Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,724 files
-
"The Rules of the Game" (1939) là một bộ phim Pháp của đạo diễn Jean Renoir, diễn ra trong một buổi tiệc ở một trang viên tại nông thôn. Phim xoay quanh những mối quan hệ phức tạp giữa các nhân vật thuộc tầng lớp thượng lưu, bao gồm một nhà quý tộc, một diễn viên, và nhiều nhân vật khác.
Câu chuyện khám phá những quy tắc xã hội và đạo đức trong tình yêu và sự lừa dối, thể hiện sự mỉa mai về đời sống thượng lưu. Thông qua sự châm biếm và tình huống hài hước, phim phản ánh những xung đột giữa con người và xã hội. "The Rules of the Game" được coi là một trong những kiệt tác của điện ảnh, nổi bật với cách kể chuyện tinh tế và hình ảnh sống động.
-
"Decision at Sundown" (1957) là một bộ phim cao bồi theo chân nhân vật Guthrie McCabe, người quyết định tìm kiếm kẻ đã giết vợ mình. Anh đến một thị trấn nhỏ và đối đầu với những cư dân nơi đây, đồng thời phải đối mặt với những xung đột đạo đức và sự trả thù. Bộ phim khám phá chủ đề về công lý, sự tha thứ và cái giá của sự báo thù, mang đến một cái nhìn sâu sắc về tâm lý con người trong bối cảnh miền Tây hoang dã.
-
Anh em Mario lạc đến Vương quốc Nấm, giúp công chúa Peach đối đầu phản diện Bowser trong "The Super Mario Bros. Movie".
Bộ phim là phiên bản điện ảnh lấy cảm hứng từ thương hiệu trò chơi điện tử Mario của hãng Nitendo. Kịch bản xoay quanh anh em Mario và Luigi, những người gặp khó khăn khi quyết định mở công ty sửa ống nước riêng tại Brooklyn (Mỹ). Một lần, khi đang tìm cách sửa hệ thống cống ngầm của thành phố, họ bị hút vào một chiếc ống bí ẩn, dẫn đến vùng đất màu nhiệm.
Mario lạc đến vùng đất tươi đẹp mang tên Vương quốc Nấm, nơi anh gặp người bạn mới Toad và công chúa Peach. Luigi bị đưa đến Vùng đất Bóng tối, nơi vua rùa quái ác Bowser trị vì. Mario đồng ý lên đường cùng công chúa tìm cách chống lại kẻ thù và cứu em trai.
The Super Mario Bros. Movie có kịch bản đơn giản, chủ yếu xây dựng dựa trên trò chơi điện tử.
Ở bản trò chơi điện tử, công chúa Peach bị Bowser bắt và được hai anh em thợ sửa ống nước tìm cách giải cứu. Kịch bản mới có nhiều hướng phát triển câu chuyện hơn, đồng thời xây dựng lên một thế giới hoàn toàn mới, không bị bó hẹp ở Vương quốc Nấm.
Tác phẩm là tập trung vào yếu tố giải trí, phù hợp với khán giả nhỏ tuổi. Bộ phim có màu sắc tươi sáng, hình ảnh đẹp mắt giống nhiều tác phẩm tiền nhiệm của nhà Illumination như Despicable Me, Minions, Sing. Các nhân vật chính được xây dựng với nét tính cách rõ rệt. Mario là người tốt bụng, dũng cảm và không ngại thử thách để chứng tỏ bản thân. Luigi có phần nhút nhát nhưng luôn tin tưởng và yêu thương anh trai.
Công chúa Peach là người lãnh đạo có trách nhiệm, độc lập, dám nghĩ dám làm. Ở bản phim, cô không chờ đợi anh hùng đến cứu, tự lên đường chiến đấu vì số phận của mình. Phản diện Bowser cũng được chấm phá những nét đáng yêu như si tình, mê âm nhạc.
Giống nhiều bộ phim chuyển thế từ game, The Super Mario Bros. Movie dành nhiều thời lượng để tái hiện những hình ảnh, màn chơi của thương hiệu gốc. Trên hành trình của mình, Mario và công chúa Peach chạm trán các nhân vật, đạo cụ quen thuộc như Donkey Kong, Starman hay trò đua xe Mario Kart. Nhưng việc quá tập trung cài cắm các chi tiết của game phần nào khiến kịch bản không đủ đất để phát triển.
Êkíp không giấu tham vọng muốn xây dựng The Super Mario Bros. Movie trở thành một Vũ trụ Điện ảnh mới của hãng, sau thành công của Despicable Me, Sing hay The Secret Life of Pets. Thế giới của Mario còn nhiều vùng đất chưa được giới thiệu chi tiết. Ngoài câu chuyện của nhân vật chính, nhiều khán giả có thể sẽ muốn biết thêm về vương quốc của loài chim cách cụt, khỉ Kong hay rùa Koopas.
Phim nhận nhiều lời khen từ khán giả, đạt điểm trung bình 7,5/10 theo thống kê của IMDb. Hầu hết đánh giá cao tính giải trí và khâu hình ảnh, lồng tiếng của dự án. Tuy nhiên, tác phẩm không chinh phục được giới phê bình, chỉ đạt 53% điểm khen trên tổng 143 bài đánh giả theo thống kê của Rotten Tomatoes. Một số ý kiến chê nội dung phim lỏng lẻo, quá trẻ con và không đặc sắc.
-
Breathless tượng trưng cho sự tự do của Jean Luc Godard trong việc mở ra khả năng vô tận trong việc làm phim, tự do của Michel trong việc chọn hư vô để không bị bất cứ thứ gì của đời sống tầm thường này chi phối, tự do lựa chọn của cô gái Mỹ Patricia khi muốn thử để hiểu mình có yêu không, tự do như chúng ta chọn một phim cũ để xem hòng cảm nhận được nhịp đập của trái tim mình, đồng điệu ra sao với thế giới này.
Những cú chuyển cảnh, những hành động bất cần của Michel (Jean-Paul Belmondo), những bước đi tự tin, độc lập, khuôn mặt cười như không, vui như không, buồn như không của Patricia (Jean Seberg) liên tục hiện ra trước mặt tôi, trên màn ảnh rộng như một bản tấu không theo bất kì nguyên tắc nào, tôi nghĩ nó mang lại cảm giác thích thú và phá cách. Như cách mà làn sóng mới của điện ảnh Pháp đã thổi hồn vào điện ảnh thế giới bằng sự tươi mới, trẻ trung và đi ra ngoài những khuôn khổ gò nén theo công thứ mà Hollywood đang rơi vào lối mòn. Cái phá cách của Jean Luc Godard không mang yếu tố châm biếm, xoá bỏ, nó thay đổi, cải tiến và tạo ra những nhìn mới cho điện ảnh. Chẳng thế mà phim của Godard nếu như làm nhịp chậm lại, chuyển cảnh mượt mà hơn, ta hoàn toàn có thể thấy chân diện của những bộ phim Mỹ từ phong cách ăn mặc, cử chỉ và cách câu chuyện diễn ra. Chính vậy, nên làn sóng mới của Pháp mà những bộ phim tiêu biểu như Breathless (À Bout de Souffle) tạo nên sự ảnh hưởng sâu rộng đến điện ảnh thế giới từ đó về sau.
Breathless kể về một kẻ lông bông, sống với chủ nghĩa hư vô, hắn ta ăn cắp xe, lừa tiền phụ nữ, sẵn sàng làm mọi thứ để sống qua ngày, để tồn tại theo cách hắn thấy phấn khích nhất, là tự do, phá bỏ mọi rào cản, cản bước chân vô ưu của hắn lại. Trong một lần cướp xe, hắn đã giết cảnh sát, kẻ theo đuôi mình. Câu chuyện tiếp diễn bằng những phân đoạn lẩn tránh cảnh sát của hắn, trên đường phố Paris, cùng cô phóng viên người Mỹ có mái tóc tém, khuôn mặt thông minh và yêu hắn.
Hoặc không yêu hắn, và chỉ hắn yêu, hoặc hắn cũng không yêu cho lắm. Máy quay cầm tay đi theo hai người từ đường phố, đến căn hộ nhỏ chật hẹp, từ những cuộc trò chuyện đầy tính hiện sinh, đến những màn ái ân được cắt cảnh chớp nhoáng, chuyển cảnh vội vàng, xoá hết mọi không gian và thời gian, khán giả chìm đắm trong phim, nhịp đôi chân mình theo nhịp cắt và chuyển cảnh như đang chiêm ngưỡng một giai điệu nhạc jazz đầy ngẫu hứng. Có một sự thật thú vị là những cú Jump-cut của phim được thực hiện một phần là do phim ban đầu có thời lượng quá dài nên với tư vấn của Jean-Pierre Melville (đạo diễn và là diễn viên thủ vai tay nhà văn trong phim này của Godard), Godard đã cắt bớt chỗ này chỗ kia nên đã tạo ra những phân cảnh nhảy nhót tuyệt vời như bản phim mà chúng ta được xem.Phim đầu tay của Jean Luc Godard đã thể hiện được rõ ràng phong cách của ông, phong cách mà ông cải tiến, đeo đuổi và sẽ đi theo ông hết cả sự nghiệp của mình, phong cách của một auteur.
Một bộ phim như Breathless sẽ hay ở đâu? nếu bộ phim tiếp cận khán giả đại chúng? Tôi luôn muốn nghĩ xem một bộ phim hay thì hay ở đâu để có thể thể hiện điều đó khi tôi truyền đạt cho người đang đọc những bài viết của tôi. Tôi nghĩ nếu có thể chạm được vào cái sự tự do mà tôi nói ở đầu bài viết, khán giả sẽ thấy phim thật thú vị, như khi Patricia đọc lên câu trích dẫn từ cuốn Cọ Hoang của WIlliam Faulkner “Giữa đau khổ và hư vô, tôi chọn đau khổ”. Tôi nghĩ đa phần sẽ chọn đau khổ, nhưng dù vậy, chọn hư vô cũng chẳng sao, bản chất cuộc sống bất toàn, gì cũng được, sống là được, như cách mà Michel nghĩ, tôi tin vậy.
Xung quanh thời điểm phim ra mắt vào năm 1960, có hai bộ phim khác cũng định hình nên Làn sóng mới được công chiếu là The 400 Blows (1959) của Truffaut và Hiroshima Mon Amour của Alain Resnais (1959).
Bộ phim đang được chiếu rất giới hạn trong khuôn khổ Điểm Hẹn Điện Ảnh Pháp, các bạn theo dõi fanpage French Cinema Rendez-vous để xem lịch chiếu nhé.
-
"Vanilla Sky" (2001) là một bộ phim tâm lý khoa học viễn tưởng xoay quanh nhân vật David Aames, một triệu phú thành đạt nhưng sống trong sự cô đơn. Sau khi trải qua một tai nạn xe hơi nghiêm trọng, anh tỉnh dậy và nhận ra rằng cuộc sống của mình đang rơi vào hỗn loạn, với những giấc mơ và thực tại hòa lẫn nhau. David phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn về tình yêu, sự sống và cái chết, dẫn đến một câu chuyện phức tạp về bản chất của thực tại và tình cảm. Bộ phim khám phá sâu sắc những khía cạnh tâm lý và triết học, và có sự tham gia của Tom Cruise, Penélope Cruz và Cameron Diaz.
-
"The Nutty Professor" (1963) kể về một giáo sư khoa học ngờ nghệch tên Julius Kelp, người phát minh ra một loại thuốc biến ông thành một người hoàn toàn khác, tự tin và quyến rũ, có tên Buddy Love. Khi Buddy trở nên nổi tiếng và thu hút sự chú ý của mọi người, Julius phải đối mặt với những rắc rối do sự thay đổi này mang lại. Bộ phim là một sự pha trộn giữa hài hước và những thông điệp về bản sắc và lòng tự trọng.
-
Được chuyển thể từ light novel thắng giải cao nhất tại Kyoto Animation Award 2014, anime Violet Evergarden đã lên sóng vào năm 2018 và nhanh chóng trở thành một trong những thương hiệu được đánh giá cao nhất của hãng hoạt hình nổi tiếng này. Sau 13 tập phim, 1 OVA, 1 movie đã ra mắt, Violet Evergarden: The Movie (Violet Evergarden: Hồi Ức Không Quên) vừa trình làng đã đánh dấu chặng kết cho hành trình học cách yêu thương của cô “búp bê ký ức” Violet Evergarden.
Hành trình từ “công cụ chiến tranh” thành người trao gửi yêu thương
Lấy bối cảnh một lục địa giả tưởng mang phong cách Châu Âu cận đại đang trong thời kỳ hồi phục kinh tế và hiện đại hóa sau chiến tranh, loạt phim Violet Evergarden xoay quanh một cô gái từng là chiến binh vô cảm khiến nhiều người khiếp sợ nay lui về làm công việc truyền tải tâm tư của người khác qua những lá thư, gọi là “búp bê ký ức”. Vốn là một kẻ chỉ biết chiến đấu và phục tùng mệnh lệnh nhưng bằng việc viết thư giúp người khác, Violet đã tiếp xúc với nhiều số phận, thấm thía nhiều điều kì diệu của thế giới và dần hiển được thế nào là cảm xúc, là yêu thương, cũng như ý nghĩa ba tiếng “Anh yêu em” của Thiếu tá Gilbert trước khi mất tích.
Ở Hồi Ức Không Quên, chiến tranh kết thúc đã nhiều năm, Violet Evergarden đã là một búp bê ký ức dày dạn kinh nghiệm, ngôn từ của cô đã giúp nhiều cảm tình được bày tỏ và chữa lành nhiều tâm hồn. Cuối cùng, Violet cũng hiểu được ý nghĩa của yêu thương, nhưng người dạy cô biết yêu thương - Thiếu tá Gilbert - đã không còn bên cạnh nữa. Những tưởng phải mãi ôm ấp nỗi khắc khoải đó mà sống tiếp nhưng nhờ một lá thư lạ từ đảo xa, hy vọng về sự tồn tại của người đó lại lần nữa trỗi dậy.
Được xem là movie cuối cùng của "thương hiệu" Violet Evergarden, Hồi Ức Không Quên chia thành 2 tuyến nội dung chính đan cài nhịp nhàng với nhau gồm nhiệm vụ giúp cậu bé Yurith bị bệnh hiểm nghèo viết tâm thư cho gia đình và đoạn kết cho mối tình bị ngăn cách của Violet cùng Thiếu tá Gilbert. Phim khéo léo thêm một tuyến phụ ở tương lai nơi cháu gái của người từng được Violet giúp đỡ bắt đầu tìm hiểu về cô nhờ những bức thư bà ngoại để lại. Tất thảy nhằm chú trọng khắc hoạ nhân vật Violet Evergarden với những giá trị tốt đẹp cô đã thu nhận được trong suốt hành trình tái hòa nhập với xã hội hậu chiến: sự chuyên nghiệp, lòng trắc ẩn, ý thức tự do và nhận thức về tình yêu.
Tình yêu, tình thân, tình bạn, những thông điệp không bao giờ cũ và những rung động không bao giờ đủ
Chiến tranh và tình yêu không phải đề tài mới lạ, nhưng Violet Evergarden vẫn thành công khiến bao nhiêu trái tim phải thổn thức. Vốn được đào tạo như một “vũ khí chiến tranh”, Violet bị nhiều người, bao gồm chính cô, xem như công cụ chứ không phải con người. Thiếu tá Gilbert là người đầu tiên dạy dỗ, trân trọng và yêu thương cô như một con người, nên đối với cô anh là thế giới. Lý do Violet tiếp tục sống ban đầu chỉ là vì Gilbert muốn cô sống, nhưng về sau chính những con người, những yêu thương ở thế giới này đã níu chân cô. Hành trình Violet trưởng thành và tự hiểu, tự yêu chính mình là một hành trình truyền cảm hứng, đậm chất nữ quyền và nhân văn.
Violet từ kẻ không hiểu tình yêu trở thành người đi truyền đạt tình yêu. Trong những cánh thư cô viết là tình thương vô bờ người mẹ muốn con gái cảm nhận, là sự áy náy và biết ơn chân thành của cậu con trai đến gia đình, và là tình cảm của chính cô gửi đến người hằng mong nhớ. Loạt phim Violet Evergarden nói chung và Hồi Ức Không Quên nói riêng nhắc nhớ chúng ta về mối liên hệ giữa người với người, giữa người còn sống và người đã ra đi, qua thứ gọi là ký ức và tình cảm.
Không chỉ thế, Hồi Ức Không Quên nói hẹp là câu chuyện của một cặp đôi tìm về bên nhau sau nhiều ngăn cách, nói rộng là công cuộc phục hồi cả thể chất lẫn tinh thần thời hậu chiến, là hành trình con người ta chữa lành thương tổn và tìm lại vị trí của bản thân mình trong cuộc sống, qua đó gióng lên thông điệp phản chiến mạnh mẽ - một thông điệp không bao giờ cũ và không bao giờ là đủ để bỏ qua.
Chú trọng cảm xúc nhưng khai thác dàn trải, khó làm hài lòng khán giả thích kịch tính
Thế mạnh của phim từ Kyoto Animation là “rút nước mắt” khán giả, tiêu biểu như Clannad, Dáng Hình Thanh Âm,. và Violet Evergarden cũng không ngoại lệ. 140 phút phim mang đến nhiều khoảnh khắc đắt giá khiến ai nấy cũng phải rưng rưng ít nhiều. Tuy nhiên 140 phút quả thật là khá dài và trong nửa thời lượng đầu nhịp phim rất chậm, dễ dàng khiến các khán giả thích kịch tính cảm thấy nản chí.
Toàn bộ cao trào dồn vào hơn nửa tiếng cuối phim với nhiều phân cảnh dồn dập đẩy cảm xúc người xem đến đỉnh điểm, nhưng khách quan mà nói đó đều là những sự kiện dễ dàng dự đoán trước nên không đủ thuyết phục khán giả khó tính. Có thể nói Hồi Ức Không Quên phù hợp nhất với những người đã theo dõi series từ trước và chỉ mong muốn thưởng thức những phút giây chậm rãi quan sát nhân vật mình yêu thích tiến dần đến điểm cuối hành trình.
Đồ họa và âm nhạc chỉn chu xứng tầm tựa phim chốt hạ thương hiệu đình đám
Không chỉ bảo toàn được sự chỉn chu xuyên suốt thương hiệu, không ít khán giả cho rằng Hồi Ức Không Quên đẹp đến rung động. Đại cảnh hoành tráng được chú trọng từng chi tiết, chuyển cảnh nhuần nhuyễn, và quan trọng nhất là trong các cảnh khóc, từng biểu cảm nhỏ của nhân vật được tinh chỉnh chân thật và có hồn hơn hầu hết hoạt hình 2D thông thường.
Những cảnh đặc tả nhân vật được Kyoto Animation vô cùng trau chuốt.
Đi kèm với đồ hoạ ấn tượng, âm nhạc trong phim luôn theo hướng nhẹ nhàng, đượm buồn và gợi cảm giác hoài niệm. Ca khúc Will thể hiện bởi giọng ca đặc biệt của TRUE chính là điểm nhấn đặc sắc nhất, bởi lời ca mang hơi hướm những giai điệu xưa cũ, đậm chất tự thuật như phản ánh tâm tư của nhân vật chính.
Việc Violet Evergarden: Hồi Ức Không Quên ra rạp có ý nghĩa lớn với Kyoto Animation trong bối cảnh hãng hoạt hình này vẫn đang xử lý khủng hoảng và thiệt hại sau vụ cháy xưởng phim hồi tháng 7/2019, theo sau là ảnh hưởng của dịch COVID-19. Dù có lúc lan man và xây dựng cao trào còn chưa thật thuyết phục, phim vẫn chiếm cảm tình của nhiều khán giả nhờ lối triển khai đánh vào cảm xúc cùng chất lượng phần nhìn lẫn phần nghe tiệm cận hoàn hảo, thành công lọt vào top 3 anime doanh thu cao nhất năm 2020 tại Nhật. Dẫu chưa hoàn hảo, có thể nói Hồi Ức Không Quên đã hoàn thành tốt nhiệm vụ khép lại hành trình của Violet Evergarden, đánh dấu cái kết tròn trịa cho một series nhân văn về nữ quyền, tình yêu và cuộc sống.
-
"Daughters of Darkness" xoay quanh một cặp đôi mới cưới, Stefan và Valerie, khi họ nghỉ tại một khách sạn ở Bỉ. Tại đây, họ gặp một nữ bá tước bí ẩn, Elizabeth Bathory, người có vẻ đẹp quyến rũ nhưng cũng đầy bí ẩn. Bộ phim kết hợp giữa yếu tố kinh dị và tình dục, khám phá các mối quan hệ phức tạp và sự khát khao.
-
"Wings of Desire" kể về một thiên thần tên Damiel, người quan sát cuộc sống ở Berlin. Anh mơ ước trở thành người phàm để trải nghiệm tình yêu và cảm xúc. Damiel gặp một nữ diễn viên tên Marion và quyết định từ bỏ sự bất tử để sống cuộc sống con người. Bộ phim khám phá chủ đề tình yêu, sự cô đơn và sự kết nối giữa con người.
-
"Time Bandits" theo chân một cậu bé tên Kevin, người bị cuốn vào cuộc phiêu lưu với nhóm những tên cướp thời gian. Họ sử dụng một cánh cửa thời gian để du hành qua các thời kỳ lịch sử, đối mặt với nhiều nhân vật nổi tiếng và cuối cùng đối đầu với một thế lực tối tăm. Bộ phim là một sự pha trộn giữa hài hước và giả tưởng, khám phá những khái niệm về thời gian và cuộc sống.
-
Bộ phim xoay quanh và biến đổi nhiều lần so với người lái xe say rượu trên đường cao tốc trên núi, mà chỉ không dẫn đến tai nạn điện ảnh thảm khốc. Ứng cử viên Mãn Châu là người rất sâu sắc, mãnh liệt và lạnh lùng, đặc điểm mà nó chỉ chia sẻ với một bộ phim khác đã được phát hành trong năm nay, một bộ phim kinh dị chính trị, Spartan của David Mamet . Đạo diễn Jonathan Demme phát triển như một con phượng hoàng từ tro tàn sau lần cố gắng cuối cùng của mình trong một bộ phim làm lại, sự bép xép của Charade trong The Truth About Charlie . Demme đã trở lại!
“The Hollywood Remake Machine” có hiệu quả đầy đủ trong bộ phim kinh dị chính trị mùa hè The Manchurian Candidate , dựa trên bộ phim 1962 và tiểu thuyết cùng tên của Richard Condon. Hàng năm có một bộ phim nổi bật giữa toàn bộ máy tính được tạo ra và hoopla tổng cộng ra khỏi các rạp chiếu phim từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa hè này, Ứng cử viên Manchurian chỉ là bộ phim đó.
Thuyền trưởng Ben Marco (Denzel Washington) bị “Hội chứng Chiến tranh vùng Vịnh”. Thậm chí mười ba năm sau lần thực hiện nhiệm vụ ban đầu, anh vẫn cảm thấy một số hiệu ứng. Trung sĩ Raymond Shaw (Liev Shreiber) phục vụ dưới quyền thuyền trưởng Marco tại Kuwait và được trao Huân chương danh dự của Quốc hội vì lòng dũng cảm của mình dưới sự tấn công của địch. Bây giờ anh ta là một nghị sĩ từ New York, người đã bị ném vào hỗn hợp để ứng cử Phó Tổng thống, nhiều làm sự thích thú của Thượng nghị sĩ nhẫn tâm vô tâm của một người mẹ (Meryl Streep). Vấn đề là, trong quá trình vận động chiến dịch của mình, thuyền trưởng Marco khám phá ra một sự thật sâu sắc và đen tối như những gì đã thực sự xảy ra khi cả hai đang trong trận chiến.
Thoát khỏi sự bão hòa của Công nghệ của Công ước Quốc gia Dân chủ, bộ phim này làm giảm sự quan tâm của bạn và giữ đúng với nước Mỹ hiện đại. Tất nhiên tôi thành thật nghi ngờ John Kerry có một cấy ghép trong đầu của ông, nhưng Bush mặt khác, .. .. cũng là câu chuyện khác cho một thời gian khác trên một trang web khác. Về mặt chính trị, bộ phim này nằm ngay giữa, như thể là quan điểm của một người khi đi vào rạp hát. Tuy nhiên điều ác chính là các chính trị gia trong bộ phim này, Không có dấu hiệu của một swing trái hoặc phải (ngay cả với Al Franken bật lên theo thời gian). Vì vậy, nếu bạn đang bị bệnh và mệt mỏi của tất cả các cuộc bầu cử này mumbo jumbo, đừng lo lắng này flick không có preachy. Nó là thực thể riêng của nó.
Thay vào đó là những sự thiên vị về chính trị, nó mang lại những câu chuyện kể và những màn trình diễn nổi bật làm cho bộ phim này rạng rỡ giữa tất cả những “bộ phim bom tấn” khác mà chúng ta đã thấy từ trước đến nay. Giống như những gì Magneto đã nói với Pyro vào mùa hè năm ngoái là X2: X-Men United , “Bạn là một vị thần trong số côn trùng”, tôi muốn nói rằng về Ứng cử viên Manchurian .
Bộ phim xoay quanh và biến đổi nhiều lần so với người lái xe say rượu trên đường cao tốc trên núi, mà chỉ không dẫn đến tai nạn điện ảnh thảm khốc. Ứng cử viên Mãn Châu sâu, dữ dội, và xương lạnh, Đặc điểm mà nó chỉ chia sẻ với một bộ phim khác đã được phát hành trong năm nay, một bộ phim chính trị khác, Spartan của David Mamet . Đạo diễn Jonathan Demme phát triển như một con phượng hoàng từ tro tàn sau lần cố gắng cuối cùng của mình trong một bộ phim làm lại, sự bép xép của Charade trong The Truth About Charlie . Demme đã trở lại! Sáng rực rỡ, nếu không sáng sủa hơn cú đấm của ông vào đầu những năm 90 với The Silence of the Lambs và Philadelphia .
Denzel làm những gì anh ta có thể làm tốt nhất; Miêu tả một người lính Mỹ / cựu chiến binh có những vấn đề chính. Nhưng nó ổn. Tôi không đánh anh ta. Hầu hết các diễn viên khi họ chơi, những vai diễn tương tự bị mất dần cường độ, mất đi mưu đồ, và sau đó mất kiên nhẫn. Nhưng đây là Denzel. Anh ấy có thể đóng vai trò này một nghìn lần và bạn vẫn có cảm giác mê hoặc từ đầu đến cuối. Giống như Denzel, “Eleanor Shaw” của Streep là tuyệt vời. Cô đã có những màn biểu diễn rộn rã nhất trong sự nghiệp của mình, ăn cắp tất cả các cảnh (như hầu hết các nhân vật phản diện khác) bằng ân huệ tuyệt vời. Xem Streep và Schreiber cùng nhau làm tôi suy nghĩ về cuộc trò chuyện giữa Norman Bates và mẹ anh ta trong phim Tâm lý . Schreiber một lần nữa chứng tỏ mình có thể treo cổ với những chàng trai lớn, chỉ có vấn đề là lần cuối cùng anh “treo” để lại anh ta treo trên quả cầu Sphere . Nhưng hiệu suất thực sự nổi bật của bộ phim thuộc về Jeffrey Wright. Wright là nhân vật hoạt hình sống động nhất hiện nay. Trong những gì bình thường sẽ là một vai trò ném bóng trong bất kỳ bộ phim khác, Hai phút của anh trong phần đầu của bộ phim này thiết lập thanh cho những gì sẽ đến cho phần còn lại của thời gian chạy của nó.
Tôi hoàn toàn hiểu được bị hút vào hiện tượng bom tấn mùa hè. Địa ngục, tôi bị hút trong bản thân mình. Nhưng giữa cuộc cạnh tranh hào nhoáng, Ứng cử viên Manchurian là bộ phim thông minh nhất để xem mùa hè này.
-
Rain Man, với sự góp mặt của hai ngôi sao kỳ cựu Dustin Hoffman và Tom Cruise, thắng 4 giải tại Oscar lần thứ 61: Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Nam chính xuất sắc nhất và Kịch bản gốc xuất sắc nhất.
Tiếp theo trong danh sách “Oscar lật lại” là Rain Man, với sự góp mặt của hai ngôi sao kỳ cựu Dustin Hoffman và Tom Cruise. Phim thắng 4 giải tại Oscar lần thứ 61, ở các hạng mục quan trọng là Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Nam chính xuất sắc nhất (dành cho Dustin Hoffman), và Kịch bản gốc xuất sắc nhất.
Bộ phim xoay quanh một anh chàng môi giới xe ô tô Charlie Babbitt (Tom Cruise), vừa nhận được tin cha mình đã qua đời, nhưng chỉ để lại cho anh ta một chiếc xe cũ và những bụi hoa hồng. Toàn bộ số tài sản còn lại trị giá $3 triệu được để lại cho một người nhận giấu tên đang sống ở một bệnh viện. Charlie phát hiện người đó là Raymond Babbitt (Dustin Hoffman), anh trai mà Charlie chưa bao giờ biết có tồn tại trên đời, đặc biệt hơn Raymond còn là người mắc chứng tự kỷ. Charlie nổi giận và quyết định “bắt cóc” Raymond để đòi phân nửa số tiền thừa kế.
Charlie là dân kinh doanh, đang rơi vào thời điểm khó khăn. Anh nghiện công việc, chỉ quan tâm đến tiền, ưa nổi nóng và không thể chịu đựng được Raymond, luôn mồm gọi Raymond là thằng ngốc, thằng khùng. Ở cạnh Raymond thật “khó nuốt” đối với Charlie.
Raymond sợ thay đổi, sống theo một thời gian biểu cứng ngắc, đi ngủ lúc 11 giờ, mặc đồ ở K-Mart, thích lặp đi lặp lại câu nói trong một tác phẩm hài mặc dù không hiểu bộ phim đang nói gì, anh cũng dễ bị hoảng loạn khi gặp tiếng động lớn và không thích đi máy bay. Nhưng dù mắc chứng tự kỷ, Raymond có trí nhớ siêu phàm, có khả năng tính toán và ghi nhớ các con số ở mức thiên tài.
Qua thời gian, càng tiếp xúc với anh mình, Charlie càng lúc càng trở nên hiểu và quý mến anh mình hơn. Anh phát hiện ra Raymond chính là người bạn Rain Man khi nhỏ mà anh cứ nghĩ do mình tưởng tượng ra. Charlie chưa bao giờ biết rằng mình có một người anh và vì một tai nạn khi nhỏ xảy ra với Charlie nên Raymond bị cách ly và đưa đến bệnh viện. Anh quyết định chăm sóc và ở cạnh Raymond, cả hai đã có khoảng thời gian rất vui vẻ bên nhau.
So với mặt bằng chung của các phim Oscar thì Rain Man có phần đơn giản do sở hữu cốt truyện không mấy phức tạp. Nhưng chính sự giản dị và gần gũi đã mang nhiều cảm xúc và những vấn vương nhẹ nhàng, khiến người ta phải suy nghĩ. Đề tài này rất quen thuộc không chỉ riêng ở điện ảnh Âu Mỹ, mà còn đặc biệt được khai thác rất nhiều lần ở điện ảnh Hàn.
Nhưng có một điều tôi thích ở những bộ phim Âu Mỹ làm đề tài này là nó không quá bi lụy, không ép nước mắt khán giả. Suốt bộ phim, bạn không cần phải rơi một giọt nước mắt nào mới có thể thấy cảm động. Mọi thứ đều được dẫn dắt nhẹ nhàng qua diễn xuất, qua những tình huống gần gũi. Rain Man không cố trở thành một phim kinh điển, không cố tạo ra những tình tiết phi thường, không có kết thúc như mơ khi cả hai anh em được đoàn tụ, vì nó thật, nó đời, nên nó đẹp.
Trung tâm của phim không phải là Tom Cruise như nhiều người lầm tưởng, mặc dù trong phim, anh là nhân vật xuất hiện đầu tiên. Trung tâm của phim là Dustin Hoffman với vai một người đàn ông tự kỷ, người không chỉ làm thay đổi Charlie Babbitt, mà còn thay đổi cả cảm xúc của người xem. Đối với khán giả nào từng tiếp xúc với người tự kỷ, sẽ thấy Dustin Hoffman đã có một màn trình diễn tuyệt vời, rất thực.
Một khuyết điểm mà nhiều diễn viên thể hiện vai này hay mắc phải đó là biểu hiện “quá kịch”, nhưng ở Dustin Hoffman, người ta thấy một vẻ chân thành và bị lôi cuốn vào chính bộ phim, chứ không đặt ra rào cản, giữa màn ảnh và bản thân người xem phim.
Nhân vật Raymond không khiến người ta thấy khó chịu, mà thấy vừa tội, vừa đáng yêu, đúng với hình ảnh một đứa trẻ trong một thân hình to xác. Còn Tom Cruise dù không nổi bật bằng, nhưng vẫn thể hiện đúng vai trò của mình. Thực lòng thì tôi thích những vai diễn thế này của anh hơn là những vai hành động gần đây. Những vai thế này giúp anh thể hiện được nhiều cung bậc cảm xúc, giúp người xem thấy được nhiều gương mặt và biểu cảm của anh hơn.
Rain Man không có điểm móc để kéo khán giả vào câu chuyện, mà sử dụng lối dẫn dắt nhẹ nhàng, đưa người xem hòa vào bộ phim, sở hữu thông điệp về những giới hạn. Giới hạn của bản thân Raymond khi không thể thoát khỏi thế giới bó buộc trong góc nhìn của một người tự kỷ, giới hạn của Charlie khi mãi đem theo ánh mắt tiêu cực về người cha của mình, không thể yêu thương nổi Raymond khi biết một người chẳng nhận thức được rõ ràng về thế giới xung quanh lại được thừa hưởng số thừa kế $3 triệu.
Nhưng rồi, cả hai nhân vật đều học được ở nhau cách vượt qua những giới hạn đó. Raymond học cách làm nhiều thứ hơn chỉ đơn thuần là ăn ngủ, đọc danh bạ và xem TV. Anh biết ăn nhiều món ăn ngon hơn, tiếp xúc với nhiều người hơn. Raymond được khám phá thế giới xung quanh, được học khiêu vũ, được hôn một cô gái. Charlie học được cách yêu thương, biết chăm sóc anh mình nhiều hơn, và biết quan tâm đến nhiều thứ khác hơn là tiền.
Cuối phim, trái với suy nghĩ của nhiều người là mong mỏi hai anh em được đoàn tụ, cuối cùng Raymond phải trở về bệnh viện, còn Charlie thì không giành được quyền nuôi anh nhưng có để lại lời hứa là sẽ đến thăm. Dù đối với nhiều khán giả thì cái kết này không mấy trọn vẹn và vẫn còn dang dở, nhưng ngẫm lại đây vẫn là một cái kết thực tế nhất mà Rain Man có thể mang lại cho khán giả.
-
"Mallrats" (1995) là một bộ phim hài do Kevin Smith viết kịch bản và đạo diễn, đánh dấu phần tiếp theo trong vũ trụ điện ảnh của anh. Phim xoay quanh hai chàng trai, Brodie (Jason Lee) và T.S. (Jeremy London), những người đang trải qua một khoảng thời gian khó khăn trong tình yêu và quyết định dành thời gian ở một trung tâm thương mại.
T.S. vừa bị bạn gái chia tay và đang tìm cách giành lại tình cảm của cô, trong khi Brodie cũng đang gặp rắc rối với bạn gái mình. Hai chàng trai cùng nhau lang thang trong trung tâm thương mại, nơi họ gặp gỡ một loạt nhân vật kỳ quặc và trải qua những tình huống dở khóc dở cười.
Phim khám phá các chủ đề về tình yêu, tình bạn và những thử thách trong tuổi trẻ, cùng với những tình huống hài hước liên quan đến văn hóa đại chúng. Các nhân vật phụ bao gồm những người làm việc tại trung tâm thương mại và những tín đồ cuồng nhiệt của văn hóa truyện tranh, tạo nên những khoảnh khắc hài hước và thú vị.
"Mallrats" nổi bật với phong cách đối thoại nhanh nhẹn và châm biếm, cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân vật từ các bộ phim trước đó của Kevin Smith, đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại hài hước của thập niên 90.
-
Năm người đàn ông và một phụ nữ không hề quen biết gặp nhau trong một kho hàng hóa tại ngoại ô Paris. Nhiệm vụ của họ là đoạt lấy chiếc vali nhỏ chứa đựng một thứ bí mật. Năm người đàn ông chính là những cựu binh của cuộc chiến tranh lạnh sinh sống nhờ dịch vụ bí mật do họ hùn vốn làm ăn. Còn người phụ nữ Ireland thì lại tỏ ra thiếu kinh nghiệm. Trong một thế giới nơi mà sự trung thực bị đem ra mua bán và sự phản bội là phong cách sống, thì một hạng người khủng bố mới, giết người không ghê tay xuất hiện. Cuộc chiến tranh lạnh có thể đã kết thúc, nhưng lại tạo nên một nhóm giết thuê bí mật mà những tay chuyên nghiệp vốn là những cựu binh họp lại cùng hành động với nhau. Họ thực hiện những công việc kiểu ...
-
"Creepshow" (1982) là một bộ phim kinh dị do George A. Romero đạo diễn và Stephen King viết kịch bản. Bộ phim được chia thành năm câu chuyện ngắn, mỗi câu chuyện mang một yếu tố kinh dị khác nhau và được nối kết bằng một khung truyện xoay quanh một cuốn truyện tranh.
Bộ phim kết hợp yếu tố hài hước đen tối và kinh dị, mang đến những thông điệp sâu sắc về sự báo thù, sự ám ảnh và sự trả giá cho những hành động của con người. Với phong cách hình ảnh giống như truyện tranh, "Creepshow" đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại kinh dị.
-
Cuộc sống viên mãn sau cuộc chiến khốc liệt
Sau cuộc chiến khốc liệt với “Người Trời”, bộ tộc Omaticaya dưới sự lãnh đạo của Jake Sully và Neytiri đã nhanh chóng phục hồi và cùng nhau tận hưởng những tháng ngày yên bình tại mảnh đất rừng núi xinh đẹp ở hành tinh Pandora.
Jake Sully và Neytiri trở thành vợ chồng và tình yêu của họ nhanh chóng kết trái ngọt. Gia đình nhà Sully lần lượt chào đón những thành viên mới - gồm con trai cả Neteyam, con trai thứ Lo'ak, con gái út Tuk và cô con gái nuôi Kiri.
Những tưởng những ngày tháng yên bình sẽ tồn tại vĩnh hằng trên hành tinh xinh đẹp này, thế nhưng một “ngôi sao xa” mới xuất hiện - Ánh sáng được tạo ra do những phi thuyền không gian đang giảm tốc trên bầu trời vào một đêm nọ đã giáng một “cơn sóng dữ” vào cuộc sống viên mãn của tộc người Na’vi.
“Người Trời” quay lại trả thù
Với công nghệ tối tân, nhân loại đã tiến hành tạo ra những “bản sao” của chính mình bằng cách chuyển giao kí ức của cơ thể cũ sang một cơ thể mới mang hình dáng của người Na’vi. Phương pháp này giúp tăng sức chiến đấu khi họ vừa thừa hưởng vóc dáng cao lớn, khả năng nhanh nhẹn của người Na’vi vừa thông thạo cách sử dụng những vũ khí tối tân. Đội quân “Người Trời” quay trở lại Pandora gieo rắc đầy rẫy tội ác để trả thù.
Rời khỏi quê hương
Dưới sự truy lùng gắt gao của đội quân “Người Trời”, để tránh gây ra những đau thương cho con người và mảnh đất nơi bộ tộc Omaticaya đang sinh sống, gia đình Sully dù đau đớn nhưng vẫn phải lựa chọn rời khỏi quê hương, đi tìm một chỗ dừng chân mới. Nơi họ đến là những hòn đảo giữa lòng đại dương Pandora - nơi thủy tộc Metkayina đang sinh sống.
Thích nghi và học cách sinh tồn
Việc bản thân là người thuộc bộ tộc Na’vi - vốn là tộc người phát triển để thích nghi với môi trường rừng núi trên cạn, thậm chí những đứa trẻ của gia đình Sully còn là con lai đã khiến việc hòa nhập vào cuộc sống và thói quen với người thủy tộc Metkayina trở nên khá khó khăn.
Những đứa trẻ của gia đình Sully đều đã bắt đầu lớn, mỗi người đều mang những tính cách và suy nghĩ khác nhau, khi phải rời xa chốn thân quen đặt chân đến nơi xa lạ, thậm chí còn bị chế giễu khiến chúng trở cảm thấy lạc lõng và bất an.
Thế nhưng bởi được nuôi dạy từ hai chiến binh cừ khôi và đầy quả cảm, kế thừa ý chí mạnh mẽ và lòng can đảm từ “nhị vị phụ huynh”, những đứa trẻ nhà Sully nhanh chóng thích nghi và học được cách sinh tồn dưới lòng biển sâu dù vấp phải đầy khó khăn, trở ngại.
Đại dương Pandora - Kỳ quan thiên nhiên khó gặp
Khi đã thích nghi với cuộc sống dựa vào đại dương, những đứa trẻ nhà Sully đã kết giao với nhiều người bạn mới. Những cuộc khám phá dưới lòng đại dương kỳ vỹ cùng với vô số loài sinh vật biển đẹp đẽ đã khiến những người vốn là “người rừng” dần yêu mến vùng biển này.
Mỗi đứa trẻ đều có một mối liên kết đặc biệt với đại dương, nhưng dù bằng cách gì, chúng đều nhận lại được tình yêu và sự đáp lại đầy dịu dàng từ biển cả.
Cuộc chiến vì gia đình, hảo hữu và quê hương
Câu chuyện được đẩy lên cao trào khi kẻ thù cũ của Jake Sully đã hạ sát những sinh vật biển huyền thoại gắn liền với đời sống tinh thần của thủy tộc Metkayina để dụ gia đình Sully lộ mặt.
Mọi chuyện trở nên rắc rối hơn khi hắn bắt được những đứa con của Jake Sully để đe dọa và uy hiếp anh quy hàng. Cuộc chiến một lần nữa nổ ra giữa tộc người trên Pandora và “Người Trời”, và lần này có sự giúp sức của những sinh vật biển huyền bí, xinh đẹp, kỳ vĩ và mạnh mẽ.
-
Vào năm 2154, Tập đoàn RDA đang khai thác một loại khoáng sản có giá trị tên là unobtanium tại Pandora, một mặt trăng có hệ sinh thái rừng rậm có thể sinh sống được quay quanh Polyphemus, một hành tinh khí khổng lồ nằm trong chòm sao Alpha Centauri. Pandora, nơi có bầu không khí độc hại đối với con người, là nơi sinh sống của người Na’vi, cao khoảng 3 m, có da màu xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Họ sống hòa hợp với thiên nhiên và tôn thờ Mẹ vĩ đại Eywa. Để tìm hiểu về người Na’vi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng các cơ thể người lai Na’vi gọi là Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh bởi những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully, một cựu lính thủy đánh bộ bị liệt hai chân được gọi đến để thay thế người anh sinh đôi là một nhà khoa học được huấn luyện để trở thành một Avatar nhưng đã bị giết chết trong một vụ cướp. Tiến sĩ Grace Augustine, người đứng đầu chương trình Avatar, nghĩ rằng Jake là một người thay thế không thích hợp và phân công anh làm vệ sĩ. Trong khi bảo vệ các bản thể Avatar của Grace và nhà khoa học Norm Spellman trong chuyến thám hiểm nhằm thu thập một số mẫu vật sinh học và dữ liệu về rừng, bản thể Avatar của Jake đã bị tấn công bởi một loài động vật ăn thịt gọi là thanator. Khi bỏ chạy để giữ mạng sống, Jake lạc mất hai người kia và đi lang thang trong rừng. Neytiri, một cô gái người Na'vi, vô tình gặp Jake và bất đắc dĩ giải cứu anh khỏi đám động vật hoang dã về đêm. Nhìn thấy những điềm báo từ Eywa, cô đã đưa anh đến gặp gia tộc của mình tại Cây thần; ở đây, Jake gặp cha của Neytiri, tộc trưởng Eytukan. Mo'at – mẹ của Neytiri, thủ lĩnh tâm linh của cả bộ tộc – đã ra lệnh cho con gái của bà dạy cho "người trời" cách sống của người Na’vi.
Người chỉ huy Sec-Ops, Lực lượng An ninh riêng của RDA, Đại tá Miles Quaritch, hứa với Jake rằng công ty sẽ giúp anh có lại đôi chân nếu anh thu thập thông tin về người Na’vi. Cây thần là nơi giàu khoáng vật unobtanium nhất trong khoảng một trăm dặm. Khi Grace biết được Jake đã đưa thông tin cho Quaritch, cô đã tự động di chuyển cùng Jake và Norm đến một tiền đồn xa hơn. Qua ba tháng, Jake đã trở nên gần gũi với Neytiri và người dân Pandora. Sau khi Jake được kết nạp vào bộ tộc, anh và Neytiri chọn nhau làm bạn tình. Jake đã lộ ra sự thay đổi về lòng trung thành khi anh cố gắng phá hỏng một chiếc xe ủi của Lực lượng An ninh. Khi Quaritch cho Giám đốc điều hành Parker Selfridge, người lãnh đạo tập đoàn RDA, xem một đoạn video nhật ký của Jake, trong đó anh thừa nhận rằng người Na’vi sẽ không bao giờ từ bỏ Cây thần, Selfridge đã ra lệnh phá hủy Cây thần. Với những lý lẽ của Grace cho rằng phá hủy Cây thần có thể ảnh hưởng đến hệ thực vật và mạng lưới thần kinh mà mỗi người dân Pandora đều được truy cập, Selfridge đã cho Jake và Grace một giờ đồng hồ để thuyết phục người Na’vi sơ tán. Khi Jake thú nhận nhiệm vụ ban đầu của mình, Neytiri buộc tội anh phản bội toàn bộ bộ tộc, rồi bản thể Avatar của Jake và Grace bị trói và nhốt lại. Lực lượng của Quaritch bắt đầu bắn phá Cây thần, giết cha của Neytiri và những người dân vô tội khác. Mo’at liền trả tự do cho Jake và Grace, nhưng họ lại bị ngắt kết nối với bản thể Avatar, bị trở lại trụ sở RDA và bị giam giữ. Trudy Chacón, một phi công ghê tởm với cách thức tàn bạo của Quaritch, đã giải cứu họ và đưa họ đến tiền đồn để kết nối với bản thể Avatar. Trong khi cả nhóm trốn thoát, Quaritch đã bắn và để lại vài vết thương cho Grace.
Người Na’vi vốn có sẵn mối liên kết với một vài động vật. Để lấy lại lòng tin của người Na’vi, Jake đã mạo hiểm để liên kết với Toruk, một quái thú săn mồi dạng rồng biết bay cực kỳ mạnh mẽ mà người Na'vi vô cùng kính sợ và tôn sùng và trong lịch sử chỉ có năm người thuần hóa được nó để trở thành Toruk Makto. Jake tìm thấy những người tị nạn tại Cây linh hồn và cầu xin Mo’at cứu Grace. Cả bộ tộc cố gắng chuyển linh hồn Grace từ cơ thể của cô vào bản thể Avatar với sự trợ giúp của Cây linh hồn, nhưng cô không chịu nổi vết thương và đã chết – "về với Eywa". Được hỗ trợ bởi tộc trưởng mới của Omaticaya, Tsu'tey, Jake tuyển dụng hàng ngàn chiến binh từ các bộ tộc láng giềng để chống lại lực lượng của Quaritch. Vào đêm trước trận đánh, Jake thay mặt người Na’vi cầu nguyện với Eywa, thông qua kết nối với Cây linh hồn. Quaritch phát hiện ra việc huy động quân của người Na’vi và thuyết phục Selfridge ủy quyền cho ông ta tổ chức một trận đánh phủ đầu, tấn công Cây linh hồn, tin rằng việc phá hủy nó sẽ làm người bản địa mất tinh thần.
Người Na’vi đã tổ chức cuộc phản công nhưng cũng chịu tổn thất rất nặng nề, Tsu’tey và Trudy đã hi sinh. Khi đang tuyệt vọng, những động vật hoang dã đột nhiên tham gia trận đánh và áp đảo phe "người trời", Neytiri cho rằng Eywa đã đáp lại lời nguyện cầu của Jake. Jake phá hủy một tàu con thoi chở bom trước khi nó đến chỗ Cây linh hồn. Quaritch đã thoát khỏi con tàu chỉ huy trước khi nó nổ tung và khoác vào người bộ giáp robot AMP. Ông ta tình cờ tìm thấy tiền đồn kết nối bản thể Avatar nơi cơ thể con người của Jake đang nằm, làm Jake ngộ độc bởi bầu khí quyển độc hại. Neytiri sau đó giết Quaritch và kịp thời đến bên Jake để cứu mạng anh. Cả hai khẳng định tình yêu của mình khi lần đầu tiên Neytiri thấy cơ thể con người của Jake. Với ngoại lệ là Jake, Norm, Max Patel và một số nhà khoa học khác, tất cả người Trái Đất đều bị trục xuất khỏi Pandora. Jake mặc bộ đồ tượng trưng cho tộc trưởng Omaticaya. Cả bộ tộc đã thực hiện nghi lễ riêng biệt cho Eywa để chuyển linh hồn Jake sang bản thể Avatar của anh.
-
**The Maltese Falcon** (1941) là một bộ phim hình sự kinh điển do John Huston đạo diễn, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Dashiell Hammett. Phim có sự tham gia của Humphrey Bogart trong vai thám tử tư Sam Spade.
Câu chuyện xoay quanh Sam Spade, một thám tử làm việc tại San Francisco, người bị lôi cuốn vào một vụ án phức tạp khi một phụ nữ bí ẩn tên Brigid O'Shaughnessy (Mary Astor) tìm đến nhờ giúp đỡ trong việc tìm kiếm một bức tượng quý giá—một con đại bàng Maltese. Cô ta nói rằng nó đã bị đánh cắp và đề nghị Spade điều tra.
Khi Spade bắt đầu cuộc điều tra, anh gặp phải nhiều nhân vật đáng ngờ, bao gồm các tội phạm khác nhau, tất cả đều muốn có được bức tượng. Tình huống càng trở nên rắc rối khi Spade nhận ra rằng Brigid không hoàn toàn trung thực và có nhiều bí mật giấu giếm.
Phim nổi bật với những tình huống căng thẳng, sự hồi hộp và phong cách noir đặc trưng. **The Maltese Falcon** được coi là một trong những bộ phim đầu tiên của thể loại noir và đã để lại ảnh hưởng lớn đến điện ảnh sau này. Nó cũng mang lại cho Bogart một trong những vai diễn biểu tượng nhất trong sự nghiệp của ông.
-
Phụ nữ là tạo vật phức tạp, họ cãi vả với nhau, họ hoảng sợ cùng nhau nhưng sau tất cả, đó là một tình bạn đẹp và một tinh thần nữ quyền mạnh mẽ.
Ra mắt cách đây gần 30 năm nhưng tác phẩm Thelma & Louise (Câu Chuyện Của Thelma Và Louise) của đạo diễn Ridley Scott vẫn có sức hút với khán giả đại chúng hiện nay. Khi lần đầu được công chiếu 1991, Thelma & Louise gây tiếng vang khi nhận được 6 đề cử Oscar (thắng hạng mục Kịch bản gốc xuất sắc) và giành được nhiều giải thưởng tiếng tăm khác.
Thelma & Louise là câu chuyện về hai cô bạn thân cùng nhau lên đường cho kỳ nghỉ câu cá nhưng mọi chuyện dần trật khỏi đường ray với những tai nạn ngoài ý muốn. Xuyên suốt bộ phim, tâm lý nhân vật biến chuyển theo những tình huống oái ăm và khi dồn vào bước đường cùng, hai người phụ nữ nhận ra đâu mới là lý tưởng sống, niềm hạnh phúc thật sự. Dù chủ nghĩa nữ quyền xuyên suốt bộ phim nhưng nữ biên kịch Callie Khouri đã lồng ghép một cách khéo léo giúp người xem không quá ngộp hay cảm thấy rỗng tuếch như vài phim ngày nay. Khouri rất thông minh khi mượn những yếu tố thời cuộc làm bối cảnh chính và phát triển nhân vật thay vì hô hào một thông điệp quá cao siêu hoặc vô nghĩa. Chính những tình huống thực tế và góc nhìn chân thật về phụ nữ đã ghi điểm với khán giả. Bất kỳ ai cũng cảm thấy những điều họ làm là rất đỗi hợp lý dù bất hợp pháp và nguy hiểm. Trong một giai đoạn khi phụ nữ quá mất niềm tin vào xã hội, quá bị áp bức, họ có quyền chọn cho mình một con đường riêng và không đáng bị phán xét. Đặt bản thân vào tâm lý những người phụ nữ không thể quay đầu, liệu có một cách giải quyết nào đó tốt hơn?
Ngay từ những giây phút đầu tiên của Thelma & Louise, khán giả thấy rõ hai nhân vật nữ chính đều muốn bức khỏi sự tù túng của một lối sống thường ngày. Nếu Louise (Susan Sarandon) quá chán nản với người bạn trai suốt ngày biệt tăm, Thelma (Geena Davis) cũng không khá khẩm hơn với người chồng chỉ biết ra lệnh mà không quan tâm cô nghĩ gì. Cả hai người phụ nữ đều muốn tìm một lối thoát, nhưng họ chỉ nghĩ đơn giản là kỳ nghỉ câu cá trên núi. Mở đầu tưởng chừng như nhàm chán nhưng càng theo dõi, khán giả càng bị cuốn hút vào câu chuyện phiêu du không điểm dừng của Thelma và Louise.
Thoạt xem, khán giả có thể nghĩ đây là hai người phụ nữ đầy phiền toái, một Louise cứng đầu và một Thelma thiếu chính kiến. Đúng là họ phiền toái thật đấy, nhưng khán giả sẽ tìm thấy bản thân trong những sự phiền phức của hai người phụ nữ này. Xuyên suốt phim là những bài hát đậm chất đương đại (phim ra mắt vào đầu thập niên 90), nhưng mỗi bài hát đều được trích vài câu hát sao cho phù hợp với hành trình của họ, dù mới lăn bánh, đó cũng hàm ý chạy trốn; hay như ca từ khi rung động với người lạ nhưng báo trước một nguy hiểm cận kề.
Bắt đầu cuộc hành trình, hai người phụ nữ ăn vận thận đẹp đẽ, Louise với phong cách cá tính và Thelma tiểu thư. Cả hai đều chọn lối trang điểm đậm cùng màu son sặc sỡ chứng tỏ bản thân. Họ cùng nhau rong đuổi trên chiếc xe mui trần của Louise, nghêu ngao những giai điệu vô tổ chức. Không ít ý kiến cho rằng mọi chuyện bắt đầu khi Thelma sa vào vòng tay của người đàn ông xa lạ, bị cưỡng hiếp và Louise bắn phát súng kết liễu tên khốn ấy. Thật chất, mọi chuyện bắt đầu khi các cô gái của chúng ta gom đồ và bước lên hành trình ấy. Không còn một Louise với công việc bồi bàn phát chán, cũng chẳng có bóng dáng Thelma nghe lời chồng. Khi Thelma gom khẩu súng, mấy ai nghĩ đó là giây phút quyết định của đời cô?
Vô tình trở thành tội phạm, họ bối rối, họ chạy trốn và rồi họ vẫn chạy trốn đến những phút cuối cùng của bộ phim nhưng cuộc đời họ đã được định đoạt bởi chính họ. Đến tận bây giờ, cái kết của phim vẫn gây tranh cãi nhưng theo ý kiến cá nhân của người viết, đó là một cái kết đẹp khi hai người phụ nữ hôn nhau, cùng nhau nắm tay và lao xe khỏi vách đá. Phụ nữ là tạo vật phức tạp, họ cãi vả với nhau, họ hoảng sợ cùng nhau nhưng sau tất cả, đó là một tình bạn đẹp và một tinh thần nữ quyền mạnh mẽ.
Phải chăng, khán giả muốn có một cái kết rằng Thelma và Louise sẽ quay đầu? Phải chăng cảnh sát sẽ cho rằng họ vô tội và Thelma thật sự bị cưỡng hiếp và đó chỉ là hành động tự vệ? Không! Tất nhiên là không! Cuộc đời luôn đầy rẫy những sự bất công, dù là trong bất kỳ thời điểm nào. Ở giai đoạn thập niên 80-90, phụ nữ vẫn bị xem thường dữ dội, không ai tin một nạn nhân bị cưỡng hiếp, đặc biệt khi cô ấy tay trong tay, nhảy múa thân mật cùng tên biến thái mà cô chưa hề hay biết. Sẽ có cảnh sát nào chịu tin họ chứ? Sẽ có luật pháp nào chở che cho hai người phụ nữ phạm tội giết người, cướp có vũ trang, bắt cóc cảnh sát và bắn nổ chiếc xe tải lớn? Và phụ nữ chỉ có thể che chở lẫn nhau, đó cũng là lý do vì sao kỳ nghỉ êm đềm của Thelma và Louise ngày càng trở nên xáo động, dù là lỗi lầm của ai, họ cũng bên nhau tới cuối đường. Không mấy ngạc nhiên khi cô hầu bàn quán bar cũng bao che cho hai người phụ nữ chạy trốn. Thật thú vị khi biên kịch lồng ghép vấn đề giữa cảnh sát và người da màu một cách hài hước và tinh tế. Vẫn còn đó thanh tra Hal Slocumb thấu hiểu họ nhưng ông không thể làm gì để ngăn chặn một đoàn xe cảnh sát vũ trang được huy động để rượt đuổi hai người phụ nữ chân yếu tay mềm. Suy cho cùng, “luật pháp chỉ là trò đùa nhảm nhí.”
Thật khó để xác định Thelma hay Louise là nhân vật có tâm lý phát triển hay ho hơn. Diễn xuất của Sarandon và Davis rất tài tình, họ thật sự sống cùng nhân vật và người viết tin chắc rằng, bản thân hai diễn viên đều trải qua những cảm xúc tương tự nên đem tới màn trình diễn xuất sắc như thế.
Louise vốn được xây dựng là người phụ nữ cứng cỏi nhưng thật ra cô cũng có những giây phút thật yếu đuối và sup sụp. Từng là nạn nhân của một vụ cưỡng hiếp, Louise trót hành động mất bình tĩnh nhưng cô vẫn là người sáng suốt, không để bạn thân phải gặp bất kỳ bất trắc nào. Có thể ví von Louise chính là phượng hoàng tái sinh từ tro tàn. Và Thelma cũng là một phượng hoàng mạnh mẽ không kém gì Louise. Thelma chính là hình mẫu kinh điển cho nữ giới mẫu mực trong gia đình khi giỏi vâng phục chồng, dễ sa ngã vì thiếu kinh nghiệm xã hội. Tuy nhiên, Thelma rất giỏi sửa sai lầm và chính cô là người đưa ra những quyết định quan trọng cho cuộc đời họ. Hình ảnh Thelma quan sát kính chiếu hậu khi bánh xe liên tục tiến về phía trước không phải vì cô quan ngại cảnh sát theo đuôi. Trái lại, Thelma biết cuộc đời họ vĩnh viễn không thể quay đầu. Gai góc và mềm mỏng, hai thái cực của hai người phụ nữ ấy liên tục thay đổi và bổ sung cho nhau.
Bản năng của phụ nữ thật sự được bộc lộ khi họ không còn gì để mất, nguy hiểm cứ thế lôi cuốn họ và Louise lẫn Thelma đều nhận ra rằng bản thân đều rất thích thú trước những điều như thế. Khi giằng xé giữa tự do là cái chết với sự sống đồng nghĩa với tù túng, họ biết phải làm gì. Thật khôi hài khi hai người phụ nữ cùng nhau bàn chuyện tương lai khi trước mặt họ là cái chết không thể nào tránh được.
Đã 27 năm trôi qua, nhưng những giá trị vô hình cùng thông điệp nữ quyền và tự do vẫn còn nguyên vẹn. Đặc biệt, phim có những câu thoại vô cùng xuất sắc và được lồng ghép một cách thông minh. Người viết xin trích dẫn vài câu mà bản thân tâm đắc để khép lại bài viết:
Trong tương lai, khi một người phụ nữ khóc sướt mướt như thế, rõ ràng cô ấy không vui vẻ chút nào! (Louise mắng tên hiếp dâm Thelma)
Mày dám hành xử như thế với những phụ nữ mày không quen biết sao? Mày cảm thấy thế nào nếu có kẻ hành xử như thế với mẹ mày? Với chị em gái mày? Hay là vợ mày? (Thelma và Louise đối diện tay lái xe tải có những hành động thô thiển với họ)
Cuộc đời mình có thể bị huỷ hoại còn tệ hơn bây giờ. Ít ra, mình đang vui vẻ bên cậu. (Thelma tâm sự với Louise khi họ đã mang quá nhiều trọng tội)
Louise, dù có chuyện gì xảy ra, mình rất vui khi rong đuổi cùng cậu.
-
**The Night of the Hunter** (1955) là một bộ phim kinh điển do Charles Laughton đạo diễn, dựa trên tiểu thuyết của Davis Grubb. Phim kể về câu chuyện của một kẻ lừa đảo tôn thờ tôn giáo, Harry Powell (do Robert Mitchum thủ vai), người vừa ra khỏi tù và tìm kiếm một kho báu giấu kín.
Harry kết hôn với Willa Harper (Shelley Winters), mẹ của hai đứa trẻ, John và Pearl, sau khi nghe rằng chồng cô đã giấu 10.000 đô la trước khi bị bắt. Khi phát hiện ra rằng Willa không biết về số tiền đó, Harry trở nên tàn nhẫn và giết cô. Hai đứa trẻ, nhận thấy nguy hiểm, đã chạy trốn và tìm cách bảo vệ bản thân khỏi kẻ ác độc này.
Bộ phim nổi bật với phong cách hình ảnh độc đáo và âm hưởng cổ điển, thể hiện cuộc chiến giữa thiện và ác. Từ những cảnh quay mãn nhãn đến diễn xuất ấn tượng của dàn diễn viên, "The Night of the Hunter" đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử điện ảnh và thường được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại kinh dị.
-
**The Longest Yard** (1974) là một bộ phim hài-drama do Robert Aldrich đạo diễn, với Burt Reynolds trong vai chính. Câu chuyện xoay quanh Paul Crewe, một cựu ngôi sao bóng đá bị ngồi tù vì tội tham nhũng.
Trong nhà tù, Crewe bị buộc phải tổ chức một trận bóng đá giữa đội tù nhân và đội lính canh. Anh tập hợp các tù nhân, gồm nhiều nhân vật độc đáo, để tạo thành một đội bóng mạnh mẽ. Mục tiêu không chỉ là giành chiến thắng mà còn là tìm cách đoàn kết và khẳng định tinh thần của những người bị giam cầm.
Bộ phim khai thác các chủ đề như tình bạn, sự tha thứ và khả năng đứng lên chống lại áp bức. Với nhiều pha hài hước và cảm động, "The Longest Yard" đã trở thành một tác phẩm kinh điển, phản ánh đời sống trong nhà tù và tình yêu đối với thể thao.
-
**The Last Starfighter** (1984) là một bộ phim khoa học viễn tưởng xoay quanh câu chuyện của Alex Rogan, một thanh niên sống ở một thị trấn nhỏ. Alex dành thời gian chơi một trò chơi arcade có tên "Starfighter," mà anh không biết rằng nó thực chất là một công cụ tuyển dụng cho một chương trình không gian thực.
Khi Alex đạt được điểm số cao nhất, anh được một người ngoài hành tinh tên là Centauri mời tham gia vào một cuộc chiến chống lại lực lượng xấu trong vũ trụ. Alex nhận ra rằng trò chơi mà anh đã chơi là một mô phỏng thực tế và giờ đây anh phải trở thành một chiến binh thực thụ để bảo vệ hành tinh khỏi sự xâm lược.
Bộ phim không chỉ khám phá hành trình phiêu lưu của Alex trong không gian, mà còn thể hiện các chủ đề về sự trưởng thành, tình bạn, và việc tìm kiếm bản thân. Sự kết hợp giữa công nghệ tiên tiến và những hiệu ứng hình ảnh độc đáo của thời kỳ đó đã giúp bộ phim trở thành một tác phẩm cổ điển trong thể loại khoa học viễn tưởng.
-
Review Dungeons & Dragons: Honor Among Thieves (Ngục Tối Và Rồng: Danh Dự Của Kẻ Trộm): bộ phim kể về trò chơi nhập vai nổi tiếng Dungeons & Dragons, thường hay xuất hiện và được nhắc đến trong các bộ phim của Mỹ và gần nhất là trong loạt phim Stranger Things. Và Dungeons & Dragons: Honor Among Thieves đã lý giải cho sự phổ biến mạnh mẽ của trò chơi này khi giới thiệu một thế giới giả tưởng hấp dẫn, với rất nhiều nhân vật đa dạng, những thú vui khi lập kế hoạch, khám phá và thu thập những vật phẩm để tăng sức mạnh…
Với những người có biết về trò chơi này, bạn nhanh chóng bị cuốn vào việc phân tích những địa danh, những nhân vật, các câu thần chú… trong khi cười một cách hài lòng với phong cách kể chuyện hài hước, thông minh. Với những khán giả không biết đến trò chơi nhập vai nổi tiếng này thì ngược lại, bạn chạy theo hành trình thú vị của các nhân vật và dần khám phá những điểm hấp dẫn của Dungeons & Dragons.
Nội dung của Dungeons & Dragons: Honor Among Thieves: lấy bối cảnh ở Forgotten Realms (Vương quốc bị lãng quên : là một phần của thế giới hư cấu trong trò chơi, được mô tả là thế giới của những vùng đất xa lạ, những sinh vật nguy hiểm và những vị thần hùng mạnh, nơi ma thuật và các hiện tượng siêu nhiên là hoàn toàn có thật). Cốt truyện chính xoay quanh nhân vật Edgin Darvis do Chris Pine thủ vai và hành trình anh thành lập nhóm trộm của mình.
Câu chuyện bắt đầu khi Edgin Darvis, một cựu thành viên của giáo phái Harpers đã từ bỏ lời thề của mình sau khi vợ anh bị lính của phù thủy Đỏ sát hại. Niềm an ủi còn sót lại của Edgin Darvis là cô con gái Kira (Chloe Coleman). Edgin Darvis làm mọi chuyện để kiếm sống và nhờ đó anh tạo nên một nhóm trộm nghiệp dư bao gồm Holga Kilgore khỏe mạnh, phù thủy vụng về Simon Aumar, tên trộm gian xảo Forge Fitzwilliam (Hugh Grant).
Trong một nhiệm vụ mà có thể lấy cắp được một thẻ bài giúp hồi sinh người vợ đã mất, Edgin Darvis đã lên kế hoạch hành động nhưng phi vụ thất bại. Cuối cùng anh và Holga Kilgore bị bắt gần hai năm, để tìm lại con gái, cả hai đã lên kế hoạch vượt ngục. Tuy nhiên khi đối diện với hiện thực, bị Forge Fitzwilliam (Hugh Grant) phản bội và cô con gái thì hiểu lầm. Edgin Darvis tiếp tục một kế hoạch trộm cắp lớn hơn với thành viên mới là người hóa thú Doric và Xenk Yendar một hiệp sĩ đến từ tộc Thay để lấy lại những gì đã mất.
Ngay khi phát hành Dungeons & Dragons: Honor Among Thieves đã nhận được những đánh giá khá tích cực từ những người hâm mộ trò chơi. Hầu hết các nhân vật và cốt truyện xoay quanh cuộc đời của Edgin Darvis đều được mô tả một cách chi tiết và bám sát tinh thần cốt lõi của trò chơi (dù vẫn có những thay đổi trong thiết lập sức mạnh của những thành viên băng trộm).
-
**Drowning by Numbers** (1988) là một bộ phim của đạo diễn Peter Greenaway, nổi bật với phong cách hình ảnh độc đáo và cốt truyện phức tạp. Phim xoay quanh ba người phụ nữ, đều mang tên C, sống trong một thị trấn nhỏ. Họ quyết định giết chồng của mình để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt.
Cốt truyện bắt đầu khi mỗi người trong số họ thực hiện một vụ giết người và sau đó tìm cách giấu xác. Họ dần dần lôi kéo một nhân vật khác, một thanh tra, vào các trò chơi và bí ẩn của mình. Phim khám phá các chủ đề về cái chết, tình dục và sự vật lộn với sự nhàm chán trong cuộc sống.
Phong cách kể chuyện của Greenaway được thể hiện qua những khung hình nghệ thuật, sự chú ý đến chi tiết, và các yếu tố như con số và hình ảnh tượng trưng, tạo nên một trải nghiệm điện ảnh sâu sắc và đầy ý nghĩa. Phim thường được coi là một tác phẩm nghệ thuật hơn là một câu chuyện truyền thống, khiến người xem phải suy ngẫm về ý nghĩa của nó.
-
**Star Trek: First Contact** (1996) là bộ phim điện ảnh thứ tám trong loạt phim **Star Trek** và là phim thứ hai với sự tham gia của đoàn làm phim **Star Trek: The Next Generation**. Phim do Jonathan Frakes đạo diễn và có sự góp mặt của dàn diễn viên chính như Patrick Stewart, Jonathan Frakes và Alice Krige.
Câu chuyện bắt đầu khi các Borg, một chủng tộc máy móc nổi tiếng trong vũ trụ Star Trek, tấn công và cố gắng xâm chiếm Trái Đất. Captain Jean-Luc Picard (Patrick Stewart) và phi hành đoàn của USS Enterprise-E được giao nhiệm vụ ngăn chặn sự xâm lược này.
Để làm điều đó, họ phải du hành ngược thời gian về năm 2063, thời điểm mà con người lần đầu tiên tiếp xúc với một chủng tộc ngoài hành tinh—Vulcans—sau khi con tàu Phoenix của Zefram Cochrane (James Cromwell) thực hiện chuyến bay đầu tiên vượt qua tốc độ ánh sáng. Mục tiêu của Picard là bảo vệ sự kiện này và đảm bảo rằng nó diễn ra như đã định, trong khi phải đối phó với sự tấn công của Borg.
Bên cạnh những pha hành động gay cấn, phim cũng khám phá các chủ đề về nhân loại, sự hy sinh và tầm quan trọng của việc kết nối giữa các nền văn minh. **Star Trek: First Contact** được đánh giá cao bởi những khía cạnh hấp dẫn và nội dung sâu sắc, và đã trở thành một trong những bộ phim được yêu thích nhất trong loạt Star Trek.