack Corden dù luôn ở đỉnh cao danh vọng trong thời của mình, vẫn luôn tồn tại tình yêu sâu sắc đối với điện ảnh – là thứ “nghệ thuật dành cho kẻ bình dân” mà nhiều người mỉa mai. Với anh, phim là lẽ sống, diễn là cuộc sống, và cuộc đời của anh cũng chấm dứt khi anh chẳng còn có thể sống một cuộc đời khác trên màn ảnh nữa. Nellie, cô nàng Jersey ghê tởm đến mức nôn mửa vào thói đạo đức giả và sự phù phiếm của giới tinh hoa, chối bỏ sự dối trá đến mức hủy hoại bản thân mà lụi bại. Dẫu rằng sự thực là cả hai đều không thể thích nghi mà thay đổi với cả một nền điện ảnh Hollywood những năm 30, sự lụi tàn của họ lại thực tế, nằm trong chính những phần cao đẹp nhất của chính mình, và thứ khiến họ sống mãi là khát khao được cống hiến cho một thứ vĩ đại hơn chính bản thân và trở thành một phần bất tử của thời gian.
     
    Sự phù phiếm và hoan lạc bất biến của kẻ mang danh quyền lực của Hollywood – những kẻ mà trong bất kì thời kì nào, cũng thấy có mặt trong mọi bữa tiệc, là yếu tố thứ hai mà Chazelle dường như muốn xoáy vào. Nhưng Damien thiếu đi sự khéo léo để dẫn dắt và cân bằng giữa hai yếu tố này trong một bộ phim dài 3 tiếng đồng hồ. Nếu thiếu đi âm nhạc ngoạn mục và lựa chọn sử dụng âm thanh xuất sắc, chắc chắn Babylon không thể giữ người xem lại đến phút cuối cùng. Có những lúc khi xem phim, tôi không hiểu việc Damien lựa chọn dark comedy kết hợp với chính kịch xuyên suốt bộ phim có phải lựa chọn bộc phát không. Tôi vẫn tận hưởng sự hài hước của phim, nhưng càng về những cảnh cuối nó lại bị ghép vào một cách dở hơi. Và dù rằng sự trở lại này của Tobey Maguire là ổn, nó vẫn không khiến phân cảnh anh xuất hiện có chút ấn tượng nào. Nó không quá đóng góp cho cốt truyện chính hay thể hiện quan điểm gì là bao (Nếu có, thì là quá thừa thãi, dù tôi khá thích chất giọng soft của Tobey có thể khiến anh là một phản diện thú vị hoặc ít nhất là đáng nhớ hơn, nhưng sự thật là McKay của anh không được hẳn hoi xây dựng tới nơi tới chốn).
    Dù vậy, tôi vẫn trân trọng hết mực sự tận tâm tri ân dành cho điện ảnh của Damien Chazelle. Vẫn có những khoảnh khắc trong bộ phim cho ta thấy bức tranh sâu sắc và sự khổ ải khi cả những nhà làm phim và diễn viên phải chật vật thích nghi với những dụng cụ mới, tiến trình mới trong một môi trường mới. Tôi trân trọng âm nhạc của Babylon cũng ngang sự ngưỡng mộ với Robbie, Pitt và Calva, và sự tận tâm của Damien Chazelle. Và cũng như cách ông tâm sự về điện ảnh ở cuối phim, khi máy quay lướt qua tất cả mọi chủng tộc, mọi giới tính, mọi lứa tuổi, kẻ đang yêu và kẻ cô đơn, rồi chiếu lại toàn bộ những bước ngoặt lịch sử của nền điện ảnh.
    "Phim, nó là nghệ thuật dành cho mọi kẻ sang hèn."
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  6. Wrath Of Man - bộ phim đánh dấu lần hợp tác thứ 4 của đạo diễn Guy Ritchie và Jason Statham thuộc thể loại hành động, tội phạm, vốn là dòng phim làm nên tên tuổi của nam diễn viên người Anh. Được làm lại từ bộ phim Pháp Le Convoyeur năm 2004, Wrath Of Man kể về H. (Jason Statham), một nam bảo vệ mới đầy bí ẩn và có đôi mắt hoang dã của công ty chuyển tiền Fortico. Anh gây bất ngờ cho đồng nghiệp của mình khi tung ra những kỹ năng chính xác, hạ gục 6 tên cướp trong một vụ trộm.
    Chứng kiến kỹ năng lão luyện của H., đồng nghiệp tại Fortico tự hỏi anh ta là ai và đến từ đâu. Khán giả nín thở khi đoán động cơ của H.: Anh ta có phải là đặc vụ chính phủ không? Một kẻ chủ mưu tội phạm? Anh ta đang lên kế hoạch cho một vụ trộm của riêng mình? Hay anh ấy tham gia Fortico để ngăn cản vụ cướp tiếp theo? Chẳng bao lâu, động cơ cuối cùng của tay thiện xạ trở nên rõ ràng khi anh truy đuổi đám côn đồ đã tước đi mạng sống con trai Dougie và khiến H. bị thương. 
    Dự án mới nhất này gần như không quá hào nhoáng như Snatch hay sự lộn xộn, quay cuồng trong Revolver. Trong khi Jason Statham thể hiện tính cách cứng rắn nghiêm khắc thì Guy Ritchie lại thử sức với phong cách căng thẳng nhưng tương đối hạn chế của Christopher Nolan. Cách Guy Ritchie kể vụ cướp 2 lần khiến khán giả có phần cảm thấy nhàm chán và bối rối. Đầu tiên là từ góc nhìn của H., sau đó một lần nữa từ đội đã lên kế hoạch - hoặc cụ thể hơn, thông qua thành viên nổi loạn có khuôn mặt đầy sẹo - Jan (Scott Eastwood). Wrath of Man sử dụng một cấu trúc không chính thống để kể một câu chuyện đơn giản, chia thời gian thành bốn phần.
    Jason Statham vẫn điển trai và không tóc như thường lệ, mang bộ mặt lạnh lùng, cau có khi xâm nhập vào trụ sờ Fortico để điều tra chân tướng kẻ đã bắn chết con trai mình. Thế nhưng khác với những tác phẩm trước, nam diễn viên lại không nói quá nhiều hay thậm chí là kiệm lời. Khoảnh khắc vui vẻ hiếm hoi của loạt phim là lúc H. vui đùa bên cạnh con trai Dougie, thể hiện những hành động thân thiết giữa cha và con. 
    Dẫu biết nhân vật H. của Jason Statham đau khổ vì mất con và lấy đó làm động lực trả thù, khán giả vẫn chưa cảm nhận được nỗi đau bùng cháy đó. Jason Statham được khen ngợi là chuyển tải cảm xúc khá tốt nhưng trong Wrath Of Man, H. bị xem như cỗ máy trả thù đơ cứng, lạnh lùng vì nhân vật này quá ít thoại. Đó là lỗi chính của bộ phim mà Guy Ritchie nên xem xét lại. 
    Ngoài ra, ngôi sao của Wrath Of Man còn gọi tên Scott Eastwood. Anh vào vai Jan, một thành viên ngang ngược của băng cướp do cựu binh Jackson của Jeffrey Donovan dẫn đầu, có câu chuyện diễn ra song song với đội xe chở tiền. Tất cả đều xây dựng theo hướng một vụ trộm mà trong đó mọi người được tận mắt chứng kiến bộ kỹ năng độc đáo của H. Rũ bỏ ngoại hình điển trai trứ danh, Scott Eastwood chịu làm xấu mình với tạo hình đầy sẹo gây ấn tượng cho khán giả. Đáng tiếc, nhân vật này chỉ đóng vai trò phản diện chính, không được Guy Ritchie đào sâu vào đời tư cũng như động lực cướp tiền (không chỉ một mà nhiều lần) khiến Jan trở nên thô lỗ, khó ưa.
    Màn cameo chớp nhoáng của rapper Post Malone cũng là chi tiết làm khán giả thích thú. Vào vai tên trộm tiền vụng về, Post Malone lột tả được sự ngu ngốc của nhân vật. Wrath Of Man ghi điểm nhờ dàn cast phụ gồm Jeffrey Donovan, Andy Garcia, Eddie Marsan và Laz Alonso. 
    Nhìn chung, Wrath Of Man là bộ phim sẽ làm thỏa mãn fan thể loại hành động, ly kỳ hấp dẫn cũng như fan thể loại trộm cắp. Với thời lượng 2 tiếng, Wrath Of Man khá dài cho kịch bản đơn giản như vậy. Trong khi Guy Ritchie đã lại nhiều nét tinh tế đặc trưng của mình, đạo diễn tài năng hoàn toàn có thể rút gọn bớt thời gian của phim và đẩy mạnh cao trào để Wrath Of Man hoàn hảo hơn.
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  7. **Training Day** (2001) là một bộ phim hình sự tâm lý xoay quanh một ngày làm việc của cảnh sát Los Angeles. Phim theo chân viên cảnh sát mới vào nghề, Jake Hoyt (do Ethan Hawke thủ vai), trong ngày đầu tiên được huấn luyện bởi một nhân viên kỳ cựu, Alonzo Harris (do Denzel Washington thủ vai).
    Khi Jake đi theo Alonzo, anh nhanh chóng nhận ra rằng phương pháp làm việc của Alonzo rất khác thường và có phần bất hợp pháp. Alonzo lạm dụng quyền lực và tham gia vào các hoạt động tội phạm, khiến Jake rơi vào tình huống khó xử giữa việc thực thi pháp luật và sự trung thành với người thầy. 
    Phim không chỉ khám phá sự tha hóa trong ngành cảnh sát mà còn thể hiện cuộc chiến nội tâm của Jake, khi anh dần nhận ra những ranh giới mỏng manh giữa cái đúng và cái sai. Cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai nhân vật chính tạo nên những diễn biến bất ngờ, dẫn đến một cái kết kịch tính.
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  8. **Rocky V** (1990) diễn ra sau khi Rocky Balboa giải nghệ và trở về Philadelphia với gia đình. Sau một thời gian sống trong xa hoa, anh phát hiện ra rằng tài sản của mình bị quản lý kém, dẫn đến khủng hoảng tài chính. 
    Rocky quyết định mở một phòng tập boxing và đào tạo một tài năng trẻ, Tommy Gunn. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Rocky và Tommy dần trở nên căng thẳng khi Tommy muốn nổi tiếng hơn và bị lôi kéo bởi một quản lý khác. Phim tập trung vào sự xung đột giữa việc bảo vệ gia đình và sự nghiệp, cùng với trận đấu cuối cùng giữa Rocky và Tommy, khẳng định lại tinh thần của một chiến binh.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  9. Nội dung phim: 
    Ở thị trấn nọ, người dân cực kì thích phô mai, đây chính là món ăn dùng để phân định cấp bậc trong xã hội, ai là thường dân thì ăn phô mai bình thường, ai là vua chúa thì ăn phô mai thượng hảo hạng.
    Sống dưới lòng đất của thị trấn là một loài vật nhỏ bé – Quái hộp, rất nhút nhát và bị động, chúng sử dụng 1 cái hộp làm cái vỏ ốc cho mình, khi sợ hãi hay gặp nguy hiểm thì lập tức thu mình vô trong đó. Quái hộp chỉ lên mặt đất vào ban đêm để nhặt nhạnh đồ vứt đi về sử dụng, chúng đặc biệt rất ưa thích các chi tiết máy và giỏi việc lắp ráp như một thợ cơ khí. Thức ăn ưa thích của quái hộp là côn trùng. Nhìn quanh khu vực sống của những chú Quái hộp, nếu chỉ lướt qua, bạn sẽ chỉ thấy một bãi rác không hơn không kém. Thế nhưng, kỳ thực nó lại là một phòng nghiên cứu rất công phu. Từng con ốc vít, từng chiếc đồng hồ, từng cái bánh răng nho nhỏ mà con người bỏ đi, Quái hộp thu về hết. Chúng sử dụng những thứ ấy như một chất liệu giúp đời sống phong phú hơn, hiện đại hơn. Và cũng chính sự siêng năng, cần cù của những chú quái hộp là cái đẹp đối trọng so với vẻ bên ngoài gai góc, xù xì.
    Một ngày nọ, lũ Quái hộp nhặt được đứa bé và đem về nuôi dưỡng. Tuy nhiên, lão Archibald biết được việc này và hô hoán lên khắp làng rằng quái hộp bắt cóc đứa bé, rằng Quái hộp là những con quái vật độc ác, chuyên bắt trẻ con về để ăn thịt. Từ đó Archibald được giao việc săn lùng và diệt hết Quái hộp, nếu diệt sạch được lũ quái thì lão muốn sẽ được tôn lên làm bậc vua chúa của thị trấn.
    Trong khi đó, cậu bé Eggs (đứa bé mọi người nghĩ bị Quái hộp ăn thịt) lại được Quái hộp nuôi nấng dưới lòng đất, suốt đời nghĩ mình là Quái hộp cho đến khi cậu ta gặp được một cô bé nọ. 
    Eggs đã dần nhận thức được thế giới xung quanh và bắt đầu hành động để xóa tan sự hàm oan cho Quái hộp, trả lại sự trong sạch cho loài vật bé bỏng này.
    Nhận xét phim:
    Tương tự như Coraline và ParaNorman, The Boxtrolls là bộ phim được thực hiện bằng phương pháp stop-motion. Điểm đặc biệt của phương pháp này là tính chân thực và chiều sâu của vật thể, nhân vật được đẩy mạnh, khiến bộ phim trở nên sống động hơn nhiều. Tuy nhiên, điểm yếu của nó là đôi khi chuyển động trong phim bị thiếu liền mạch, bởi các chuyển động này khi làm phim được ê-kíp xử lý bằng tay, thỉnh thoảng sẽ có sai số.
    Dù vậy, hãng phim Laika đã khắc phục điểm yếu này khá tốt. Người xem khó lòng có thể nhận ra đây là một bộ phim stop-motion khi chỉ dựa qua chuyện động. Ê-kíp làm phim của The Boxtrolls đã rất tỉ mỉ trong từng chuyển động nhỏ. Bên cạnh việc di chuyển các nhân vật, họ cũng áp dụng công nghệ mới trong lĩnh vực kỹ thuật số để tạo ra nhiều cảm xúc hơn trên gương mặt của các con rối. Chỉ tính riêng Eggs, cậu bé nhân vật trung tâm của phim, đã có hớn 1.4 triệu kiểu biểu cảm khác nhau.
    Sự chắc tay của ê-kíp làm phim còn được thể hiện qua phần tạo hình và thiết kế bối cảnh cho The Boxtrolls. Dù phim có đến hàng trăm nhân vật nhưng các họa sĩ vẫn tạo ra được nhiều cá tính khác nhau giúp chúng không bị trùng lắp và chìm lấp. Đặc biệt là với các chú Quái hộp, có chú lùn, cao, mập, ốm, và chúng đều được đặt những cái tên đời thường rất dễ nhớ như cá, giày, rác,v.v…
    The Boxtrolls trước hết là một câu chuyện cảm động về tình bạn, sau đó là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về tình cha con, và cuối cùng là nguyên lý bất diệt của muôn đời: Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác. Và khi theo dõi phim, chúng ta mới tự hỏi: Con người bảo bọn Quái hộp là quái vật, nhưng liệu ai mới thật sự là “quái vật” trong câu chuyện này?
     Những kẻ bị cho là xấu xa với xã hội lại là những người có tâm hồn trong sáng, chính nghĩa; trong khi những người mang danh chính nghĩa và cầm quyền lại là những kẻ xấu xa, nhu nhược, hèn mọn, tồi tệ.
    Tạo hình nhân vật trong The Boxtrolls quả thực không được xinh xắn, ngộ nghĩnh, hay tươi sáng như của những hãng phim khác. Trái lại, họ nhiều góc cạnh, hơi xấu xí và có phần u ám (cùng đặc điểm với hai bộ phim trước đây là Coraline và ParaNorman). N
    hưng nó cũng là một bộ phim thú vị với hình ảnh vừa ghê rợn mà lại vừa đáng yêu. Các bộ phim này đều cho thấy những thứ trông có vẻ đáng sợ chưa chắc đã thực sự đáng sợ, mà những thứ trông có vẻ bình thường lại chính là những điều đáng sợ nhất.
    Rất khó để nói rằng The Boxtrolls là bộ phim dành riêng cho trẻ con hay người lớn, bởi nó dung hòa được rất nhiều yếu tố khiến bất cứ ai cũng phải bật cười, cảm động, lo lắng, sợ hãi rồi ồ lên thích thú.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  10. **Rocky II** (1979) tiếp nối câu chuyện của Rocky Balboa sau trận đấu với Apollo Creed. Sau khi trở về cuộc sống bình thường, Rocky gặp khó khăn về tài chính và sức khỏe. Dù đã chứng minh mình là một đối thủ xứng đáng, anh vẫn cảm thấy chưa hoàn thành.
    Khi Apollo thách thức Rocky tham gia một trận rematch, Rocky cuối cùng quyết định quay lại với boxing. Phim không chỉ tập trung vào trận đấu mà còn khai thác mối quan hệ giữa Rocky và Adrian, đặc biệt là sự hỗ trợ của cô trong quá trình anh chuẩn bị. Cuối cùng, Rocky chiến thắng trong trận đấu, khẳng định tinh thần chiến đấu và sự quyết tâm của mình.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  11. **Rocky** (1976) là câu chuyện về một võ sĩ quyền anh không chuyên, Rocky Balboa, sống ở Philadelphia. Rocky làm công việc giao thịt và thường xuyên tập luyện tại phòng gym. Khi nhà vô địch hạng nặng Apollo Creed tìm kiếm một đối thủ để bảo vệ danh hiệu của mình, anh chọn Rocky, một lựa chọn không ai ngờ đến.
    Dù không được chuẩn bị tốt và không có tiếng tăm, Rocky quyết định nắm bắt cơ hội này. Trong quá trình tập luyện, anh phát triển mối quan hệ tình cảm với Adrian, một cô gái nhút nhát làm việc trong cửa hàng thú cưng. Phim không chỉ tập trung vào trận đấu mà còn khám phá sự phát triển cá nhân của Rocky, tinh thần kiên trì và khát khao vượt lên số phận.
    Cuối cùng, Rocky tham gia trận đấu với Apollo, thể hiện sức mạnh tinh thần và quyết tâm, mặc dù không thắng, anh đã ghi dấu ấn trong lòng mọi người. Phim mang thông điệp mạnh mẽ về nỗ lực và sự không từ bỏ.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  12. Sau 16 năm vắng bóng trên màn bạc kể từ tập phim cuối cùng, tay đấm Rocky của Sylvester Stallone ‘tái xuất giang hồ’ vào mùa Giáng sinh 2006. Bộ phim được thành viên website dữ liệu điện ảnh lớn nhất thế giới IMDB đánh giá 8/10, điểm trung bình các nhà phê bình phim chuyên nghiệp đánh giá trên website RottenTomatoes là 77%, và doanh thu tuần đầu công chiếu là 17 triệu đôla, xếp thứ ba trong bảng tổng sắp. Sự trở lại của Rocky cũng vinh quang như chính câu chuyện trong phim.
    Tập đầu tiên của Rocky ra đời cách đây đúng 30 năm, đưa tên tuổi Sylvester Stallone lên thành ngôi sao hàng đầu tại Hollywood khi đạt doanh thu 117 triệu đôla (trong khi kinh phí thực hiện chỉ 1,1 triệu đôla) và đoạt 3 giải Oscar dành cho Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Dựng phim xuất sắc nhất cùng bảy đề cử Oscar khác, trong đó có đến bốn đề cử Oscar cho dàn diễn viên Sylverster Stallone (Nam diễn viên chính, Stallone cũng được đề cử cho Biên kịch xuất sắc nhất), Burt Young, Burgess Meredith (Nam diễn viên phụ) và Talia Shire (Nữ diễn viên phụ). Bộ phim xoay quanh cuộc đời của Rocky Bolboa, một tay đánh bốc hạng xoàng ương ngạnh luôn khát khao được thành công. Cơ hội đến với Rocky khi tay đấm vô địch thế giới Apollo Creed muốn thách thức một tay đấm vô danh. Sự thành công của bộ phim này kéo theo một chuỗi phim Rocy khác, vẫn với những cuộc đấm bốc khốc liệt giữa Rocky và những đối thủ sừng sỏ, chuyện tình của Rocky và vợ anh, Adrian – người luôn muốn Rocky chọn cuộc sống bình yên, về tình bạn của Rocky và Creed sau những trận quyết đấu của họ, về tình anh em của Rocky và người anh nghèo khó nhưng luôn lạc quan yêu đời Paulie. Các tập phim về sau vẫn thành công về doanh thu, ngoại trừ phần 5 (ra mắt năm 1990) chỉ thu về 40 triệu đôla, thua xa các con số doanh thu trên 100 triệu đôla của các phần trước đó. Tuy nhiên, chất lượng của các bộ phim ngày càng tệ hại, giới chuyên môn lẫn khán giả đều đánh giá thấp những tập phim Rocky về sau, vốn chỉ toàn ‘kiếm cớ’ để Stallone trổ tài đánh bốc.
    Với một ‘lịch sử’ khá dài như thế, Rocky trở thành một nhân vật gần như có thật, với đầy đủ tiểu sử đời tư và sự nghiệp. Khi Sylvester Stallone bắt tay vào viết kịch bản phần 6, kể về cuộc đời của Rocky 16 năm sau kể từ lần cuối khán giả gặp anh ta, Stallone đã phải kể lại một chút chuyện gì đã xảy ra trong khoảng thời gian 16 năm ấy trước khi bước vào câu chuyện chính. Người vợ yêu Adrian luôn sát cánh bên Rocky trong suốt chừng ấy năm đã qua đời vì căn bệnh ung thư. Đứa con trai Rocky Jr. đã lớn, nhưng nó cảm thấy khó chịu với cái bóng của người cha nổi tiếng của mình. Người anh Paulie luôn đứng sau lưng Rocky để an ủi người em trai đau khổ vì mất mát người yêu thương nhất. Lúc này, Rocky đã treo găng, mở một cửa hàng ăn uống, kể chuyện thời hoàng kim của mình cho những thực khách hiếu kỳ. Anh gặp lại cô bé Marie gần nhà luôn gây sự với anh ở phần 1, lúc này đã là một phụ nữ tần tảo chăm cho đứa con trai. Trong phần 6, Rocky quyết định trở lại sàn đấu và nhận một lời thách thức với tay vô địch quyền Anh hạng nặng trẻ trung và sốc nổi. Trở ngại của anh không chỉ là tuổi già, khi mà sự nhanh nhẹn không còn, sự dẻo dai đã mất, mà còn là đứa con trai duy nhất của anh. Rocky Jr. giận dữ không muốn cha mình tiếp tục so găng, ‘vì cha mà cuộc đời con bị ảnh hưởng. Người ta chỉ biết tới con chỉ vì con là con của Rocky. Không ai nhìn thấy con. Bây giờ, khi con bắt đầu cuộc sống của mình, cha lại muốn quay trở lại. Con chẳng cầu xin cha điều gì, chỉ lần này, làm ơn đừng đấu nữa”. Sylvester Stalone tiết lộ rằng đây sẽ là tập cuối cùng của loạt phim Rocky.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  13. “Devotion,” do JD Dillard đạo diễn, kể lại sự nghiệp mang tính bước ngoặt của Ensign Jesse L. Brown, con trai của một người làm thuê ở Mississippi, người đã trở thành phi công Da đen đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1948, và hai năm sau, sĩ quan Da đen đầu tiên của lực lượng này chết trong Chiến tranh Triều Tiên. Người chạy cánh của Brown, một người da trắng giàu có tốt nghiệp Học viện Hải quân Hoa Kỳ tên là Thomas J. Hudner Jr., đã liều mạng để cứu Brown, và sau đó đã được trao tặng Huân chương Danh dự.
    Câu chuyện của họ có thể được đơn giản hóa thành một câu chuyện tình cảm về tình anh em mù màu. (Cuốn sách phi hư cấu cùng tên năm 2015 của Adam Makos trích dẫn một tạp chí Ebony năm 1951 đã cổ vũ một cách trắng trợn, “Chìa khóa cho sự nổi tiếng của Jesse là giả định của anh ấy rằng không có vấn đề chủng tộc nào tồn tại và kết quả là không có vấn đề nào xảy ra.”) Thay vào đó, Dillard và các nhà biên kịch Jake Crane và Jonathan AH Stewart tìm hiểu sâu hơn về những câu nói vỗ về của Brown với báo chí, tiết lộ một người đàn ông không chia sẻ nỗi thống khổ của mình với người ngoài — sự dè dặt mà Brown của họ, do Jonathan Majors thủ vai, dường như cảm nhận được chính bộ phim anh ta ở.
    Mục tiêu là loại bỏ biểu tượng khỏi Brown và khôi phục anh ta trở lại với con người: một vận động viên phấn đấu 24 tuổi, người chồng và người cha ghê tởm việc bị coi là một trường hợp đặc biệt. Cặp đôi kỳ quặc của anh năng động với Hudner dễ cười toe toét (Glen Powell) là lực đẩy kể chuyện ổn định nhất trong một bộ phim có xu hướng trôi dạt từ bối cảnh này sang bối cảnh khác, giống như chính quân đội trong khoảng thời gian ngắn ngủi giữa Thế chiến thứ hai và sự trỗi dậy của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Tại đây, đội của Brown và Hudner có thể đóng quân ở Địa Trung Hải để xua đuổi các tàu Liên Xô và thức dậy sau một buổi tối ở Cannes để tán tỉnh cô gái tuổi teen Elizabeth Taylor — một câu chuyện có thật, được tô điểm một cách khiêm tốn — để biết rằng họ đột ngột chuyển hướng đến Sinuiju đầy tuyết .
    Sự tò mò của Dillard về thời điểm chuyển đổi thường bị bỏ qua này đã thêm một số sắc thái cho những đoạn trải dài mà nếu không sẽ giống như phần tiền truyện của Top Gun với những chiếc máy bay phản lực kiểu dáng đẹp được đổi chỗ cho những chiếc máy bay cánh quạt Corsair cánh mòng biển vô duyên, những con thú nặng nề trông giống như một con chim cánh cụt rockhopper gục xuống ở cuối quán rượu. Dillard và nhà quay phim, Erik Messerschmidt, tạo ra một hoặc hai cảnh tượng làm hài lòng đám đông, chẳng hạn như một trận không chiến với MIG của kẻ thù, hoặc một cảnh sóng biển phản chiếu trên bụng thép của một chiếc máy bay đang lướt đi. Nhưng bất chấp điểm số cảm xúc, bộ phim quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phi anh hùng: những lời lăng mạ bị phớt lờ, phù hiệu dễ dàng bị vứt bỏ, những lời nói vô vị tan biến trong không khí. Nó từ chối xây dựng theo kiểu hoạt động khóc lóc mà chính Brown sẽ không tôn trọng. Là một sự tháo dỡ trí tuệ những câu chuyện kể về vị cứu tinh của người da trắng, “Sự tận tâm” được thực hiện một cách thông minh; như một người sưởi ấm trái tim thú vị khi xem với chú của bạn, nó sẽ cứng khi nó bay lên.
    Tuy nhiên, Majors – một trong những diễn viên chân thành nhất của chúng tôi – thường xuyên khóc nức nở sớm, đặc biệt là trong một khoảnh khắc đau lòng trước gương khi anh ấy nhìn thẳng vào ống kính và phun ra những lời lăng mạ phân biệt chủng tộc vào hình ảnh phản chiếu của chính mình như thể tự đầu độc mình. Lựa chọn giữ kín nỗi đau của anh ấy trở thành một cửa sổ cho thấy Brown muốn được nhìn nhận như thế nào trong cuộc sống và cái chết: không phải với tư cách là một nạn nhân cần được giải cứu, mà với tư cách là chính con người của anh ấy.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  14. Rocky IV xoay quanh cuộc đối đầu giữa Rocky Balboa và Ivan Drago, một võ sĩ quyền anh Liên Xô. Sau cái chết của người bạn Apollo Creed trong một trận đấu với Drago, Rocky quyết định trở lại ring để đại diện cho Mỹ và trả thù. Phim tập trung vào cuộc tập luyện gian khổ của Rocky và trận đấu cuối cùng, thể hiện tinh thần kiên trì và lòng yêu nước.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  15. Như hôm trước đã nói, Man of Steel là phiên bản điện ảnh hay nhất từ trước tới nay về Superman mà mình từng được xem, kể từ thời Christopher Reeve trở đi. Để tóm tắt nội dung phim thì đơn giản là “10 phần phim Smallville bó gọn trong nửa đầu phim, và Superman 2 trong nửa còn lại”.
    Đầu tiên phải nói là Superman theo mình luôn là một nhân vật rất khó để làm thành 1 bộ phim điện ảnh thực sự “hay” về mặt nội dung, vì Superman là 1 nhân vật quá mạnh, và câu chuyện về nhân vật này đôi khi cũng rất dễ “chán”. Nhưng Man of Steel đã có được một câu chuyện đủ thú vị và giải quyết êm thấm trong 2 tiếng rưỡi đồng hồ. Kịch bản của MoS bám theo 1 ý tưởng xuyên suốt “Nên hay không nên tiết lộ danh tính của mình với thế giới- một người ngoài hành tinh có sức mạnh không tưởng”, và tất cả mọi thứ trong ít nhất là nửa đầu phim đều được làm nhằm phục vụ cho cái ý tưởng này. Và theo mình phim đã làm tốt phần này, dù chưa thật sự xuất sắc và còn nhiều lỗ hổng, cái này thì đến cuối bài sẽ nói sau.
    Nhưng xem MoS xong mình lại trở lại 1 trong số những trăn trở của mình từ trước tới nay về điện ảnh là: Một bộ phim hay quan trọng ở câu chuyện hay, hay quan trọng ở cách kể chuyện hay? Và câu trả lời cho Man of Steel chính là cách kể chuyện hay. Phim này phải nói là 1 trong số những phim có cách dẫn chuyện tuyệt vời nhất mình từng được xem. Tất cả mọi góc quay, xử lý, di chuyển,… đều khiến cho hình tượng nhân vật trở nên vô cùng đẹp, và mang đầy tính biểu tượng – một huyền thoại. Hình ảnh người đàn ông thép trong tâm trí bất cứ thằng trẻ con phương Tây nào trở nên đẹp, oai hùng, và quan trọng nhất là mạnh mẽ hơn bao giờ hết trong Man of Steel.
    Nửa đầu phim là câu chuyện tận thế ở hành tinh Krypton, và là sự pha trộn giữa cuộc chu du khắp thế giới tìm kiếm cội nguồn của Clark Kent với những hình ảnh flashback nhớ lại những sự kiện mang tính cách mạng trong tuổi thơ của anh. Bản thân mình chưa bao giờ là fan của cách kể chuyện pha lẫn flashback này, nhưng MoS đã làm điều này quá tốt khiến mình cảm thấy vô cùng thích thú. Zack Snyder đã có sự xử lý flashback vô cùng hiệu quả, chọn được tất cả những thời điểm đắt giá nhất trong cuộc hành trình của Clark Kent để kéo anh ta về với quá khứ đầy trăn trở của mình. Bảo đắt giá vì không chỉ nhịp phim được tâng qua tâng lại giữa flashback và hiện tại tạo cảm giác rất tốt, mà còn vì flashback đều là những sự kiện có ý nghĩa bổ sung và làm giàu thêm cho câu chuyện tìm kiếm của Clark Kent trong hiện tại. Cách dẫn chuyện hiệu quả này đã khiến cho cái cảm giác chung cho bộ phim có một chiều sâu về cảm xúc, và xây dựng tốt vào cái ý tưởng “Thế giới đã sẵn sàng đón nhận ta chưa?” mà phim vạch ra từ đầu. Một cách ngắn gọn thì MoS đã kể câu chuyện thời niên thiếu của Superman hay hơn, sâu hơn, đắt giá hơn 10 phần Smallville từng làm.
    Và nửa còn lại của phim là một cuộc bứt phá vô tiền khoáng hậu của thiên tài Zack Snyder với sở trường đạo diễn những cảnh hành động vô cùng hoành tráng của mình. Lần đầu tiên trong lịch sử người xem được chứng kiến những pha chiến đấu tay đôi cực kỳ điên cuồng, đẹp mắt, sung sướng đến nổi da gà giữa Superman và những đối thủ ngang cơ đến từ cùng hành tinh Krypton quê hương anh. Những cú đấm long trời lở đất, rụng nhà rơi cửa, người bay xuyên lục địa, phải nói là phê hơn cả con tê tê. Hiệu quả của điều này phải nói đến sự lựa chọn trong việc xử lý các cảnh này. Thường trong các phim hành động những năm gần đây, kể cả phim siêu anh hùng, các cảnh hành động thường được làm theo cách quay rung rung, cận cảnh, hình ảnh lộn xộn vô cùng, không thể nhìn rõ được đâu là địch đâu là ta. Nhưng Zack Snyder thì không làm những điều ngớ ngẩn như vậy. Hành động là 1 trong số những thứ hay nhất, cần được xem rõ nét nhất, và cần phải làm đẹp nhất trong những phim siêu anh hùng chuyển thể từ truyện tranh, và Zack biết rõ cách để làm được điều đó. Thực ra thì phim này không còn những pha slow motion quay chậm mang tính thương hiệu của Zack nữa, nhưng bù lại, những pha lia máy vòng quanh cuộc chiến với nhịp độ cực kỳ nhuần nhuyễn như một cuộc khiêu vũ, việc đóng đinh điểm trung tâm của cuộc chiến vào một nhân vật nhất định qua từng trường đoạn đánh nhau và giữ độ cân bằng cho hình ảnh khi zoom ra và vào trong những cảnh này, không để cho hình ảnh bị lộn xộn, chính là thứ đã khiến cho MoS là một trong số những phim siêu anh hùng xuất sắc nhất chỉ nói về hành động. Và quan trọng nhất, những pha bay lượn của Superman trong phim thì thôi rồi lượm ơi, đẹp không còn gì để nói.
    Tất cả mọi lựa chọn về hình ảnh trong phim này: từ thiết kế mỹ thuật, quay phim, nhịp phim, hành động,… đều được làm trên cả tuyệt vời và hơn cả mong đợi, và đã làm nên một bộ phim có sự hoành tráng, rộng lớn, chi tiết, tạo được cảm giác “sâu” về cảm xúc khi xem phim, thể hiện tuyệt vời sự mạnh mẽ, hùng tráng của một câu chuyện về Superman, nhưng cũng không hề bỏ quên bi kịch.
    Như mình đã nói rất nhiều lần về lựa chọn diễn viên trong phim này: XUẤT SẮC. Henry Cavill chính là Superman. Không chỉ bởi vì có khuôn mặt cực kỳ chuẩn cho vai này với cái cằm chẻ, Henry còn có cái sự “manly”- một vẻ đàn ông cực kỳ mạnh mẽ mà từ trước tới nay mình chưa bao giờ thấy trong bất cứ diễn viên nào vào vai này. Không hiểu vì lý do gì mà trong các phiên bản điện ảnh của Superman trước kia người ta đều chọn những ông luôn có vẻ gì đó yếu đuối, thậm chí hơi thục nữ, và mình luôn cảm thấy ngứa ngáy về điều đó. Không chỉ thế, Henry cũng toát được lên cái thần thái của nhân vật Clark Kent/Superman – một vẻ thân thiện từ trong ánh mắt. Mình cứ nghĩ sẽ khó có ai thay thế được Tom Welling của Smallville về độ hợp vai, nhưng khi nhìn thấy Henry Cavill thì thực sự là đã phải thay đổi suy nghĩ. Hơn nữa anh Henry này còn đẹp trai hơn tất cả các anh Superman trước kia cộng lại ;)) – lý do hoàn hảo để chị em nên đi xem phim này.
    Riêng với các anh em – Lois Lane tuyệt vời nhất trong lịch sử Superman, vừa xinh đẹp, vừa có sự sắc sảo, thông minh, ánh lên ngay trong mắt Amy Adams. Tất cả những điều quan trọng nhất của nhân vật này đều được Amy thể hiện 1 cách tinh tế, và kịch bản cũng đã tôn nhân vật này lên đủ hiệu quả. Zod và Faora xứng đáng là 1 trong số những nhân vật phản diện chất lượng nhất kể từ đầu hè đến giờ, nếu so sánh với Khan của Star Trek. Zod không chỉ có sự điên cuồng, sự đáng sợ đến từ từng ánh mắt, lời nói, mà còn có một mục đích cực kỳ nhất quán xuyên suốt. Tất cả những gì hắn ta làm đều phục vụ cho mục đích duy nhất đó, bất kể sự trả giá có như thế nào đi chăng nữa. Faora không chỉ có nhan sắc, những pha chiến đấu của cô này phải nói là quá bá đạo, cộng thêm một ánh mắt khét lẹt và một đoạn thoại tuy ngắn nhưng theo mình là cực kỳ đắt giá dành cho nhân vật này. Phim tạo khá nhiều đất để cho các nhân vật người Trái Đất có dịp biểu diễn, và thể hiện rằng người Trái Đất có khả năng tự chủ, chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào siêu anh hùng cứu thế. Theo mình đây cũng là 1 lựa chọn thú vị trong kịch bản, mặc dù chưa được thực hiện đủ độ sâu. Ngoài ra thì mình đánh giá cao Jor El và Lara Jor El – bố mẹ đẻ của Clark ở hành tinh Krypton, và mình cho rằng trường đoạn tận thế được thực hiện một cách rất có giá trị. Trong khi đó thì Johnathan Kent và Martha Kent của Kevin Costner và Diane Lane thì có thể đánh giá là tròn vai.
    Tuy nhiên, MoS không phải là 1 phim hoàn hảo, và bất chấp việc mình cảm thấy đây là 1 trong số những phim hay nhất được xem từ đầu hè và đã cho 8/10 điểm, mình vẫn phải thừa nhận phim có rất nhiều lỗi về kịch bản mà mình sẽ liệt kê ra sau đây, một lần nữa, như đã nói, nếu bạn chưa xem phim thì nên dừng lại:
    – Clark Kent đứng nhìn bố chết – người viết kịch bản đã quá chú tâm vào việc xây dựng ý tưởng “thế giới chưa sẵn sàng” mà bỏ quên sự hợp lý trong kịch bản. Không đời nào 1 đứa con như Clark Kent mà lại có thể để yên cho bố mình chết như vậy cả, cho dù là ông ta có giơ tay ra bảo đừng đi chăng nữa.
    – Superman mải đánh nhau, bỏ mặc mẹ mình đứng 1 mình với 1 đám người Krypton đang đe dọa mẹ mình. Đoạn này khiến mình rất nhức nhối vì nghĩ là Superman sẽ chỉ đánh bay Faora đi và ở lại cứu mẹ đến 1 nơi an toàn đã rồi mới đi đánh nhau tiếp. Ai dè đâu ông chăm chăm lao đi đánh nhau đã, trong khi ở đấy vẫn còn 1 đám Kryptonian vô cùng nguy hiểm.
    – Superman đánh nhau long trời lở đất, rơi nhà rụng cửa, tan hoang thành phố, và không thèm cứu người. Số người dân vô tội bị chết trong những pha chiến đấu hoành tráng đẹp mắt trong phim này chắc ko thể đếm xuể. Mình đã đinh ninh là Superman thể nào cũng sẽ đến kịp và cứu Jenny Olsen mắc kẹt giữa đống đổ nát, ai dè không phải. Rồi nhà cửa rụng rơi, bê tông gạch đá, ô tô bay tứ tung, phá nát hết cả thành phố mà anh Superman chỉ quan tâm đến việc đánh nhau, không quan tâm đến người vô tội đứng xung quanh.
    – Zod không hiểu vì sao ngay khi đến Trái Đất không dùng ngay cái máy khoan để 1 là thực hiện ý đồ xâm lược, 2 là sẽ là một động lực hiệu quả hơn để Kal El phải ra mặt, đỡ mất công tìm kiếm. Hơn nữa, như thế thì khi Superman ra mặt cứu thế sẽ trở thành 1 màn ra mắt hiệu quả hơn trong mắt người Trái Đất, và giải quyết thuyết phục hơn cái ý “thế giới đã sẵn sàng chưa?”.
    – Superman giết Zod. Cái này theo mình là 1 lựa chọn mang tính liều mạng của người viết kịch bản, nhằm bi kịch hóa và hiện thực hóa nhân vật, không làm cho Superman là 1 nhân vật hoàn hảo không bao giờ giết người như trước nữa. Hơn nữa tình huống được lựa chọn để Superman giết Zod cũng là 1 tình huống khá sát sao và khiến cho việc giết người có vẻ như có thể chấp nhận được, và Superman sau đó cũng tỏ ra đau khổ. Tuy nhiên với những fan lâu năm của Superman thì sẽ là 1 điều khó chấp nhận. Vì Superman là 1 nhân vật hoàn hảo, là 1 siêu anh hùng với nguyên tắc không bao giờ giết người, và cho dù tình huống có nguy hiểm đến đâu cũng luôn tìm ra cách khắc phục. Nhưng cá nhân mình cho rằng đây không phải là 1 vấn đề quá to tát vì nhiều lý do: 1 – Đây là một Superman mới khởi đầu, chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa có nhiều bi kịch, chưa bao giờ phải lựa chọn gì nhiều mâu thuẫn lắm, vẫn còn rất non. Việc giết Zod khi ko có lựa chọn gì cũng có thể là 1 nền tảng tốt để phục vụ cho nguyên tắc “ko giết người” mà sau này Superman sẽ theo đuổi – nhằm mục đích không bao giờ lặp lại sai lầm đó nữa.
    2 – Khiến cho Superman trở thành 1 nhân vật không còn hoàn hảo nữa mà có thêm sự bi kịch, nhằm hiện thực hóa, bi kịch hóa nhân vật, khiến nhân vật có sự đáng tin hơn.
    3 – Không làm thế thì chả biết 2 cụ còn đánh nhau đến bao giờ vì 2 thằng này đều khỏe như nhau.
    – Các nhân vật trong phim, ngoài Zod và Superman ra thì chưa được xây dựng có đủ chiều sâu, chưa thuyết phục, do phim tập trung quá nhiều vào xây dựng câu chuyện và cái ý “thế giới đã sẵn sàng chưa”. Mối quan hệ giữa các nhân vật cũng chưa đủ độ sâu, nhất là quan hệ cha/con, mẹ/con giữa Clark và ông bà nhà Kent.
    Nói chung tất cả những điều ko ổn của MoS đều nằm ở kịch bản do David S Goyer và Chris Nolan thực hiện, trong khi cái quan trọng nhất với mình là cách kể chuyện do Zack Snyder thực hiện thì lại hết sức tuyệt vời. Những lỗi này trong kịch bản khi đặt vào tổng thể phim thì theo mình đều là những điều có thể nhìn qua được, không đủ để khiến phim thành phim dở. Và vì thế mình cho rằng 8/10 là 1 điểm số công bằng dành cho bom tấn thứ 3 của mùa hè. Nói một cách ngắn gọn thì MoS là một phim có kịch bản chưa hoàn hảo, nhưng cách dẫn chuyện thì tuyệt vời.
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  16. "The Adventures of Baron Munchausen" (1988) là một bộ phim giả tưởng phiêu lưu do Terry Gilliam đạo diễn, dựa trên nhân vật Baron Munchausen, một nhân vật hư cấu nổi tiếng với những câu chuyện phiêu lưu kỳ quái.
    Nội dung phim diễn ra trong bối cảnh thành phố bị bao vây bởi quân đội Ottoman. Baron Munchausen (John Neville) trở lại để cứu thành phố và những người dân trong lúc họ đang tuyệt vọng. Với sự giúp đỡ của một cô bé tên Sally (Sarah Polley) và một nhóm người, Baron kể lại những câu chuyện phiêu lưu của mình – từ việc đi du hành đến mặt trăng, gặp gỡ các sinh vật kỳ lạ, cho đến việc chiến đấu với quái vật khổng lồ.
    Mỗi câu chuyện của Baron mang đến những cảnh tượng tuyệt vời và phong phú về trí tưởng tượng. Trong khi nhiều người không tin vào những điều anh nói, Baron vẫn cố gắng khẳng định rằng trí tưởng tượng và sự sáng tạo có sức mạnh để thay đổi thực tại.
    Bộ phim nổi bật với phong cách hình ảnh độc đáo, kỹ xảo đặc biệt và thông điệp về sức mạnh của trí tưởng tượng. "The Adventures of Baron Munchausen" đã trở thành một tác phẩm cổ điển và là một ví dụ điển hình cho phong cách sáng tạo của Terry Gilliam.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  17. "Marathon Man" (1976) là một bộ phim tâm lý hành động, được đạo diễn bởi John Schlesinger, với sự tham gia của Dustin Hoffman, Laurence Olivier và Roy Scheider.
    Nội dung phim xoay quanh Babe Levy (Dustin Hoffman), một sinh viên tiến sĩ và cũng là một vận động viên marathon, đang tập luyện cho một cuộc thi. Cuộc sống của anh trở nên rối ren khi anh vô tình bị cuốn vào một âm mưu quốc tế liên quan đến một viên kim cương bị đánh cắp.
    Khi anh trai của Babe, một điệp viên, bị sát hại, Babe trở thành mục tiêu của một bác sĩ tàn nhẫn, Christian Szell (Laurence Olivier), một nhân vật nguy hiểm có quá khứ liên quan đến các cuộc thí nghiệm tàn ác. Szell buộc Babe phải đối mặt với những bí mật đau thương của gia đình và tìm cách thoát khỏi tay kẻ thù.
    Bộ phim kết hợp yếu tố hành động, hồi hộp và tâm lý, đặc biệt nổi bật với màn trình diễn xuất sắc của Olivier và Hoffman. "Marathon Man" đã trở thành một tác phẩm kinh điển, gây ấn tượng sâu sắc với khán giả nhờ vào cốt truyện căng thẳng và những tình tiết bất ngờ.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  18. "Rocky III" (1982) là phần thứ ba trong loạt phim nổi tiếng về quyền anh "Rocky," do Sylvester Stallone đạo diễn và viết kịch bản, với sự tham gia của chính ông trong vai Rocky Balboa, cùng với Talia Shire, Burgess Meredith và Mr. T.
    Nội dung phim diễn ra sau khi Rocky trở thành nhà vô địch hạng nặng, nhưng anh bắt đầu mất đi sự quyết tâm và động lực do cuộc sống sung túc. Khi đối mặt với một thách thức lớn từ Clubber Lang (Mr. T), một tay đấm trẻ tuổi và hung hãn, Rocky bị đánh bại trong trận đấu đầu tiên. 
    Sau thất bại, Rocky tìm kiếm sự giúp đỡ từ người bạn cũ Apollo Creed (Carl Weathers) để luyện tập và lấy lại tinh thần. Phim không chỉ khai thác những trận đấu quyền anh kịch tính mà còn tập trung vào hành trình vượt qua khó khăn, tự khám phá bản thân và sự quan trọng của tình bạn.
    Cuối cùng, Rocky lấy lại sức mạnh và lòng dũng cảm để tái đấu với Clubber Lang, đưa người xem đến một trận đấu đầy kịch tính và cảm xúc. "Rocky III" đã thành công vang dội và củng cố vị thế của loạt phim trong lòng khán giả.
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  19. Đạo diễn phim Krzysztof Kieślowski từng hóm hỉnh trả lời, việc 3 màu sắc Xanh – Trắng – Đỏ tượng trưng cho 3 bộ phim, cũng như thông điệp mà chúng chuyển tải gợi nhớ khẩu hiệu của nước Pháp: liberté, égalité, fraternité – thực ra đến từ nguyên do rất đơn giản – Pháp đầu tư cho dự án dài hơi này của ông. Nếu quốc gia khác bỏ tiền, thì có lẽ Krzysztof cũng sẽ đặt tên khác đi cho phù hợp.
    Nhưng dù ông nói thế, chúng ta vẫn không thể phủ nhận rằng: Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái là nền tảng cho Blue (1993) – White (1994) – Red (1994) phát triển và trở thành một trong những trilogy vĩ đại nhất lịch sử điện ảnh. 3 bộ phim riêng biệt được làm với 3 phong cách chẳng hề liên quan, cứ thế hòa hợp, quấn quít vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng với đầy đủ những thăng trầm, những khoảng lặng, những cao trào bóp nghẹt khán giả.
    Thực ra tôi xem bộ ba phim này cũng đã lâu, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện viết hay phân tích về chúng. Tôi cho rằng bản thân mình không đủ khả năng. Vậy nên vài dòng dưới đây về mỗi bộ phim, chỉ là những cảm nhận ngây ngô, ngắn gọn và đơn giản, mong bạn đừng chê (hoặc có chê thì cũng nhẹ lời thôi).
    Blue (1993)
    Xanh mê hoặc từ những khung hình đầu tiên.
    Người ta vẫn bảo rằng, xanh là màu sắc của bầu trời, là thứ gợi nhớ cảm giác tâm linh siêu thực. Xanh kể về một bi kịch nhưng nhân vật chính của câu chuyện dường như chẳng hề muốn đối mặt; hay có chăng, cô không thể vì nó quá đau đớn. Cô chạy trốn.
    Chúng ta chứng kiến quá trình một người phụ nữ bước đến tự do đích thực. Không phải là sự tự do mang tính chính trị hay thể xác, Xanh đề cập vấn đề trên khía cạnh thiên về xúc cảm. Ở bộ phim này, đạo diễn Krzysztof chỉ ra rằng: dù lựa chọn ở một mình, vứt bỏ tất cả hay từ chối – cắt đứt mọi mối liên hệ với thế giới và quá khứ, tự khóa mình vào căn phòng tối rồi ném đi chiếc chìa khóa duy nhất … bạn vẫn không có được tự do.
    Bạn nhắm đôi mắt của mình lại, thậm chí trở nên vô tri, cũng chẳng thể tự do.
    Âm nhạc đóng phần quan trọng trong tất cả các phần phim của trilogy Three Colors, nhưng với Xanh – nó là thứ ở vị trí dẫn dắt. Nội dung chính của tác phẩm điện ảnh này cũng xoay quanh một bản giao hưởng dở dang: với những âm thanh – tiết tấu rời rạc, những ý tưởng, những suy nghĩ bế tắc tưởng chừng không thể tháo gỡ. Bất cứ giai điệu nào vang lên cùng đồng nghĩa với việc người xem sẽ bị nhấn chìm vào dòng thác cảm xúc mãnh liệt. 
    Xanh chẳng cần cố gắng, bắt ép người xem gồng mình theo mạch phim. Khán giả buông bản thân trôi cùng những diễn biến của nó. Chúng ta phó mặc tất cả quyền định đoạt vào tay người đạo diễn.
    Đó chính là sự tự do.
    White (1994)
    Khi nhắc đến bộ 3 phim Xanh – Trắng – Đỏ, đa phần cả khán giả lẫn giới chuyên môn đều sẽ say sưa ca tụng Đỏ hoàn mỹ, hay như tôi đã nói ở trên: chìm đắm với Xanh mê hoặc. Trắng thường chỉ được đề cập khi câu chuyện đã đi tới điểm kết thúc và mọi người chuẩn bị chuyển sang đề tài khác.
    Nhận xét thật sự công bằng, Trắng không hề có điểm nào hấp dẫn. Khác với 2 câu chuyện còn lại được kể bằng lối ngôn ngữ điện ảnh giàu tính biểu tượng cùng phần kịch bản đậm chất thơ, Trắng khá thô kệch và xấu xí, nó chẳng có những góc máy đẹp khiến khán giả “điếng người” hay các lời thoại sâu sắc. Nhưng điểm thú vị của tác phẩm này nằm ở chỗ: nó khiến người xem bật cười trước sự nhạt nhẽo và tuyệt vọng trong một câu chuyện phi lý tầm phào. Ngay cả cách sử dụng màu sắc phim không quá chặt chẽ như Xanh và Đỏ, khi cứt chim cũng là màu trắng, tuyết cũng là màu trắng, mây trời cũng là màu trắng, váy cưới cũng là màu trắng … lại là lí do khiến tôi thích phần phim này nhất.
    Vì cứ thử nghĩ mà xem, trong Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái, rõ ràng sự bình đẳng luôn là thứ khó đạt đến mức độ hoàn hảo và nó sẽ dễ dàng bị phá hủy chỉ với một tác động nhỏ. Màu trắng ngoài đời cũng thế.
    Việc Krzysztof Kieślowski sử dụng câu chuyện tình yêu có đôi chút ám ảnh bệnh hoạn, lồng ghép cả những yếu tố âm mưu – báo thù, hài hước – châm biếm không khiến Trắng mất đi tính nghệ thuật. Ngược lại, chính sự tầm thường (hay thậm chí cái không khí rẻ tiền) đó lại là điểm đặc biệt nhất, phân tách nó với Xanh và Đỏ.
    Vào giây phút Trắng kết thúc, cân bằng tuyệt đối với phần mở đầu của bộ phim, ai có thể nói rằng nó đã đi sai hướng?
    Red (1994)
    Hãy miêu tả Đỏ ngắn gọn bằng hai từ: hoàn mỹ.
    Mọi chi tiết trong bộ phim này, dù là nhỏ nhất, đều ẩn chứa những ý nghĩa tượng trưng riêng mà sau mỗi lần xem lại nó, bạn không thể thoát khỏi cơn rùng mình ớn lạnh. Ở Đỏ, đạo diễn Krzysztof thích vờn bắt cảm xúc nơi khán giả bằng lối xây dựng nội dung – nhân vật hời hợt, thiếu thông tin và dường như chẳng có chút kết nối chặt chẽ nào. Mọi thứ cứ diễn ra theo một trình tự nửa ngẫu hứng – nửa chỉnh chu, để rồi lao thẳng vào cái kết không thể bất ngờ, lạnh lùng hay đậm chất bác ái hơn.
    Có lẽ chính vì thế, tôi luôn thấy … sợ Đỏ. Dường như Krzysztof Kieslowski không chỉ đặt dấu chấm hết cho The Three Colors Trilogy cũng như sự nghiệp bản thân với Đỏ, mà thậm chí ông đã dự tính mở ra một chương hoàn toàn mới cho lịch sử điện ảnh đương đại, nơi người đạo diễn có thể thách thức tất cả các rào cản đến từ giới phê bình nghệ thuật hay khán giả – những kẻ thích mọi thứ phải được diễn giải rõ ràng theo ý mình.
    Nếu chúng ta đã buông trôi theo cái kết của Xanh, bất ngờ sửng sốt trước cái kết của Trắng, thì cái kết của Đỏ thật sự là cú đánh trời giáng vào sau gáy. Nó choáng ngợp đến khó thở, khiến người xem nhận ra những ý nghĩa cũng như sự vô nghĩa của cuộc đời ngay trong một khoảnh khắc.
    Tôi không thể tóm tắt nội dung của Đỏ. Đó là một công việc quá sức.
    Kỳ thực, tôi xem khá nhiều phim, trong đó cũng có các trilogy để lại ấn tượng sâu sắc. Yêu thích nhất vẫn là series Before Sunrise – Before Sunset – Before Midnight (Richard Linklater), hay chùm phim Việt Nam: Mùi Đu Đủ Xanh – Xích Lô – Mùa Hè Chiều Thẳng Đứng (Trần Anh Hùng), cũng như bộ 3 “báo thù” Sympathy for Mr. Vengeance – Oldboy –  Sympathy for Lady Vengeance (Park Chan Wook).
    Tuy nhiên, một số trilogy lại không được trọn vẹn (theo cách nhìn của tôi), ví dụ như 2046 quả là chông chênh so với 2 phần phim trước đó gồm Days of Being Wild và In the Mood for Love (Vương Gia Vệ). Cũng phải kể đến Noriko trilogy của đạo diễn người Nhật – Yasujirō Ozu – mở đầu với Late Spring và kết thúc bằng Tokyo Story – những bộ phim đều có thể xem là kiệt tác khi đứng riêng lẻ, nhưng chiếc cầu nối ở giữa – Early Summer – dù chẳng hề tệ chút nào – vẫn khiến người xem không khỏi thầm tiếc nuối.
    Còn ở Three Colors: Blue (1993) – White (1994) – Red (1994); Krzysztof Kieslowski đã thực hiện kiểu làm trilogy hoàn toàn mới mẻ: 3 bộ phim, 3 thể loại, 3 phong cách điện ảnh, thậm chí dùng 3 cinematographer khác nhau. Sự liên hệ giữa chúng không đến từ cốt truyện hay nhân vật; mà kết nối, bện xoắn vào nhau bằng những chi tiết cực kỳ tinh vi và nhỏ bé, chỉ nhấn nhá trong cách quay phim, sử dụng màu sắc hay tạo dựng tình huống gợi nhớ …
    Tính đa dạng, phức tạp, hoàn thiện tuyệt vời của nó vượt xa hơn tất cả những ngôn từ mà tôi có thể dùng để miêu tả. Một tác phẩm xứng đáng để được lưu giữ vĩnh viễn về sau.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  20. "Dazed and Confused" (1993) là một bộ phim hài độc lập do Richard Linklater đạo diễn, diễn ra vào ngày cuối cùng của năm học 1976 tại một trường trung học ở Texas. 
    Nội dung phim xoay quanh một nhóm học sinh, từ các đàn anh đến đàn em, khi họ trải qua những khoảnh khắc cuối cùng của tuổi thanh xuân. Bộ phim khai thác các chủ đề như tình bạn, tình yêu, áp lực xã hội và sự tìm kiếm bản sắc. 
    Trong suốt một đêm, các nhân vật chính như Mitch (Wiley Wiggins) và Wooderson (Matthew McConaughey) tham gia vào những hoạt động tiệc tùng, tìm kiếm niềm vui và khám phá những mối quan hệ. Phim không có một cốt truyện cụ thể, mà thay vào đó, nó tập trung vào những khoảnh khắc đời thường và những cuộc hội thoại, thể hiện một cách chân thật về cuộc sống của giới trẻ thời kỳ đó.
    "Dazed and Confused" đã trở thành một tác phẩm kinh điển, nổi bật với phong cách điện ảnh độc đáo và cách khắc họa cuộc sống thanh thiếu niên một cách chân thực và dí dỏm.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  21. Đạo diễn phim Krzysztof Kieślowski từng hóm hỉnh trả lời, việc 3 màu sắc Xanh – Trắng – Đỏ tượng trưng cho 3 bộ phim, cũng như thông điệp mà chúng chuyển tải gợi nhớ khẩu hiệu của nước Pháp: liberté, égalité, fraternité – thực ra đến từ nguyên do rất đơn giản – Pháp đầu tư cho dự án dài hơi này của ông. Nếu quốc gia khác bỏ tiền, thì có lẽ Krzysztof cũng sẽ đặt tên khác đi cho phù hợp.
    Nhưng dù ông nói thế, chúng ta vẫn không thể phủ nhận rằng: Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái là nền tảng cho Blue (1993) – White (1994) – Red (1994) phát triển và trở thành một trong những trilogy vĩ đại nhất lịch sử điện ảnh. 3 bộ phim riêng biệt được làm với 3 phong cách chẳng hề liên quan, cứ thế hòa hợp, quấn quít vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng với đầy đủ những thăng trầm, những khoảng lặng, những cao trào bóp nghẹt khán giả.
    Thực ra tôi xem bộ ba phim này cũng đã lâu, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện viết hay phân tích về chúng. Tôi cho rằng bản thân mình không đủ khả năng. Vậy nên vài dòng dưới đây về mỗi bộ phim, chỉ là những cảm nhận ngây ngô, ngắn gọn và đơn giản, mong bạn đừng chê (hoặc có chê thì cũng nhẹ lời thôi).
    Blue (1993)
    Xanh mê hoặc từ những khung hình đầu tiên.
    Người ta vẫn bảo rằng, xanh là màu sắc của bầu trời, là thứ gợi nhớ cảm giác tâm linh siêu thực. Xanh kể về một bi kịch nhưng nhân vật chính của câu chuyện dường như chẳng hề muốn đối mặt; hay có chăng, cô không thể vì nó quá đau đớn. Cô chạy trốn.
    Chúng ta chứng kiến quá trình một người phụ nữ bước đến tự do đích thực. Không phải là sự tự do mang tính chính trị hay thể xác, Xanh đề cập vấn đề trên khía cạnh thiên về xúc cảm. Ở bộ phim này, đạo diễn Krzysztof chỉ ra rằng: dù lựa chọn ở một mình, vứt bỏ tất cả hay từ chối – cắt đứt mọi mối liên hệ với thế giới và quá khứ, tự khóa mình vào căn phòng tối rồi ném đi chiếc chìa khóa duy nhất … bạn vẫn không có được tự do.
    Bạn nhắm đôi mắt của mình lại, thậm chí trở nên vô tri, cũng chẳng thể tự do.
    Âm nhạc đóng phần quan trọng trong tất cả các phần phim của trilogy Three Colors, nhưng với Xanh – nó là thứ ở vị trí dẫn dắt. Nội dung chính của tác phẩm điện ảnh này cũng xoay quanh một bản giao hưởng dở dang: với những âm thanh – tiết tấu rời rạc, những ý tưởng, những suy nghĩ bế tắc tưởng chừng không thể tháo gỡ. Bất cứ giai điệu nào vang lên cùng đồng nghĩa với việc người xem sẽ bị nhấn chìm vào dòng thác cảm xúc mãnh liệt. 
    Xanh chẳng cần cố gắng, bắt ép người xem gồng mình theo mạch phim. Khán giả buông bản thân trôi cùng những diễn biến của nó. Chúng ta phó mặc tất cả quyền định đoạt vào tay người đạo diễn.
    Đó chính là sự tự do.
    White (1994)
    Khi nhắc đến bộ 3 phim Xanh – Trắng – Đỏ, đa phần cả khán giả lẫn giới chuyên môn đều sẽ say sưa ca tụng Đỏ hoàn mỹ, hay như tôi đã nói ở trên: chìm đắm với Xanh mê hoặc. Trắng thường chỉ được đề cập khi câu chuyện đã đi tới điểm kết thúc và mọi người chuẩn bị chuyển sang đề tài khác.
    Nhận xét thật sự công bằng, Trắng không hề có điểm nào hấp dẫn. Khác với 2 câu chuyện còn lại được kể bằng lối ngôn ngữ điện ảnh giàu tính biểu tượng cùng phần kịch bản đậm chất thơ, Trắng khá thô kệch và xấu xí, nó chẳng có những góc máy đẹp khiến khán giả “điếng người” hay các lời thoại sâu sắc. Nhưng điểm thú vị của tác phẩm này nằm ở chỗ: nó khiến người xem bật cười trước sự nhạt nhẽo và tuyệt vọng trong một câu chuyện phi lý tầm phào. Ngay cả cách sử dụng màu sắc phim không quá chặt chẽ như Xanh và Đỏ, khi cứt chim cũng là màu trắng, tuyết cũng là màu trắng, mây trời cũng là màu trắng, váy cưới cũng là màu trắng … lại là lí do khiến tôi thích phần phim này nhất.
    Vì cứ thử nghĩ mà xem, trong Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái, rõ ràng sự bình đẳng luôn là thứ khó đạt đến mức độ hoàn hảo và nó sẽ dễ dàng bị phá hủy chỉ với một tác động nhỏ. Màu trắng ngoài đời cũng thế.
    Việc Krzysztof Kieślowski sử dụng câu chuyện tình yêu có đôi chút ám ảnh bệnh hoạn, lồng ghép cả những yếu tố âm mưu – báo thù, hài hước – châm biếm không khiến Trắng mất đi tính nghệ thuật. Ngược lại, chính sự tầm thường (hay thậm chí cái không khí rẻ tiền) đó lại là điểm đặc biệt nhất, phân tách nó với Xanh và Đỏ.
    Vào giây phút Trắng kết thúc, cân bằng tuyệt đối với phần mở đầu của bộ phim, ai có thể nói rằng nó đã đi sai hướng?
    Red (1994)
    Hãy miêu tả Đỏ ngắn gọn bằng hai từ: hoàn mỹ.
    Mọi chi tiết trong bộ phim này, dù là nhỏ nhất, đều ẩn chứa những ý nghĩa tượng trưng riêng mà sau mỗi lần xem lại nó, bạn không thể thoát khỏi cơn rùng mình ớn lạnh. Ở Đỏ, đạo diễn Krzysztof thích vờn bắt cảm xúc nơi khán giả bằng lối xây dựng nội dung – nhân vật hời hợt, thiếu thông tin và dường như chẳng có chút kết nối chặt chẽ nào. Mọi thứ cứ diễn ra theo một trình tự nửa ngẫu hứng – nửa chỉnh chu, để rồi lao thẳng vào cái kết không thể bất ngờ, lạnh lùng hay đậm chất bác ái hơn.
    Có lẽ chính vì thế, tôi luôn thấy … sợ Đỏ. Dường như Krzysztof Kieslowski không chỉ đặt dấu chấm hết cho The Three Colors Trilogy cũng như sự nghiệp bản thân với Đỏ, mà thậm chí ông đã dự tính mở ra một chương hoàn toàn mới cho lịch sử điện ảnh đương đại, nơi người đạo diễn có thể thách thức tất cả các rào cản đến từ giới phê bình nghệ thuật hay khán giả – những kẻ thích mọi thứ phải được diễn giải rõ ràng theo ý mình.
    Nếu chúng ta đã buông trôi theo cái kết của Xanh, bất ngờ sửng sốt trước cái kết của Trắng, thì cái kết của Đỏ thật sự là cú đánh trời giáng vào sau gáy. Nó choáng ngợp đến khó thở, khiến người xem nhận ra những ý nghĩa cũng như sự vô nghĩa của cuộc đời ngay trong một khoảnh khắc.
    Tôi không thể tóm tắt nội dung của Đỏ. Đó là một công việc quá sức.
    Kỳ thực, tôi xem khá nhiều phim, trong đó cũng có các trilogy để lại ấn tượng sâu sắc. Yêu thích nhất vẫn là series Before Sunrise – Before Sunset – Before Midnight (Richard Linklater), hay chùm phim Việt Nam: Mùi Đu Đủ Xanh – Xích Lô – Mùa Hè Chiều Thẳng Đứng (Trần Anh Hùng), cũng như bộ 3 “báo thù” Sympathy for Mr. Vengeance – Oldboy –  Sympathy for Lady Vengeance (Park Chan Wook).
    Tuy nhiên, một số trilogy lại không được trọn vẹn (theo cách nhìn của tôi), ví dụ như 2046 quả là chông chênh so với 2 phần phim trước đó gồm Days of Being Wild và In the Mood for Love (Vương Gia Vệ). Cũng phải kể đến Noriko trilogy của đạo diễn người Nhật – Yasujirō Ozu – mở đầu với Late Spring và kết thúc bằng Tokyo Story – những bộ phim đều có thể xem là kiệt tác khi đứng riêng lẻ, nhưng chiếc cầu nối ở giữa – Early Summer – dù chẳng hề tệ chút nào – vẫn khiến người xem không khỏi thầm tiếc nuối.
    Còn ở Three Colors: Blue (1993) – White (1994) – Red (1994); Krzysztof Kieslowski đã thực hiện kiểu làm trilogy hoàn toàn mới mẻ: 3 bộ phim, 3 thể loại, 3 phong cách điện ảnh, thậm chí dùng 3 cinematographer khác nhau. Sự liên hệ giữa chúng không đến từ cốt truyện hay nhân vật; mà kết nối, bện xoắn vào nhau bằng những chi tiết cực kỳ tinh vi và nhỏ bé, chỉ nhấn nhá trong cách quay phim, sử dụng màu sắc hay tạo dựng tình huống gợi nhớ …
    Tính đa dạng, phức tạp, hoàn thiện tuyệt vời của nó vượt xa hơn tất cả những ngôn từ mà tôi có thể dùng để miêu tả. Một tác phẩm xứng đáng để được lưu giữ vĩnh viễn về sau.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  22. Một chuyến đi nhưng mở ra hai hành trình: chuyến đi thực tế tiến về phía Tây nước Anh song song với chuyến du hành nội tâm ngược về quá khứ. Tàn ngày để lại (tựa tiếng Anh: The Remains of the Day) chậm rãi dẫn dắt ta bước vào hành trình cuối cùng của nhân vật chính. Ở đó ông nhận ra những ảo tưởng đã tàn phá cả đời người và những niềm luyến tiếc khôn nguôi nhưng không thể vãn hồi.
    Một tuyệt tác tinh tế đậm chất Anh
    The Remains of the Day – với tôi, luôn là một trong những bộ phim tinh tế nhất của điện ảnh Anh quốc, từng nhận 8 đề cử Oscar vào năm 1993 với những tên tuổi tài năng nhất của điện ảnh nước này như đạo diễn James Ivory, diễn viên Anthony Hopkins, Emma Thompson, Christopher Reeve, Hugh Grant.
    Gần 30 năm sau kể từ khi bộ phim này ra mắt, tôi xem lại nó một lần nữa, sau khi đọc bản dịch tiếng Việt của cuốn tiểu thuyết gốc The Remains of the Day (Tàn ngày để lại, An Lý dịch, Nhã Nam & NXB Văn học phát hành năm 2021). Có thể nói, đó là một bản chuyển thể xứng tầm với cuốn tiểu thuyết, vừa tôn vinh và trung thành với giá trị tinh thần của tác phẩm gốc, vừa tạo dựng được một phiên bản điện ảnh có đời sống độc lập.
    Tàn ngày để lại là cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Kazuo Ishiguro, nhà văn người Anh gốc Nhật được yêu thích với những tác phẩm văn chương tinh tế và cách tạo dựng không khí quyến rũ. Cuốn tiểu thuyết này từng đoạt giải thưởng danh giá Booker Prize vào năm 1989. Năm 2017, Kazuo Ishiguro đoạt giải Nobel Văn chương cho toàn bộ sự nghiệp. Tất nhiên, Tàn ngày để lại chiếm một vị trí quan trọng.
    Cuốn tiểu thuyết mở đầu vào mùa hè năm 1956, Stevens – người quản gia lớn tuổi của dinh thự Darlington đi trên chiếc ô tô cũ về phía Tây nước Anh để thăm cô Kenton. Đây là người đồng nghiệp của ông hơn 20 năm trước, nay đã là một người phụ nữ đã có gia đình. Trên chặng hành trình đó, khi cảnh vật của xứ sở sương mù lần lượt mở ra trước mắt, Stevens không ngừng hồi tưởng những năm tháng của quá khứ.
    Ông ám ảnh về người chủ cũ của mình – Huân tước Darlington, một quý tộc người Anh kiểu cũ. Vì ngây thơ, ông đã gây nên những tổn thất to lớn cho nước Anh trong Thế chiến 2, rồi cuối cùng chết trong ô nhục.
    Trong dòng hồi tưởng lần lượt được bộc bạch đó, ta nhận ra nỗi thống khổ của một người đàn ông bị đè nặng bởi trách nhiệm, bổn phận và “phẩm cách” (dignity). Chúng khiến tình yêu của đời ông trôi vụt qua kẽ tay mà không dám níu giữ.
    Cuốn tiểu thuyết thoạt đầu dễ gây nhàm chán bởi những dòng tự sự buồn bã, nuối tiếc về năm tháng hoàng kim. Nhưng dần dần, tác giả đã tạo dựng nên một không khí tinh tế đến mê hoặc về nước Anh của một thời đã mất. Nơi đó, giới quý tộc cổ điển sống với lý tưởng về  phẩm cách mà xã hội đặt ra. Kazuo Ishiguro khiến người đọc xúc động khi nhận ra nỗi luyến tiếc khôn nguôi của nhân vật – cái giá phải đánh đổi cho những ảo tưởng quá vãng.
    Tàn ngày để lại là một cuốn tiểu thuyết đậm chất Anh. Đó là câu chuyện về cuộc đời một con người luôn phải kìm hãm và che giấu cảm xúc, không dám đón nhận tình yêu để sống cho riêng mình. Ông khư khư bảo vệ những giá trị về phẩm cách được cha truyền lại. Kể cả khi ông ta nhận ra những ảo tưởng của đời mình:
    “Phục vụ huân tước tại Dinh Darlington trong những năm ấy là được tới gần trục bánh xe thế giới ở mức cao nhất mà một người như tôi có thể mơ tới. Tôi đã dành ba mươi lăm năm phục vụ Huân tước Darlington; người ta hẳn sẽ không lầm nếu nhận ra rằng trong những năm ấy, mình đã được ‘gắn với một gia đình danh giá’ theo nghĩa đúng đắn nhất của điều này. Nhìn lại quá trình sự nghiệp của tôi cho đến ngày nay, niềm thỏa mãn chính yếu của tôi là ở những thành tựu đạt được trong những năm tháng ấy…” (trích đoạn từ sách Tàn ngày để lại - An Lý dịch)
    Phẩm cách và vẻ đẹp của một thời đã mất
    Những năm cuối thập niên 80 và 90, điện ảnh Anh nổi lên những tên tuổi quyền lực mới có sức lan tỏa vượt ra khỏi biên giới Anh quốc và được cả thế giới ngưỡng mộ. Một trong những tên tuổi sáng tạo nổi bật của giai đoạn đó là đạo diễn James Ivory, đạo diễn chuyên chuyển thể những tác phẩm văn chương mang màu sắc cổ điển về giới quý tộc Anh quốc kiểu cũ thành điện ảnh.
    James Ivory hợp tác với nhà sản xuất Ismail Merchant để thành lập hãng phim Merchant Ivory Productions lừng danh. Tại đây, nhà biên kịch Ruth Prawer Jhabvala chịu trách nhiệm chuyển thể các tác phẩm văn học thành phim.
    Các tác phẩm thành danh trước đó và đoạt nhiều giải thưởng lớn, trong đó có Oscar và Bafta là A Room with a View (1985), Maurice (1987), Howards End (1992). Ba bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn lừng danh E.M. Forster. Bộ ba phim này cũng làm nên tên tuổi cho những diễn viên Anh quốc như Anthony Hopkins, Emma Thompson (bà đoạt giải Oscar nữ chính nhờ Howards End), Hugh Grant và Helena Bonhom Carter…
    Sau bộ phim Howards End với 9 đề cử Oscar và đoạt 3 giải, ê kíp quyền lực này tiếp tục chuyển thể The Remains of the Day của Kazuo Ishiguro thành phim. Thủ vai chính là bộ đôi Anthony Hopkins và Emma Thompson. Bộ phim tiếp tục đưa người xem quay ngược quá khứ, với những giá trị truyền thống cổ điển của nước Anh, những vẻ đẹp và hào quang đã tàn lụi theo thời gian trước một xã hội mới đầy hãnh tiến và thực dụng.
    Và ở đó, bộ phim cũng giúp người xem có cơ hội nhìn ngắm những con người nhỏ bé phải luôn kìm nén những cảm xúc của mình, thậm chí không dám sống cho riêng mình, vì những lý tưởng trong một xã hội kiểu cũ mà họ phải chấp thuận.
    The Remains of the Day phiên bản điện ảnh gần như trung thành tuyệt đối với tác phẩm gốc. Diễn xuất tài tình của bộ đôi Anthony Hopkins (Stevens – quản gia) và Emma Thompson (Kenton – nội quản) giúp người xem hiểu hơn về những giằng xé nội tâm của nhân vật trước những thay đổi của thời cuộc và tình cảm riêng tư của cá nhân họ.
    Bộ phim vẫn được kể lại qua góc nhìn của Stevens, một người quản gia trung thành, tận tụy, đầy nguyên tắc và cứng nhắc. Cả cuộc đời làm nghề của mình, ông ta chỉ hướng tới một giá trị cao nhất, đó là phẩm cách (dignity) nghề nghiệp. Ông tin rằng mình sinh ra để phụng sự cho người chủ nhân và nhất mực bảo vệ những giá trị đó bất kể thời cuộc.
    Và chính vì phẩm cách nghề nghiệp này, Stevens đôi khi rơi vào sự nguyên tắc và máy móc trong hành xử. Khi phục vụ cho một hội nghị chính trị quan trọng tại dinh thự Darlington, Stevens đã không rời nhiệm vụ ngay cả khi cha mình đang hấp hối. Stevens cũng nghe lời chủ nhân cho thôi việc hai cô gái Do Thái nhập cư cho dù biết rằng họ sẽ phải đối mặt với án tử nếu bị trục xuất về nước.
    Cũng vì những giá trị phẩm cách nghề nghiệp đó, Stevens nhất mực từ chối những tình cảm từ phía cô Kenton. Trước một người phụ nữ nồng nhiệt, tình cảm và sẵn sàng thể hiện cảm xúc của mình; Stevens năm lần bảy lượt tìm cớ thoái thác hoặc che giấu nội tâm của mình.
    Một trong những phân cảnh đắt giá nhất của bộ phim là cảnh cô Kenton bước vào phòng của Stevens và dồn đuổi ông ta vào tận chân tường để xem ông đang đọc sách gì. Và khi không thể chống đối được nữa, Stevens buộc phải cho cô Kentons xem. Khi bị phát hiện đó là một cuốn tiểu thuyết tình cảm ướt át, Stevens chữa ngượng rằng ông đọc nó để phát triển vốn từ vựng.
    Phân cảnh đó cho ta biết rằng Stevens cũng là người bình thường như chúng ta, cũng có những tình cảm yêu ghét. Cho dù tình cảm đó bị chèn ép bởi sự cứng nhắc trong cách sống, bởi “phẩm cách” mà xã hội phân cấp áp đặt lên con người.
    Bằng một ngôn ngữ điện ảnh tiết chế, chậm rãi và trầm lắng cùng với diễn xuất nội tâm xuất sắc của Anthony Hopkins, bộ phim đã vẽ nên một nỗi đau câm lặng của nhân vật. Ông nhận ra ảo tưởng đã tàn phá mình, nhưng chỉ biết chấp nhận nó với một trái tim tan vỡ.
    Ở đoạn cuối của chuyến hành trình đến phía Tây của nước Anh là cuộc tái ngộ của hai người đồng nghiệp cũ sau hơn 20 năm.  Phân đoạn này khắc hoạ cái giá đau đớn mà cả hai nhân vật phải trả cho những sai lầm và ảo tưởng của mình.
    “Chúng ta đã làm gì đời mình”, cô Kenton thốt lên trong cuộc chia tay cuối cùng với Stevens, người đồng nghiệp và người quản gia cũ của dinh thự Darlington.
    Còn Stevens, cho dù nhận ra trái tim mình tan vỡ vì những mất mát không thể vãn hồi nhưng vẫn không dám thừa nhận sai lầm. Mọi thứ đã quá muộn, danh dự và phẩm cách là những giá trị cuối cùng còn sót lại để ông tựa vào và sống tiếp những năm tháng cuối cùng của đời mình.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  23. Kubo And Two Strings (2016) - Kubo and Two Strings là một phim hoạt hình được làm theo phong cách stop motion với sự hỗ trợ của công nghệ CGI 3D. Phim là sự hội tụ của yếu tố phiêu lưu, kỳ ảo và ngụ ngôn. Phim do hãng phim Laika sản xuất, với sự tham gia lồng tiếng của dàn sao Hollywood như Art Parkinson, Charlize Theron, Matthew McConaughey, Ralph Fiennes, Rooney Mara và diễn viên Nhật George Takei.
    Phim hoạt hình từ lâu đã là một lãnh địa dành cho tất cả khán giả mọi lứa tuổi, nhưng đây vẫn là thể loại được ưu ái dành riêng để phục vụ cho các bạn nhỏ, nhờ khả năng hình ảnh hóa ước mơ và sự tưởng tượng về một thế giới khác.
    Trước sự chiếm lĩnh của công nghệ làm phim hoạt hình dùng công nghệ CGI 3D trong suốt thập kỷ qua, thì ngày nay, khán giả lại đang có xu hướng muốn nhìn thấy những bộ phim được làm từ bàn tay của con người, một cách chân thật hơn, quay lại với phương pháp thủ công nhiều hơn. Đó là điều kiện đã giúp Kubo and Two Strings của hãng phim hoạt hình stop motion Laika được chờ đợi bởi khán giả khắp thế giới, và được xem là một ứng cử viên nặng ký của Oscar 2017.
    Stop motion là một thể loại phức tạp đòi hỏi sự tỉ mỉ lẫn chính xác trong từng khâu, từ khi chuẩn bị cho đến lúc hoàn tất, mà rất ít hãng phim hoạt hình có thể cam kết sẽ hoàn chỉnh mọi chi tiết trong xuyên suốt thời lượng phim dài. Đổi lại, sự kỳ diệu của stop motion chính là gợi ra cho khán giả câu hỏi đầy ngạc nhiên “Làm thế nào mà họ có thể làm được điều đó?”. Thông thường, một phút trên màn ảnh sẽ mất hơn 20 ngày thực hiện đối với những phim như Kubo and Two Strings, như thế có nghĩa là để có khoảng 100 phút thì ekip phải theo đuổi dự án náy hơn 5 năm ròng, chưa tính khâu chuẩn bị. Stop motion là một nghệ thuật thử thách tính kiên nhẫn và khả năng sáng tạo rất nhiều, hội tụ yếu tố về hội họa, nhiếp ảnh, điêu khắc, múa rối, nghệ thuật trình diễn và sắp đặt… Từng giây, hay từng một phần mười trong giây đều không cho phép xảy ra bất cứ sai sót nào.
    Travis Kight, đạo diễn, đồng sáng lập hãng Laika đã chia sẻ: Máy móc, công nghệ và kỹ xảo hiện tại đều có thể thay thế con người, nhưng không thể làm tốt như con người. Kubo and Two Strings đã dùng công nghệ máy tính để giúp mở rộng thế giới thủ công của các nghệ sĩ. Bộ phim tái hiện một câu chuyện đẹp về lòng dũng cảm và sức mạnh tình thân bằng nghệ thuật xếp giấy origami, từng dây đàn guitar, nghệ thuật sắp đặt và sự kỳ công của stop motion. Nhiều người sau khi xem Kubo and Two strings cho rằng: Bộ phim nên được nhìn nhận là một thiên sử thi về stop motion.
    Câu chuyện diễn ra ở Nhật Bản thời cổ đại, là hành trình đi tìm ba báu vật samurai của cậu bé Kubo (Art Parkinson), dưới sự hỗ trợ của mẹ Khỉ (Charlize Theron), và một samurai người lai bọ cánh cứng (Matthew McConaughey). Ba vũ khí –  thanh kiếm, mũ khiêng và bộ giáp sẽ giúp Kubo tránh khỏi sự truy đuổi của ông ngoại, vua mặt trăng (Ralph Fiennes) và hai người dì song sinh tàn độc (Rooney Mara). Kubo là kết tinh tình yêu giữa một samurai người trần và một phù thủy sống trên mặt trăng. Từ khi mới sinh ra, Kubo đã bị người ông lấy đi con mắt bên phải để tăng thêm sức mạnh. Để bảo vệ và nuôi dưỡng cậu khôn lớn, người mẹ của cậu phải đến một ngôi làng hẻo lánh để trốn thoát khỏi gia đình.
    Tạm gác qua những công nghệ và kỹ xảo làm phim, thì nội dung của Kubo and Two strings là một đề tài gây ra nhiều tranh cãi.
    Một nơi nào đó trong vũ trụ khác, người xem được du hành vào vùng đất thần thoại của một làng quê Nhật Bản và niềm tin của Shinto, một nghi lễ liên quan đến những người đã chết. Ngay từ đầu, bộ phim diễn ra với tiết tấu chậm và yên ổn, là nhịp điệu phù hợp để nói đến cái chết – mà hiện thân là người cha samurai của Kubo. Cái chết trong Kubo được tái hiện như một sự kiện tồn tại đương nhiên, một điều mà bất kỳ đứa trẻ nào cũng nên đối mặt. Chi tiết đó với tôi là một điều thú vị. Làm cách nào để cho mọi đứa trẻ phải đối diện với nỗi buồn và chết chóc? Tuy nhiên, người lớn không thể né tránh điều này, và sẽ không dễ dàng cho một ekip chuyên làm phim hoạt hình. Nó sẽ làm cho những khán giả nhí, những người đã mất đi người thân khi còn bé, sẽ cảm thấy đau nhói vì một phần ký ức đau buồn đang bị chạm đến, điều này có nên không? Không thể có câu trả lời nào đủ chính xác, nhưng sự thật thì vẫn cần được nhìn nhận ở góc độ khách quan của nó. Ký ức về người thân là một điều vô hạn, là một minh chứng sự mong manh của con người. Trẻ con có nên đối diện với điều này sớm hay không? Một cách thẳng thắn, cá nhân tôi cho rằng đây là điều cần thiết.
    Trong khi đó, sự xuất hiện hai người bạn đồng hành của Kubo là mẹ khỉ và samurai bọ cánh cứng lại là yếu tố để tôn vinh tình thân và tình bạn, những thành tố không thể thiếu đối với một đứa trẻ. Tuy nhiên, điểm mạnh và cũng là điều đáng tiếc của Laika ở những phân cảnh tôn vinh tinh thần gia đình giữa ba người. Những bài học về sự trưởng thành được mẹ Khỉ truyền lại cho Kubo chưa được thể hiện nổi bật giữa loạt hành động choáng ngợp trong phim. Vẻ đẹp của lòng can trường, tình đồng đội… những gia vị không thể thiếu trong các phim hoạt hình cũng chưa tạo được sự đột phá trong Kubo and Two Strings. 
    Tuy nhiên, điểm sáng nhất của bộ phim nằm ở phần kịch bản chính là đoạn đối thoại giữa Kubo và ông ngoại của mình, vua mặt trăng. Đây là nhân vật đối trọng với Kubo, là vị thần xuất hiện trong truyền thuyết và đã xuất hiện trong giấc mơ của Kubo. Để gia tăng sức mạnh, ông muốn sở hữu con mắt còn lại của Kubo. Từ chối nhìn vào nỗi đau của nhân loại, tình yêu của con người, vua mặt trăng tự cho mình đã sở hữu một sức mạnh vô song. Tình yêu, với ông, chỉ là sự yếu đuối của con người, là con đường tội lỗi dẫn đến hành vi phản bội của người con gái đầu yêu quý, mẹ của Kubo. Lại một lần nữa, Laika buộc những đứa trẻ phải đối diện trước câu hỏi về sức mạnh bên trong của mỗi người. Địa vị, quyền lực chưa bao giờ là đỉnh cao cuối cùng, chỉ khi nào chạm được đến tình yêu, đến những điều cao quý thì ở đó con người sở hữu một sức mạnh khác, không gì phá hủy được. Ở chi tiết cuối phim, khi Kubo đã chiến thắng vua mặt trăng, ông đã bị mất trí nhớ và người trong làng đã kể lại câu chuyện trước đây, rằng ông là một người tốt, hiền lành và rất hay giúp đỡ mọi người. Câu chuyện đó dẫu cho chỉ là một sự thêu dệt, một phỏng tác, nhưng có thể gợi cảm hứng để ai đó tin mình đã từng là một người tốt. Điều này khiến cho bộ phim được kết thúc một cách nhân văn và khiến cho mọi người yên lòng. Nhưng ở một khía cạnh khác, chi tiết này dẫn đến mâu thuẫn so với chi tiết đầu phim, trong khi đứa trẻ buộc phải nhìn nhận về mặt tối của cuộc sống, thì người lớn có thể ngây thơ tin vào điều tốt đẹp, dẫu chỉ là một câu chuyện được truyền miệng. Kubo and Two strings đã hoán đổi vị trí của hai ý niệm này. Và điều đó khiến cho tôi càng ấn tượng với bộ phim nhiều hơn.
    Nhìn chung, Kubo and Two Strings không chỉ mang vẻ đẹp huyền diệu của phép thuật, mà còn là một tác phẩm kỳ công của stop motion và nghệ thuật kể chuyện gợi cảm hứng sâu sắc cho cả người lớn và trẻ em.
    TỔNG KẾT: Một câu chuyện thú vị đã hoán đổi vị trí của hai ý niệm: một đứa trẻ buộc phải đối diện với sự mất mát, và một người lớn có thể tin rằng mình là người hạnh phúc.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  24. Trong lễ trao giải Quả Cầu Vàng vào ngày 11/1 vừa qua, The Fabelmans (2022) của đạo diễn Steven Spielberg đã xuất sắc vượt qua những “đối thủ” sừng sỏ như Avatar: The Way of Water (2022, của đạo diễn James Cameron) và giành hai giải thưởng cho “Tác phẩm điện ảnh chính kịch xuất sắc nhất” và “Đạo diễn xuất sắc nhất”. Tác phẩm cũng nhận được tới bảy đề cử Oscar năm 2023 và lễ trao giải sẽ diễn ra vào ngày 13/3 theo giờ Việt Nam.

    Bối cảnh bộ phim bắt đầu vào năm 1952, khi cặp vợ chồng gốc Do Thái là Burt và Mitzi Fabelmans dẫn cậu con trai Sammy lần đầu tiên đi xem một bộ phim điện ảnh ngoài rạp chiếu bóng. Sự sợ hãi ban đầu của cậu bé dần được thay thế bởi sự thích thú và tò mò. Dưới sự hướng dẫn và động viên của mẹ, Sammy đã sử dụng máy quay 8mm của bố quay lại cảnh đoàn tàu đồ chơi của mình va chạm với chiếc ô tô như trong bộ phim cậu được xem. Khoảnh khắc khi Mitzi cùng Sammy ngồi trong tủ quần áo và xem những cảnh phim đã được cậu quay dựng, cũng là lúc cô nhận ra tình yêu của Sammy đối với điện ảnh. Đó không chỉ đơn thuần là một thú vui hay một sở thích, mà đó là một niềm yêu thích mãnh liệt, một tình yêu vô bờ của cậu bé với bộ môn nghệ thuật thứ bảy.

    Vốn là một kỹ sư trong ngành khoa học điện tử, Burt Fabelmans – cha của Sammy – đã hướng dẫn cậu những kỹ thuật và quy trình làm phim sao cho hoàn chỉnh. Còn với tình yêu nghệ thuật của Mitzi, đó là những lời ủng hộ và động viên tinh thần. Dưới sự ủng hộ và hướng dẫn của bố mẹ, của một nhà khoa học và một nghệ sỹ, Sammy đã say mê tìm tòi và làm những bộ phim đầu tiên của mình. Để rồi một ngày cậu nhận ra rằng gia đình cậu vốn dĩ đã rạn nứt từ lâu và ai cũng có những nổi khổ tâm riêng trong lòng mình.

    Điện ảnh vốn là sự kết hợp hài hòa giữa khoa học và nghệ thuật. Kể từ khi xuất hiện cho đến nay, mặc dù đã trải qua hơn một trăm năm hình thành và phát triển, song vẫn có những nhà nghiên cứu – phê bình nghệ thuật tranh cãi liệu điện ảnh có phải một bộ môn nghệ thuật hay không. Bởi với họ, nghệ thuật và khoa học là thứ không thể dung hòa được, và cũng bởi nếu thiếu vắng đi khoa học thì điện ảnh sẽ chẳng thể tồn tại. Trong dòng chảy chủ lưu chính thống của nghệ thuật, với sáu bộ môn được công nhận bao gồm: Kiến trúc, Điêu khắc, Hội họa, Thi ca, Âm nhạc và Múa. Sáu bộ môn đó đã tạo nên một vòng tròn khép kín của nghệ thuật kể từ khi con người được sinh ra. Và khoa học, giống như một đường cắt ngang với vòng tròn ấy, tạo ra một mặt phẳng mang tên “Điện ảnh”. Đạo diễn Steven Spielberg đã xây dựng nhân vật Sammy trong tác phẩm The Fabelmans (2022) như một ẩn dụ của nghệ thuật Điện ảnh, một bộ môn nghệ thuật đã lấy khoa học làm gốc và phát triển nên bởi nghệ thuật. Cậu chính là cầu nối về mặt tinh thần của bố Burt – một nhà khoa học, và mẹ Mitzi – một nghệ sỹ; hay nói rộng hơn là cầu nối của khoa học và nghệ thuật.

    The Fabelmans (2022) là bộ phim được Steven Spielberg lấy cảm hứng từ chính cuộc đời và tuổi thơ của mình. Trong suốt những tháng ngày khi còn là một cậu bé hay đến khi đi học, đạo diễn Steven Spielberg luôn tự ti khi mình là một người Do Thái. Đó chính là lý do khiến ông tìm đến điện ảnh, nơi ông có thể thoát ly khỏi cuộc sống thực tế và có những trải nghiệm với những cuộc đời khác nhau. Chính vì vậy, khi làm tác phẩm này, ông đã khóc rất nhiều trên phim trường, khi một lần nữa thấy chính mình trong nhân vật cậu bé Sammy phải đối mặt với việc bị bạn bè bắt nạt tại trường học hay sự đổ vỡ của gia đình. Và chỉ duy nhất tình yêu điện ảnh đã cứu vớt những tháng ngày tồi tệ ấy của Sammy và cũng chính là cuộc đời của đạo diễn Steven Spielberg. 

    Ý tưởng của bộ phim đã được vị đạo diễn bắt đầu từ năm 1999, song bị hoãn lại do nhiều yếu tố khác nhau. Chỉ khi biên kịch Tony Kushner nghe được câu chuyện từ Steven Spielberg, anh đã cùng ông viết nên một bộ phim tuyệt đẹp. Và trái ngược với việc lạnh nhạt với cha suốt 15 năm sau khi cha mẹ ông ly hôn, Sammy đã dũng cảm khi thấu hiểu và thông cảm cho cha mẹ mình. Tác phẩm như một lời tri ân quá cố tưởng nhớ tới cha và mẹ của ông. Đồng thời đó cũng là một lời xin lỗi và sự tha thứ cho những gì mà cha mẹ ông đã làm. 
    Diễn viên sinh năm 2002 Gabriel LaBelle đã có một màn diễn xuất tuyệt vời khi hóa thân thành một phần tuổi thơ của đạo diễn Steven Spielberg. Còn Michelle Williams trở thành linh hồn của bộ phim khi thể hiện nội tâm đầy phức tạp của người mẹ Mitzi. Sự xuất sắc của Michelle Williams đã giúp cô nhận được đề cử Oscar lần thứ năm trong sự nghiệp của mình khi mang tới cho khán giả thấy một góc nhìn khác về hình ảnh người mẹ. Rằng họ luôn yêu thương con cái và gia đình vô điều kiện, nhưng đồng thời cũng bị những ích kỷ của bản thân giằng xé trong tâm hồn. 

    Tuy thất bại tại phòng vé khi chỉ thu được về được hơn 28 triệu dollar – thấp hơn rất nhiều so với kinh phí 40 triệu dollar – song tác phẩm đã nhận được những lời khen từ phía khán giả và những nhà phê bình nổi tiếng. The Fabelmans (2022) được đánh giá là sự đan xen giữa thực tế và tưởng tượng, của tình yêu và sự tha thứ. Và ở tuổi 76, Điện ảnh vẫn là tình yêu được đạo diễn Steven Spielberg nâng niu trong đôi bàn tay của mình. 
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  25. "WarGames" (1983) là một bộ phim khoa học viễn tưởng do John Badham đạo diễn, với Matthew Broderick, Ally Sheedy và Dabney Coleman trong vai chính. 
    Nội dung phim xoay quanh David Lightman (Matthew Broderick), một thiếu niên đam mê máy tính. Trong khi tìm kiếm trò chơi mới, David vô tình xâm nhập vào một hệ thống máy tính quân sự của Mỹ, mà anh tưởng là một trò chơi giả lập. Anh khởi động một trò chơi mang tên "Global Thermonuclear War", khiến quân đội Mỹ tưởng rằng một cuộc tấn công hạt nhân đang xảy ra.
    Khi nhận ra sự nguy hiểm, David cùng với bạn gái của mình, Jennifer (Ally Sheedy), phải tìm cách ngăn chặn cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô trước khi mọi thứ vượt quá tầm kiểm soát. Phim không chỉ mang đến những tình huống hồi hộp mà còn phản ánh những lo ngại về công nghệ, chiến tranh hạt nhân và trách nhiệm của thế hệ trẻ.
    "WarGames" đã trở thành một tác phẩm kinh điển, góp phần định hình những câu chuyện về máy tính và an ninh mạng trong điện ảnh.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted