Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,724 files
-
"Get Out Your Handkerchiefs" (tiếng Pháp: "Les Valseuses") là một bộ phim hài của Pháp ra mắt năm 1978, do Bertrand Blier đạo diễn. Nội dung phim xoay quanh cuộc sống của hai nhân vật chính, Jean-Claude và Pierrot, những người trẻ tuổi sống buông thả và tìm kiếm sự tự do trong tình yêu và cuộc sống.
Câu chuyện bắt đầu khi Jean-Claude, một người đàn ông chán nản với cuộc sống và tình cảm, quyết định cùng với bạn thân Pierrot lên đường tìm kiếm những trải nghiệm mới. Họ gặp gỡ một cô gái tên là "Mimi" và tạo thành một mối quan hệ phức tạp giữa ba người, xen lẫn giữa tình yêu, ham muốn và những vấn đề về bản sắc.
Bộ phim nổi bật với các chủ đề về tình dục, tự do cá nhân và những mối quan hệ phức tạp giữa con người, đồng thời cũng mang đến những khoảnh khắc hài hước và những tình huống éo le. Với cách tiếp cận táo bạo và châm biếm, phim đã gây tiếng vang lớn và trở thành một tác phẩm nổi bật trong điện ảnh Pháp.
-
"That Man from Rio" (original title: "L'Homme de Rio") is a 1964 French film directed by Philippe de Broca. It stars Jean-Paul Belmondo as Adrien Dufourquet, a young man whose fiancée, Agnès, is kidnapped while they are in Brazil.
The plot unfolds as Adrien embarks on a thrilling adventure to rescue her, leading him through various exotic locations and encounters with criminals and treasure hunters. The film combines elements of comedy, action, and romance, with a playful tone and a focus on the charm and ingenuity of its protagonist.
The film is known for its inventive action sequences and vibrant cinematography, showcasing the beauty of Brazil. It also incorporates elements of farce and features a light-hearted, adventurous spirit that became a hallmark of Belmondo’s performances. Overall, "That Man from Rio" is a classic of the French New Wave, blending humor with a sense of adventure.
-
Bộ phim “Lãnh địa cảm xúc” (In the realm of the sense) luôn được xếp vào những bộ phim về tình dục gây tranh cãi nhất. Việc bộ phim bị cấm chiếu ở Nhật và vì nó đạo diễn Nagisa Oshima phải đối diện với tòa án khiến đây vẫn là đề tài hấp dẫn nhưng cũng đầy thách thức. Bài viết này lựa chọn một điểm trong bộ phim – cái nhìn dục tình – để bàn luận về quan điểm về tình dục xuyên suốt sự nghiệp điện ảnh của Oshima: “Ta không thể tách chúng (tình dục và chính trị – chú thích) thành hai vấn đề riêng biệt. Đây là những vấn đề tương đương nhau” (Oshima, Trích theo Joan Mellen, Voices from the Japanese cinema, Liveright, 1975, tr 271).
“Cái nhìn” (gaze) trong nghiên cứu điện ảnh ngụ ý đến mối quan hệ giữa những cái nhìn diễn ra trong bộ phim: khán giả – thế giới phim, các nhân vật trong thế giới phim đó với nhau, cũng như những quan hệ phức tạp hơn: quá trình khán giả đồng nhất mình với nhân vật trên màn hình về vai xã hội và tham gia vào cơ chế của các quan niệm giới tính, đạo đức. Trong “In the realm of the sense” chúng ta dễ dàng nhận ra “cái nhìn dục tình” tồn tại thành một mạng lưới: ở những cảnh đầu tiên là cái nhìn trộm cảnh vợ chồng Kichizo làm tình của Sada, sau đó là một loạt những cái nhìn dục tình khác nhau của vợ Kichizo, cô hầu phòng trẻ ở quán trọ, những người geisha già, và cái nhìn đã tồn tại về hiện tượng Sada Abe trên báo chí Nhật Bản trong đoạn flashback cuối phim. Những cái nhìn dục tình này không chỉ dừng lại ở vai trò kích thích cảm xúc của người nhìn và người được nhìn mà quan trọng hơn chúng được sử dụng theo lối phản thân: đạo diễn sẽ phơi bày những cơ chế tồn tại trong cái nhìn: sự áp đặt của đạo đức cộng đồng, sự kiểm duyệt của văn hóa – chính trị. Nói cách khác, bộ phim của Oshima mang tính khiêu khích, thách thức những giới hạn đối với Tính dục.
Để hiểu hơn mục đích này, chúng ta cần quay lại một chút về bối cảnh điện ảnh Nhật Bản nói chung và của Oshima nói riêng vào thập niên 50-70. Tadao Sato trong “Currents in Japanese cinema” gọi cuộc cách mạng điện ảnh mà Oshima và các đạo diễn cùng thế hệ với ông như Shohei Imamura, Suzuki Hami là “làn sóng tình dục” (sexual wave). Nhà phê bình người Nhật đi vào lý giải nguyên nhân “các đạo diễn (như Shohei Imamura, Nagisa Oshima, Suzuki Hami…- chú thích) đã sử dụng sex để diễn đạt thông điệp của họ”. Theo ông, họ “cố gắng nắm bắt bản chất của những cảm nhận nằm sâu bên trong tâm lý con người. Hơn nữa, những vấn đề nhân bản nền tảng, như mối quan hệ giữa giai cấp thống trị và bị trị, cầm quyền và nô lệ, sự hoà hợp và đối đầu, tự do và cô độc, đều có thể được nhìn thấy bên trong quan hệ tình dục giữa nam và nữ. Những vấn đề này luôn luôn được xác định trong hoàn cảnh xã hội hoặc chính trị và được luận giải phù hợp” (Tadao Sato (Trans. Gregory Barrett), Currents in Japanese cinema, Kodansha internetional, 1982, tr 232 – 233).
Cái nhìn dục tình, như đã nói ở trên, chứa đựng một áp lực mạnh mẽ với cơ thể tình dục, quan hệ tình dục. Mối quan hệ giữa Sada và Kichizu phải diễn ra lén lút và thường trực trong Sada cảm giác khó chịu, ghen tị, bức bối với người vợ của người tình. Cái nhìn của vợ Kichizu là cái nhìn mang sức nặng đạo đức, qui ước pháp luật, là cái nhìn kích hoạt sự tự kiểm duyệt của Sada và Kichizu. Với riêng Sada, đó còn là cái nhìn thôi thúc khát vọng bạo lực của nàng khi nhận ra ở đó sự sở hữu, sự tước đoạt người tình. Cái nhìn dục tình vừa đem lại cảm giác được hiện diện vừa đem lại cảm giác bị loại trừ. Vai trò chủ thể vừa được hợp thức hóa lại vừa bị phế truất, gạt bỏ. Sada và Kichizu phải di chuyển sang một không gian khác, nơi mà chỉ có họ nhưng dường như Sada cũng không thể thoát khỏi lực trường của cái nhìn người vợ Kichizu. Bằng chứng là nàng và Kichizu vẫn tiến hành nghi lễ hôn nhân trước sự chứng kiến các geisha. Như thế tình dục chưa bao giờ là câu chuyện cá nhân mà nó thường xuyên có sự can thiệp, đan xen những dạng thức diễn ngôn để điều chỉnh cá nhân đi vào hệ thống. Ý tưởng này đã được thể hiện đầy đủ trong bộ phim The ceremony (Nghi lễ) trước đó.
Trong không gian quán trọ, hai nhân vật bước vào cuộc phiêu lưu tình ái triền miên nhằm kiếm tìm thoả mãn, tròn đầy về tình dục. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy hậu cảnh hầu như bị xoá bỏ. Khuôn hình lấp đầy da thịt cùng đống chăn gối, quần áo bộn bề, nhàu nát. Dụng cụ để dàn cảnh và diễn viên sử dụng là thức ăn, ruợu nhằm thoả mãn nhiều đường kênh cảm nhận xác thịt hơn. Cả hai nhân vật di chuyển trong không gian khép kín với mong muốn đắm mình vào thế giới tình dục muôn màu sắc: tình dục không chỉ được khai thác ở xúc giác mà còn là vị giác. Xã hội chia tách con người theo cái nhìn nhị nguyên tinh thần/ thể xác chứa đựng ý niệm phân tầng: tinh thần cao quí hơn thể xác và thể xác, nhục dục là hạ cấp, nhơ nhớp, sai trái. Văn hoá chứa đựng hệ thống quan niệm, định kiến khiến chúng ta nảy sinh ý thức về tính bất hợp lý, không đúng đắn của chính bản thân mình. Được ủng hộ bởi một hệ thống đồng bộ giáo dục, y tế…, nó hợp pháp hoá, tự nhiên hoá nỗi ám ảnh kiểm duyệt cơ thể. Sada và Kichi vươn đến việc xoá huỷ mọi ước lệ văn hoá khoác lên cơ thể. Ngôn ngữ họ giao tiếp với nhau là cơ quan cảm giác, “hệ thống tín hiệu thứ nhất” và lớp từ vựng thiên về diễn tả cảm nhận của tri giác. Và vì thế tình dục của họ thực sự thách thức những cái nhìn dục tình khác. Cần kể đến ở đây là cái nhìn dục tình của cô hầu phòng trẻ. Thái độ kinh ngạc xen lẫn ngại ngùng và có phần kì thị những táo bạo tình dục của đôi tình nhân chính là hệ quả của cuộc va chạm mà Oshima muốn đem lại cho bộ phim của mình: sex và đạo đức, chính trị, để từ đó người ta nhận ra vấn đề Tự do. Oshima từng đưa ra câu hỏi của mình trước tòa: “chẳng phải Nhật Bản là một trong những đất nước tiên tiến? chẳng phải Nhật Bản là bộ phận của thế giới tự do? Tự do không phải là một trong những nguyên lý nhân tính phổ quát, bao gồm trong đó là tự do diễn đạt tình dục sao?”
Sada và Kuzichi thường xuyên mỉa mai, trêu chọc thái độ ngượng ngùng đó, thứ ngượng ngùng “khiêu dâm”. Khi người ta cho phép chiếu “In the realm of the sense” nhưng phải cắt bỏ một số đoạn thì ông nói: “bằng việc cắt và che đậy, các ông làm bộ phim thuần khiết của tôi trở nên bẩn thỉu”. Bởi vì cách làm đó chẳng khác nào biến phim của Oshima thành phim khiêu dâm. Mục đích phim của ông, một phần thể hiện qua hệ sự va chạm các cái nhìn dục tình, là đặt vấn các cấm kị (taboo) và giới hạn lên Tình dục. Chính vì thế một phần tự sự nổi bật là nỗi hoang mang của Sada, là màu sắc ảm đạm ngày càng rõ rệt ở cuối bộ phim. Mặc dù cả Sada và Kichi làm tình khép kín trong không gian của riêng họ, bỏ quên dòng chảy cuộc sống bên ngoài nhưng họ vẫn không thể vượt thoát được thân phận lịch sử của mình. Biểu hiện cao nhất cho giới hạn này là cái chết: Sada thiến hoạn thi thể người tình. Một cú cận cảnh hành động cắt và một cú toàn cảnh từ trên cao Sada cầm dương vật nằm cạnh người tình bê bết máu đã gây shock trực diện đến người xem. Nó xúc phạm thô bạo kinh nghiệm văn hoá, làm khán giả hoang mang. Âm thanh ngoài hình đưa chúng ta và cả Sada về nơi mà cô ta đến, đó là bài báo kể lại sự kiện kì lạ này. Báo là thứ sự kiện thời sự thoáng chốc và với nhiệm vụ đưa tin thì nó sẽ vẫn tồn tại những điều gì đó chưa được chuyển di vào cái nhìn dục tình thịnh hành. Điều này gây ra nỗi ám ảnh về sự trôi dạt, “trượt nghĩa” của chính bộ phim vốn lấy cảm hứng từ đấy. Hiện thực Sada thiến hoạn người tình tán phát, mất mát và không thể phục hồi trong các quan niệm, cái nhìn dục tình khác.
Để phần nào giải thích cho ý tưởng này của Oshima, chúng ta cần nói ra ở đây “In the realm of the sense” có tên phát hành bằng tiếng Pháp là “L’Empire des sens” vốn là lối chơi chữ gợi nhớ tới tác phẩm L’Empire des signes của Roland Barthes. Trong quan niệm của Oshima, người nước ngoài thường chỉ hiểu nước Nhật qua kí hiệu. Điều đó có nghĩa, lớp văn hoá bản địa cụ thể đã bị mất mát, tán phát bên dưới hệ thống kí hiệu. Vì vậy, đạo diễn người Nhật muốn làm một bộ phim bước qua mọi kinh nghiệm, giới hạn về tính dục. Toàn bộ từ đầu đến cuối hai nhân vật Sada và Kichi làm tình đều quay “raw”, không dùng kĩ thuật đánh sáng hay làm đẹp. Oshima đã khai thác triệt để truyền thống tình dục trong văn hoá Nhật Bản với Genji monogatari, kịch Noh…. bất chấp những giới hạn của chính quyền về việc đưa tình dục lên nghệ thuật thị giác – hệ quả của cuộc cải cách Minh trị nhằm đáp ứng yêu cầu của Phương Tây. Sada và Kichi khám phá cảm giác giới tính nguyên sơ. Cái định nghĩa sự tồn tại của họ là những nắm bắt, nếm trải và nỗ lực đạt đến khát vọng tình dục hiện sinh. Càng về cuối, Sada càng chiếm ưu thế và điều khiển Kichi theo ham muốn mãnh liệt của mình. Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra hiện tượng hoán đổi vị trí thứ bậc, người nữ trở nên kiểm soát, nắm lấy luật chơi tình dục. Như thế bằng việc đưa toàn bộ xã hội ổn định về lãnh địa cảm xúc, đạo diễn đã tiến hành một cuộc cách mạng thiết lập lại cấu trúc phân tầng hiện hành trong văn hóa Nhật Bản: sự ưu thế của nam giới.
Tóm lại, sinh ra trong một thời đại mà mọi giá trị truyền thống bị lung lay đến tận gốc rễ, Oshima sớm nhận lấy thiên chức phê phán, phá huỷ và kiến tạo. Vì thế phim của ông có khi tồn tại chỉ để khiêu khích những giới hạn qui ước điện ảnh trước thời đại mới. “The diary of Shinjuku thief” (Nhật kí tên trộm Shinjuku)là đỉnh cao của thể nghiệm tự do phóng túng, “The ceremony” (Nghi lễ) tinh tế, lắng đọng thì đến “In the realm of the sense” táo bạo, dữ dội. Oshima và đồng nghiệp của ông đã tạo ra Làn sóng Mới Nhật Bản mà đỉnh sóng chính là tính dục. Theo chúng tôi, một nghệ sĩ tài năng là người có khả năng vượt thoát mọi hệ luỵ, định kiến ẩn tàng trong vô số nghi lễ, khái niệm để phân tích tỉnh táo nó dù chỉ trong khoảnh khắc. Và hệ thống cái nhìn dục tình trong bộ phim “In the realm of the sense” là một thực hành như vậy.
-
Nhân vật trở thành biểu tượng của ngôi sao cơ bắp Sylvester Stallone có màn trở lại ấn tượng sau gần một thập niên.
Năm 2015, những người yêu điện ảnh được chứng kiến sự trở lại của hàng loạt thương hiệu phim từ những thập niên trước. Những Star Wars VII, Terminator Genysis, Jurassic World hay Mad Max: Fury Road... dù có mức độ thành công khác nhau nhưng đều phần nào đáp ứng niềm hoài cổ trong lòng người hâm mộ.
Nếu phải chọn ra một sự tái xuất đem lại cảm hứng nhất trên màn ảnh rộng năm qua, Creed là một ứng viên nặng ký. Đây là tập phim thứ bảy của loạt phim đấm bốc về nhân vật huyền thoại Rocky Balboa (Sylvester Stallone thủ vai). Dù không còn xuất hiện trên tựa phim và đã lui vào hậu trường thay vì thượng đài, Rocky vẫn biết cách truyền cảm hứng cho khán giả như cách mà nhân vật này từng làm được trong tập đầu tiên cách đây 39 năm.
Những phần trước đây của loạt phim Rocky xoay quanh hành trình vươn lên đỉnh cao môn đấm bốc của Rocky - chàng võ sĩ vô danh tiểu tốt. Sau khi bất ngờ được trao cơ hội thượng đài với tay đấm số một thế giới - Apollo Creed (Carl Weathers), Rocky biết cách nắm lấy cơ hội và khiến tất cả phải bất ngờ với khả năng của mình.
Hàng chục năm trôi qua từ trận đấu đổi đời ấy, Rocky giờ đây đã là một ông già trải qua nhiều thăng trầm trong cả cuộc sống lẫn sự nghiệp. Chỉ còn bơ vơ một mình sau khi người vợ qua đời, nhà cựu vô địch quyền anh thế giới trở thành một ông chủ nhà hàng trong sự nể trọng của người dân Philadelphia bởi ánh hào quang từ quá khứ.
Trong Creed, Rocky trở thành thầy huấn luyện của Adonis Creed (Michael B. Jordan). Chàng trai trẻ này là con rơi của Apollo Creed và dù chưa từng một lần gặp cha ruột, anh vẫn thừa hưởng đam mê lẫn tài năng đấm bốc của ông. Có một công việc văn phòng ổn định nhưng Adonis chỉ cảm thấy mình thực sự được sống khi đứng trên sàn đấu. Anh quyết định từ bỏ công việc để tới gặp Rocky “tầm sư học đạo” nhằm trở thành một tay đấm chuyên nghiệp...
Creed là tập hay nhất trong loạt phim Rocky kể từ tập đầu tiên ra mắt năm 1976. Ngày ấy, Sylvester Stallone còn là diễn viên không tên tuổi và đánh cược cả sự nghiệp vào tác phẩm này. Với kinh phí vỏn vẹn một triệu USD và được quay trong 28 ngày, Rocky trở thành hiện tượng trong lịch sử điện ảnh. Bộ phim đạt doanh thu lên tới 225 triệu USD và nhận ba giải Oscar, bao gồm cả “Phim hay nhất”. Rocky đã đi vào văn hóa đại chúng như một biểu tượng của sự bất khuất, không chịu khuất phục trước những khó khăn.
Những tập phim Rocky sau đó dù vẫn có những khoảnh khắc ấn tượng, xét về tổng thể lại không sánh bằng phiên bản gốc. Rocky của năm 1976 là sự kết hợp hài hòa của những trận chiến dữ dội trên sàn đấu lẫn cuộc đời. Chiến thắng đôi khi không nhất thiết phải tới từ phán quyết trên sàn đấu, mà là khi một con người có thể chiến thắng chính bản thân mình. Ngày ấy, Rocky còn là một tay bảo kê ngờ nghệch không có tương lai và bất ngờ được trao cơ hội đổi đời. Nhưng thứ khiến cuộc sống của anh thực sự trọn vẹn lại là tình yêu đến từ Adrian (Talia Shire) – cô gái e thẹn sát cánh anh trong mọi gian khó. Chỉ tới Creed, một sự tổng hợp hài hòa như Rocky năm nào mới được tái hiện.
Ngọn lửa nhiệt huyết của Rocky giờ được truyền lại cho Adonis - chàng trai trẻ giàu tiềm năng nhưng thiếu đi hình bóng người thầy, người cha để định hướng và đưa cho anh những lời khuyên. Vì lẽ đó, Adonis tìm đến đối thủ cũ của cha để trở nên xuất sắc hơn. Bài học quan trọng đầu tiên mà Adonis được Rocky truyền dạy là tập đấm bốc trước gương. Đây là hình ảnh giàu tính ẩn dụ, khi chàng trai trẻ phải học cách vượt qua những mặc cảm về cái bóng khổng lồ của người cha, bản tính nóng nảy của chính bản thân.
Điều khiến Creed trở nên khác biệt với những bộ phim đánh đấm thông thường là những trận chiến cam go nhất đôi khi diễn ra trong nội tâm. Khán giả được theo dõi phần lớn câu chuyện trước màn quyết đấu ở cuối phim để hiểu hơn lý do khiến những người võ sĩ thượng đài và sẵn sàng chiến đấu với hơn 100% quyết tâm.
Adonis trẻ trung đại diện cho một luồng gió mới, kế thừa ý chí mà Rocky truyền lại. Người võ sĩ ngày nào giờ ở độ tuổi xế chiều và bắt đầu bị bệnh tật hỏi thăm. Ông không thượng đài trong Creed nhưng vẫn phải “xỏ găng” để đương đầu với căn bệnh hiểm nghèo. Adonis đã tìm tới Rocky trong thời điểm mà cả hai đều cần nhau. Chàng trai trẻ đang thiếu một người thầy để đưa anh đi đúng hướng, trong khi người võ sĩ già cần tinh thần không biết sợ của tuổi trẻ để không buông xuôi.
Dù là một tác phẩm lấy đề tài đánh đấm tưởng như khô khan, Creed lại giàu tình cảm với những nốt trầm đằng sau hào quang sàn đấu. Cảm xúc của khán giả tỷ lệ thuận với những gì mà các nhân vật trải qua, trước khi vỡ òa trong trận đấu mãn nhãn ở cuối phim. Các tập phim về Rocky có sức sống tới gần bốn thập niên nhờ cách mà loạt phim này truyền cảm hứng cho người xem.
Đạo diễn Ryan Coogler đã khéo léo giữ nguyên cái khung làm nên thành công của tập phim đầu tiên, như cho anh chàng Adonis phải lòng cô ca sĩ Bianca (Tessa Thompson), đặt những nhân vật vào các “trận chiến cuộc đời” hay tái hiện hình ảnh khổ luyện của Rocky qua hình bóng Adonis chạy miệt mài trên những con phố Philadelphia.
Những chi tiết giống với bản cũ được đưa vào tự nhiên, không đem lại cảm giác gượng ép. Đồng thời, Coogler đã thổi vào đó hơi thở của ngôn ngữ điện ảnh thời đại mới, giúp Creed lôi cuốn được khán giả hiện đại. Doanh thu 180 triệu USD dù kinh phí gốc chỉ là 35 triệu USD là sự tưởng thưởng xứng đáng cho Coogler.
Sáu tập phim đầu tiên đều do Sylvester Stallone viết kịch bản nhưng tới Creed, vai trò đó được giao lại cho Coogler và biên kịch Aaron Covington. Với Creed, Sylvester Stallone và nhân vật Rocky đã tìm được người kế thừa di sản của mình qua hình hài của Ryan Coogler và Adonis.
-
Ra đời từ năm 1941, Citizen Kane (Công dân Kane) luôn được xem là kiệt tác hàng đầu của điện ảnh Mỹ và thế giới. Năm 1998, nhân 100 năm ra đời bộ môn nghệ thuật thứ 7, Viện Phim Mỹ (American Film Institute) bình chọn bộ phim này đứng đầu trong 100 phim xuất sắc nhất mọi thời đại. Tờ Sight & Sound của Viện Phim Anh thì bình chọn nó đứng đầu suốt 5 thập niên liền và còn vô số cuộc bình chọn khác với vị trí “number one”… Sức ảnh hưởng về ngôn ngữ điện ảnh của Citizen Kane tác động tới rất nhiều bộ phim kinh điển sau này.
Vào đầu tháng 12 tới, bộ phim tiểu sử Mank của đạo diễn tài năng David Fincher ra mắt, được xem là ứng cử viên hàng đầu của Oscar 2021. Mank sẽ hé lộ cho khán giả những câu chuyện hậu trường chưa được kể, đặc biệt là mối quan hệ phức tạp giữa nhà biên kịch Herman J. Mankiewicz và đồng biên kịch, đạo diễn, nhà sản xuất, nam diễn viên chính Orson Welles trong quá trình thực hiện kiệt tác mang tính biểu tượng này.
Cái nhìn thấu nghiệm về sự vỡ mộng của giấc mơ Mỹ
Citizen Kane là một sự thấu nghiệm về sự phù du của giấc mơ Mỹ. Sự vĩ đại của Citizen Kane, có lẽ trước hết phải kể đến người làm ra nó, Orson Welles đồng viết kịch bản, làm sản xuất, làm đạo diễn và đóng vai chính của bộ phim Citizen Kane lúc ông mới… 25 tuổi. 25 tuổi và nắm trong tay 4 cương vị quan trọng trong bộ phim đầu tay của mình. Thật khó tưởng tượng nổi có một trường hợp thứ hai đạt được đỉnh cao tài năng ở độ tuổi đó trong điện ảnh.
Ở tuổi đó, hầu hết giới trẻ đang loay hoay lạc lối hay vẫn tìm đường đi cho mình, thì Orson Welles đã dựng nên một câu chuyện, một cái nhìn đầy sâu sắc về cuộc đời một con người, một ông hoàng, một đế chế, một giấc mơ Mỹ, một tấn thảm kịch mang phong cách cổ điển của Shakespeare.
Và không chỉ thế, Citizen Kane còn tạo ra những bước đột phá tiên phong trong điện ảnh, về kỹ thuật, về cấu trúc, về nghệ thuật dẫn chuyện, về góc máy camera, về dàn dựng, về xây dựng tính cách nhân vật… Tất cả chúng đều ảnh hưởng đến rất nhiều bộ phim lớn sau này. Đó có lẽ là lý do lớn nhất để Citizen Kane luôn nằm trong top những tác phẩm điện ảnh vĩ đại nhất của Mỹ và thế giới.
Citizen Kane là câu chuyện về cuộc đời của Charles Foster Kane, được xem là lấy cảm hứng từ cuộc đời của ông trùm truyền thông William Randolph Hearst, người xem ra không khác mấy với Trump bây giờ. Có lẽ vì vậy mà Hearst đã dùng quyền lực và sức mạnh truyền thông có trong tay mình để đè bẹp Citizen Kane và quyết nhấn chìm Orson Welles xuống bùn.
Nhưng cho dù Hearst dùng đến thế lực của mình, Kane vẫn tự đứng vững trên đôi chân của nó để đời sau phải cúi đầu. Tại mùa giải Oscar 1942, Citizen Kane nhận tới 9 đề cử Oscar, trong đó riêng Orson Welles đã nhận tới 4 đề cử cá nhân cho 4 hạng mục quan trọng nhất ở tuổi 26 – kỷ lục tất nhiên chưa lặp lại bao giờ: Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Diễn viên nam chính xuất sắc nhất và Biên kịch xuất sắc nhất.
Tuy nhiên Viện Hàn Lâm Mỹ đã không dám bỏ phiếu cho Citizen Kane, mà trao cho một bộ phim dưới tầm bị quên lãng từ lâu, nên cuối cùng Citizen Kane chỉ chiến thắng một giải Oscar duy nhất là Kịch bản gốc xuất sắc, chia đôi cho Orson Welles và người cộng sự của ông - Herman J. Mankiewicz.
Citizen Kane chỉ thực sự trở nên vĩ đại sau đó vài năm, và mãi mãi sau này.
"Rosebud" và đoạn kết của một con người vĩ đại
Citizen Kane mở đầu với cảnh cái chết của Charles Foster Kane, ông trùm truyền thông, ở lâu đài đang xây dang dở Xanadu. Kane nằm trên giường, cô độc một mình, tay cầm quả cầu thủy tinh. Nó lăn ra khỏi tay ông ta, rơi xuống đất và vỡ tan. Môi Kane mấp máy một từ duy nhất trước khi nhắm mắt lìa đời: “Rosebud”. Người giúp việc bước vào, đặt hai tay của Kane lên ngực và kéo vải, trùm lên mặt ông ta. Cuộc đời của một con người từng được sánh với Thành Cát Tư Hãn vừa kết thúc.
Cái chết của Kane tất nhiên trở thành tin tức lớn nhất. Một phóng sự về cuộc đời của Kane xuất hiện trên TV. Đoạn phóng sự tư liệu này được Orson Welles dàn dựng rất hấp dẫn và được coi là sự mẫu mực cho việc dàn dựng phim tài liệu chân dung sau này, trong đó có những trích dẫn cho thấy tầm ảnh hưởng của ông ta: “Đế chế của Kane trong thời đại huy hoàng của nó, đã nắm giữ 37 tờ báo, hai nghiệp đoàn thông tấn, một đài radio. Một đế chế trên mọi đế chế. Và Kane tiếp tục tấn công sang các tiệm tạp hóa, nhà máy giấy, các tòa chung cư, nhà máy, rừng, tàu viễn dương. Một đế chế trải qua 50 năm như một dòng chảy bất tận. Sự giàu có của ông được sánh với mỏ vàng lớn thứ 3 thế giới.
Nhưng cùng với những lời ca tụng về quyền lực và sự giàu sang, Kane cũng bị coi là một kẻ phát xít, kẻ khiến tầng lớp lao động bị bóc lột, mất việc và nghèo đói. Câu “tagline” (chủ đề) của bộ phim gần như nói đầy đủ những nhận xét của người đời về Kane: “Tôi ghét ông ta! Tôi yêu ông ta! Ông ta là một tên vô lại! Ông ta là một vị thánh! Ông ta là kẻ điên rồ. Ông ta là một thiên tài!”
Kane đã giúp thay đổi thế giới, nhưng thế giới của Kane giờ chỉ còn là lịch sử. Cuối đời, Kane sống một mình trong công trình nghỉ dưỡng vĩ đại chưa hoàn thiện và đang xuống cấp. Ông vua truyền thông ngày nào giờ đây chỉ còn là một kẻ cô độc, sống trên ngai vàng của mình và vẫn tự tay điều hành một đế chế đang hoang tàn cho đến ngày thần Chết đến rước ông ta đi.
Câu nói cuối cùng trên môi Kane “Rosebud” trở thành một từ khóa bí ẩn khiến báo chí nước Mỹ phải lao vào cuộc điều tra và tìm kiếm, xem ý nghĩa thực sự của nó là gì? Một người phụ nữ đẹp, một đóa hồng, hay một điều thầm kín gì khác chỉ có Kane biết được?
Và một anh chàng đã bắt tay vào cuộc điều tra, gặp gỡ những nhân vật từng gần gũi nhất với ông ta, để biết được ý nghĩa thực sự của Rosebud là gì?
Và đây mới là phần chính của Citizen Kane. Bộ phim quay ngược lại quá khứ, qua các lời kể của các nhân vật rồi lộn về hiện tại, cứ thế, dẫn dắt người xem tự sắp xếp lại những mảnh ghép trong trò chơi đánh đố về cuộc đời của một con người.
Phong cách kể chuyện phi tuyến tính của Orson Welles – vốn rất mới mẻ lúc bấy giờ, phải nói là mẫu mực, vừa theo cách kể của phim tài liệu chân dung, vừa sử dụng phong cách phim noir (hình sự đen) lật giở các mảnh ghép bí ẩn. Rất nhiều bộ phim “noir” sau này kế thừa phong cách của Orson Welles, điển hình như Chinatown của Roman Polanski.
Nghệ thuật kể chuyện đột phá
Cậu bé Kane từng có một tuổi thơ, dù nghèo nhưng hạnh phúc bên gia đình của mình ở một thị trấn nhỏ ở vùng núi Colorado. Nhưng khi người mẹ được kế thừa một mỏ vàng ngay trong khu đất của mình, Kane được gửi lên thành phố để được nuôi dạy tử tế, cho đến khi đủ tuổi 25 để kế thừa tài sản. Hình ảnh mà ta thấy về tuổi thơ của Kane là cậu bé đang trượt ván trước sân nhà dưới trời đổ tuyết, trước khi bị người giám hộ đưa đi mà không kịp thổn thức vì bị mẹ của mình bỏ rơi.
Ở phân đoạn “Colorado” sau này thường được các nhà chuyên môn và học thuật mang ra để phân tích, mổ xẻ, Orson Welles đã sáng tạo ra một thủ pháp độc nhất vô nhị lúc bấy giờ là “deep focus” (tiêu cự sâu) kết hợp với “low angle shot” (góc máy thấp) và long take (cú máy dài).
Với sự sáng tạo đột phá đó, ông có thể dựng được một phân đoạn phức tạp và giàu ý nghĩa biểu tượng trong vài cú máy, tạo được sự đồng nhất trong diễn xuất của diễn viên và tính thống nhất của thời gian và không gian. Hơn tất cả, qua thủ pháp đó, Orson Welles muốn nhấn mạnh đến bi kịch của một đứa trẻ, một con người bị định đoạt trong tay kẻ khác.
Những sáng tạo mang tính đột phá như vậy trong quay phim, âm thanh, dựng phim… làm nên tính tiên phong của ngôn ngữ điện ảnh mà hàng loạt đạo diễn lớn sau này phải chịu kế thừa. Nó cũng lý giải về con người tham vọng và gót chân Achilles của ông ta sau này: Kẻ tự tay dựng nên đế chế của mình. Một đế chế vừa đưa Kane lên cao, vừa nhốt chặt ông ta trong đó.
Cái nhìn thấu suốt về cuộc đời một con người
Citizen Kane của Orson Welles, với cái nhìn đầy thấu suốt về cuộc đời một con người, cho ta thấy, để thành công, người ta phải có một ý chí và sự quyết tâm khủng khiếp như thế nào. Nửa đầu phim, ta thấy Kane là một người hùng của nước Mỹ. Nhưng sự thành công cũng có thể đẩy người ta rơi vào những bến bờ ảo tưởng, với cái tôi khổng lồ, ngạo mạn và phản bội lại lý tưởng ban đầu của mình như thế nào.
Như Kane từng nói, “Người duy nhất trên thế giới này có thể bảo tôi làm gì, và có thể sai khiến được tôi, đó là… tôi”. Để rồi trong nửa sau phim, Kane dần dần biến thành một kẻ lố bịch, điên rồ và quái đản của nước Mỹ.
Vậy cuối cùng, từ khóa của bộ phim: “Rosebud” là gì? Liệu từ này có thể giải mã được cuộc đời của Kane? Khi một cây bút chuyên nghiệp nói rằng: “Nếu anh tìm ra được ý nghĩa của từ Rosebud, tôi đồ rằng nó sẽ giải thích được tất cả mọi chuyện”, Jerry Thompson đã trả lời rằng: “Không, Kane là một người đàn ông có tất cả những gì ông ta muốn và sau đó đánh mất tất cả. Có thể Rosebud là một điều gì đó mà ông ta không đạt được, hoặc ông ta đánh mất nó. Nhưng dù gì đi nữa, nó cũng không giải thích được bất cứ điều gì. Tôi không tin rằng chỉ một từ có thể giải thích được cuộc đời của một con người. Không. Tôi đồ rằng, Rosebud chỉ là một mảnh ghép trong trò chơi ghép chữ. Một mảnh ghép bị thất lạc.”
“Rosebud” là gì? Một mảnh ghép bị thất lạc, một tình yêu bị đánh mất? Sự hồn nhiên của tuổi thơ bị đánh cắp và định đoạt bởi kẻ khác?... Câu trả lời có ở phút cuối cùng của bộ phim, câu trả lời đến cả Jerry Thompson cũng không tìm ra được.
Orson Welles mang đến cho chúng ta một câu trả lời đầy mỉa mai và có phần cay đắng. Mỗi khán giả phải tự xem phim và tự giải mã cho mình câu đố hiểm hóc nhất và bất ngờ nhất của Orson Welles dành cho điện ảnh. Nhưng hãy nhớ lời nhắn nhủ của Orson Welles: “Tôi không tin rằng chỉ một từ có thể mô tả được cuộc đời của một con người”.
-
Bộ phim “A tale of two sisters” ở Việt Nam được biết đến với tên “Câu chuyện hai chị em” của đạo điễn Kim Jee Won mặc dù được công chiếu từ năm 2003 nhưng đến nay vẫn được xem là bộ phim kinh dị đáng sợ nhất xứ Hàn. Ngay khi công chiếu, bộ phim trở thành tác phẩm kinh dị trong nước đầu tiên thu hút trên 3 triệu khán giả và được hai đạo diễn Hollywood, Charles Guard và Thomas Guard làm lại với tựa đề “The Uninvited” vào năm 2009. “Câu chuyện hai chị em” cũng được đưa vào danh sách 12 phim nước ngoài được làm lại hay nhất tại Mỹ.
Trong bộ phim của Hàn Quốc: Câu chuyện được bắt đầu khi 2 chị em Soo Mi và Soo Yeon trở về ngôi nhà của mình sau 1 thời gian dài Soo Mi điều trị tại bệnh viện tâm thần. Nhưng điều khiến cô chị cảm thấy khó chịu là bên cạnh người cha của mình, cô và em gái phải sống cùng người mẹ kế. Mặc dù 2 cô bé được mẹ kế đón tiếp niềm nở nhưng Soo Mi lại luôn cảm thấy căm ghét và xa lánh bà trong khi Soo Yeon thì lại vô cùng sợ hãi. Từ khi sống chung, những chuyện kì dị bắt đầu xảy ra, ngôi nhà dường như bị ma ám. Vì những thái độ và cách hành xử rất kì quặc của mẹ kế, 2 cô bé cho rằng chính bà là người gây ra những chuyện này và càng chống đối bà hơn. Đổi lại, mẹ kế bắt đầu làm hại Soo Yeon và Soo Mi luôn cố gắng bảo vệ em gái mình. Một hôm, người cha vắng nhà, Soo Mi nhìn thấy mẹ kế lôi một chiếc bao lớn kéo theo vết máu qua một hành lang tối như mực. Cô lần theo dấu máu, cho rằng trong chiếc bao là thi thể em gái. Soo Mi đã ẩu đả kịch liệt với mẹ kế và bất tỉnh. Khi trở về, người cha phát hiện Soo Mi nằm một mình trên sàn nhà. Và từ đây, bí mật kinh hoàng về Soo Mi, Soo Yeon và câu chuyện thật sự của 4 người được hé lộ đầy bất ngờ và sâu sắc.
Nếu là 1 khán giả yêu thích 1 trong 2 phiên bản bộ phim này, chắc hẳn không thể tránh khỏi việc đưa lên bàn cân để so sánh những khía cạnh khác nhau. Vì mỗi phiên bản sẽ khai thác câu chuyện theo 1 hướng, tùy vào “gu” xem phim của khán giả ở 2 nền văn hóa. Mỗi người xem sẽ có những cảm nhận riêng nên những ý kiến so sánh sau đây chỉ thể hiện 1 phần nào đó góc nhìn của người viết.
Các nhân vật và diễn viên trong phim
1. Nhân vật chính – cô chị gái Soo Mi
Ở phiên bản Hàn Quốc, nhân vật chính cô chị Soo Mi do nữ diễn viên Im Soo Jung thể hiện. Có thể nói, cô chính là sự lựa chọn hoàn hảo nhất cho vai diễn này. Im Soo Jung đã thể hiện rất trọn vẹn vai diễn một cô gái trẻ có tính cách bướng bỉnh, ngang tàng, cố chấp, luôn chống đối quyết liệt với mẹ kế nhưng bên cạnh đó lại là một người chị mẫu mực và dịu dàng với em gái. Soo Mi rất yêu thương Soo Yeon và luôn bảo vệ cho em mỗi khi những chuyện kì dị xảy ra và những khi Soo Yeon bị mẹ kế ức hiếp.
Tính cách mâu thuẫn, tâm lý bất ổn và nội tâm phức tạp của nhân vật được Soo Jung lột tả qua gương mặt và ánh mắt đầy ám ảnh, khiến nhân vật trở nên bí ẩn và có chiều sâu, dẫn dắt người xem đi đến từng hồi cao trào của câu chuyện. Những đặc trưng về tính cách của nhân vật đòi hỏi diễn viên phải có nội lực diễn xuất tốt và cảm được nỗi đau thương của nhân vật cũng như sự éo le của câu chuyện.
Những phân đoạn Soo Mi gay gắt chống đối với mẹ kế, những lúc vỗ về So Yeon và những lúc tâm trạng trống rỗng mơ hồ khi xác định hiện thực đang xảy ra đều là những phân đoạn thể hiện được diễn xuất đa dạng của Soo Jung. Tưởng chừng như, vai Soo Mi chính là dành riêng cho diễn viên này.
Vai diễn tương đương với Soo Mi trong bản phim Holywood là Anne do Emily Browning thể hiện. Khác với bản gốc, lần này Anne lại là cô em hiền lành và ngây thơ cùng với những suy nghĩ phức tạp và lộn xộn. Anne có 1 chị gái là Alex và cô luôn ngưỡng mộ chị của mình bởi tính cách cứng rắn và quyết liệt.
Emily Browing có khuôn mặt xinh xắn và ngây thơ phù hợp với đặc điểm miêu tả nhân vật nhưng diễn xuất lại hơi non, những phân đoạn gút thắt đỏi hỏi phải thể hiện sự phức tạp trên nét mặt thì Emily lại diễn hơi đơ khiến gương mặt trở nên cứng nhắc và tình huống trở nên thiếu chiều sâu. Nhân vật Anne với nội tâm phức tạp và nhiều uẩn khúc vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Nếu đặt vào mặt bằng chung thì diễn xuất của Emily vẫn khá ổn, thể hiện được những nỗi bất an và chông chênh của 1 cô gái trẻ khi chứng kiến vô số những chuyện kì lạ và cố giải thích theo hướng của riêng mình.
Những phân đoạn mà Emily thể hiện diễn xuất bằng ánh mắt thành công đó là cảnh cô phát hiện ra sự thật và hoảng hốt tột độ khi thấy trên tay mình 1 con dao dính máu đồng thời nhìn thấy hình ảnh của mình phản chiếu qua gương. Phân đoạn thứ hai là ở ngay phần kết thúc phim, khi Anne bị đưa ra khỏi ngôi nhà và cô quay đầu lại nhìn người cha của mình bằng ánh mắt vừa thù hận vừa như oán trách.
Mỗi diễn viên có những cách thể hiện tính cách và tình cảm nhân vật khác nhau. Nhưng nếu đặt lên bàn cân thì diễn xuất và thần thái của nữ diễn viên Hàn Quốc lại có sự thuyết phục lớn hơn.
2. Cô em gái Soo Yeon
Vai diễn Soo Yeon trong A Tale of two sisters do Moon Geun Young thủ vai. Lúc nhận vai, Geun Young mới 16 tuổi nhưng diễn xuất của diễn viên trẻ lại rất cuốn hút và có thần.
Soo Yeon là cô bé ngây thơ và rất hiền lành so với cô chị mạnh mẽ và cứng rắn của mình. Trong suốt câu chuyện phim, Soo Yeon có phần hơi yếu đuối, ít phản kháng, ít giao tiếp, chỉ trò chuyện cùng với Soo Mi, luôn luôn bên cạnh Soo Mi và thường phụ thuộc vào người chị rất nhiều thứ, luôn cần chị bảo vệ che chở, luôn nghe lời và yêu thương chị.
Ở phiên bản Holywood, nhân vật này chính là Alex do diễn viên Arielle Kebbel thủ vai. Trái với phiên bản Hàn, nhân vật này lại là một cô chị thông minh và tinh ranh, là người luôn tin tưởng và sát cánh bên Anne trong mọi tình huống và cho cô em gái những lời khuyên. Với bản tính thẳng thắn mạnh mẽ, cô luôn là người động viên tinh thần, bảo vệ Anne và cùng em gái khám phá những điều bí ẩn diễn ra trong ngôi nhà và thậm chí là truy tìm nguyên nhân cái chết của người mẹ ruột.
Diễn viên đã thể hiện được hình ảnh cô chị gái mạnh mẽ và thông minh, và có phần tự tin, phóng khoáng mà không bị gượng hay cứng nhắc.
Nhân vật này ở 2 phiên bản phim tuy đóng vai trò như nhau nhưng về tính cách và tình huống lại không giống nhau nên rất khó để so sánh. Chỉ có thể nói rằng, sự tồn tại của nhân vật này trong phim thể hiện sự đau đớn và muốn tìm lối thoát của nhân vật chính. Cả 2 diễn viên đã cho thấy 2 hình tượng nhân vật hoàn toàn khác và kể nên 2 câu chuyện hoàn toàn khác.
3. Người mẹ kế
Diễn viên thể hiện vai diễn này trong phiên bản Hàn là Yeom Jeong Ah . Có thể nói, ấn tượng đầu tiên khi lần đầu nhìn thấy tạo hình của nữ diễn viên trong phim là “đúng bản chất mẹ kế”. Với ánh mắt sắc sảo và gương mặt lạnh lùng, nhân vật của bà chính là nỗi khiếp sợ của Soo Yeon và là cái gai trong mắt Soo Mi. Bề ngoài, bà vẫn đối xử niềm nở với 2 chị em nhưng thật ra, bà cũng không hề yêu thương 2 đứa con riêng của chồng. Có nhiều hành động lạ lùng và tính cách quái dị, sự xuất hiện và tồn tại của nhân vật này cho đến phút gần chót lại là những nút thắt quan trọng và là 1 trong những bí mật đáng sợ của câu chuyện.
Có thể nói diễn xuất của Yeom Jeong Ah rất sắc bén và thuyết phục. Cô đã thể hiện được rất nhiều trạng thái và mâu thuẫn của nhân vật. Khi xem phim, đôi lúc, nhân vật có những cách hành xử vô cùng kì lạ, khiến cho người xem không thể hình dung được bản chất thật sự của nhân vật này. Và Yeom Jeong Ah đã đánh lừa nhận thức của khán giả 1 cách thuyết phục.
Trong Uninvited, vai diễn này được giao cho nữ diễn viên xinh đẹp Elizabeth Banks đảm nhận. So với bản gốc thì Elizabeth xử lí nhân vật rất thiếu chiều sâu, không tạo được cảm giác đáng sợ và bí ẩn như theo mạch diễn biến phim. Ngoại hình, vẻ đẹp, và cách thể hiện cảm xúc của Elizabeth dường như không hợp với phim kinh dị khiến nhân vật không có sức thuyết phục.
4. Nhân vật người cha
Vai trò của nhân vật này trong cả hai bộ phim tương đối nhạt nhòa. Tình huống mà 2 nhân vật này gặp phải trong 2 bản phim tuy có vài nét tương đồng nhưng lại rất khác nhau. Sau khi vợ mất, ông đi thêm bước nữa với người phụ nữ từng là y tá chữa trị cho vợ mình. Vì biết vợ sau không được lòng các con nên ông cố vun đắp tình cảm cho gia đình. Sau khi những bi kịch xảy ra, ông đã sống trong đau khổ và dằn vặt vì những sai lầm trong quá khứ.
Trong phim của Hàn, từ đầu tới gần cuối, những hành động và lời nói của nhân vật người cha do diễn viên Kim Gap Soo thể hiện rất mâu thuẫn và dường như chẳng ăn nhập với tình huống, khiến khản giả vô cùng băn khoăn và khó hiểu. Những lúc ông đối thoại với cô con gái hay người vợ kế đều cho thấy ông là người có phần nhu nhược và không có chính kiến. Chỉ khi bức màn được hé mở, những mâu thuẫn trên lập tức đều có câu trả lời. Bên cạnh người mẹ kế, đây là nhân vật thứ 2 đóng vai trò gây nhiễu trong nhận thức của khán giả trong suốt gần hết bộ phim nhưng lại góp phần không nhỏ để kết thúc trở nên thuyết phục và nhân văn.
Kết: Vì mỗi bộ phim có những cách kể chuyện và tuyến nhân vật khác nhau sao cho phù hợp với văn hóa phương đông và phương tây, nên cách thể hiện nhân vật nếu đem ra so sánh đương nhiên sẽ có phần không phù hợp. Nhưng nếu nét về mặt bằng chung thì tuyến nhân vật của The Uninvited có mối quan hệ rõ ràng hơn, dễ hiểu hơn nhưng ở bản phim Hàn thì lại đem đến cảm giác nhập nhằng và mơ hồ, một gia vị thường thấy trong các phim kinh dị châu Á. Về diễn xuất thì có thể thấy dàn diễn viên A tale of two sisters lại mang đến chiều sâu và nhiều sắc thái cho từng nhân vật hơn.
-
8:15 ngày 6 tháng 8 năm 1945 quả bom nguyên tử mang tên “Little Boy” đã được thả xuống thành phố Hiroshima, 3 ngày sau đó ngày 9 tháng 8 năm 1945 quả bom tiếp theo mang tên “Fat Man” được thả xuống thành phố Nagasaki. Cả 2 quả bom được thả xuống Nhật Bản với mục đích là chấm dứt chiến tranh thế giới thứ 2, đã cướp đi sinh mạng của hơn 200 nghìn người, tàn dư phóng xạ của nó vẫn ảnh hưởng đến tận ngày nay. Và dù cho chiến tranh đã đi qua, nhưng những ám ảnh của người Nhật nói riêng và thế giới nói chung về vũ khí hạt nhân vẫn chưa bao giờ kết thúc. Và Godzilla, con quái vật mang trong mình sức mạnh của vũ khí hạt nhân chính là hình tượng mà người Nhật đã tạo ra để liên hệ với chính thứ vũ khí hủy diệt kia. Tuy nhiên theo thời gian, đặc biệt là với sự phát triển của mô hình vũ trụ điện ảnh như ngày nay, hình tượng Godzilla đã được người Mỹ thay đổi đi phần nào.
Godzilla trong vũ trụ Monsterverse được khắc họa giống như 1 anti-hero, 1 quái vật với mục tiêu chính là bảo vệ cho sự cân bằng của trái đất, thậm chí gần đây nhất trong Godzilla x Kong: The New Empire, Godzilla càng lúc càng có phần giống như 1 siêu anh hùng của vũ trụ Marvel hay DC nhiều hơn là 1 quái vật với sức mạnh đe dọa đến sự tồn vong của toàn nhân loại. Với 1 người xem phim như mình, từ sau Godzilla 2014 thì mình đã luôn giữ 1 suy nghĩ rằng phim về những con Kaiju như Godzilla, Kong thì chỉ cần xem giải trí thôi, hay như cộng đồng mạng hay dùng từ đó là: Tắt não đi xem là hay rồi. Bằng chứng là những Godzilla vs Kong, Godzilla: King of The Monster hay gần đây nhất Godzilla x Kong: The New Empire đều mang lại cho mình cảm giác đã con mắt, sướng lỗ tai nhờ những màn chiến đấu long trời, lở đất. Để rồi sau khi được xem xong tác phẩm mới nhất đến từ chính quê nhà của Godzilla là Godzilla Minus One, mình mới chợt nhận ra điều mà mình đã tìm kiếm bấy lâu nay ở dòng phim này, đó là 1 bộ phim dù lấy đề tài quái vật nhưng vẫn vô cùng chất lượng ở mặt kịch bản và chiều sâu nhân vật. Đây là 1 bài review của mình về Godzilla Minus One.
GIỚI THIỆU
Godzilla Minus One hay Godzilla -1, là phim điện ảnh sử thi lấy đề tài quái vật ra mắt năm 2023 của Nhật Bản, do Yamazaki Takashi đạo diễn, biên kịch kiêm xử lý phần hiệu ứng hình ảnh, đồng thời được Toho Studios, Robot Communications sản xuất và phân phối bởi Toho. Bộ phim xoay quanh cuộc đối đầu của người dân Nhật Bản thời kỳ hậu chiến với mối đe dọa khổng lồ mang tên quái vật Godzilla – thứ biến quốc gia này đang trong tình trạng mất hết tất cả trở về con số âm.
NỘI DUNG
Nhật Bản chỉ còn là con số 0
Godzilla Minus One lấy bối cảnh nước Nhật năm 1945 thời điểm chiến tranh thế giới thứ 2 đã kết thúc, với việc Nhật đã đầu hàng phe đồng minh. Nước Nhật giờ đây chỉ còn lại là 1 đống đổ nát hoang tàn, từ kinh tế, quân sự, đời sống của người dân đang trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, niềm tin của người dân vào chính phủ Nhật đang dần cạn kiệt. Tưởng như mọi thứ đã không thể nào tồi tệ hơn được nữa, thì từ ngoài biển khơi, sau những cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của người Mỹ, Godzilla, 1 con quái vật mang trong mình sức mạnh của hạt nhân tràn vào và tấn công nước Nhật, biến tình trạng của nước Nhật từ con số 0 giờ đây còn lùi thêm 1 bước nữa để trở thành.. -1. Phim thực sự đã làm cực kỳ tốt trong việc khắc họa bối cảnh có phần u ám, ảm đạm, thậm chí là có chút ám ảnh với chính cá nhân mình về 1 nước Nhật giai đoạn đầy tăm tối, dường như chẳng có lấy 1 tương lai tươi sáng nào cho người dân cả và nước Nhật. 1 cảm giác ngột ngạt, khó chịu và còn có phần bí bách là những gì mà mình cảm thấy mỗi khi nhìn vào nước Nhật trong Godzilla Minus One, 1 nước Nhật đã bị tổn thương quá nặng nề từ cuộc chiến tranh đã qua và rồi là cảm giác tuyệt vọng đến cùng cực khi mà Godzilla xuất hiện. Đây có lẽ là lần đầu tiên mình có được cảm giác này khi xem phim Godzilla, bởi nếu so sánh với phiên bản Godzilla do Hollywood làm, thì ngoài bản phim năm 2014 cho mình 1 cảm giác con người thật nhỏ bé trước Godzilla ra, các bộ phim khác chưa bao giờ tạo được sức nặng trong bối cảnh cả. King of The Monster dù vẫn làm rất tốt việc khắc họa bối cảnh khi mà các titan đồng loạt được Ghidorah gọi dậy, xong sự tàn phá mà nó mang lại chỉ cho mình thấy được sức mạnh của đám titan và mình vẫn hoàn toàn có thể tin được rằng con người hay phe thiện sẽ lại giành chiến thắng thôi mà. Chính vì điều đó mà những bộ phim Godzilla do Hollywood làm chưa thể mang đến cho mình cái cảm giác không còn hy vọng như trong Godzilla Minus One.
Nỗi ám ảnh với thảm sát hạt nhân
Nhắc đến Godzilla mà không nhắc đến vũ khí hạt nhân thì quả thực là 1 sự thiếu sót vô cùng lớn. Bởi suy cho cùng, Godzilla vẫn được tạo nên từ nỗi sợ và những ám ảnh của người dân Nhật Bản từ thứ vũ khí hủy diệt này. Godzilla xuất hiện trong phim tuy không quá nhiều, xong cứ mỗi lần con quái vật này xuất hiện, sức tàn phá mà nó mang lại luôn khiến người xem phải cảm thấy lo sợ, bất an và cũng là cảm thấy bản thân mình thật là nhỏ bé đến nhường nào trước sức mạnh của nó. Điều đáng sợ hơn là sức tàn phá của Godzilla cứ mỗi lần nó xuất hiện sẽ ngày một lớn hơn, và cứ như vậy, con quái vật dường như không chỉ là đại diện cho sự tàn phá mà bom hạt nhân mang lại, nó có lẽ còn đại diện cho cả thiên tai, thậm chí là cả chiến tranh nữa. Với sức mạnh khủng khiếp của mình, Godzilla hiện lên chẳng khác gì một thảm họa biết đi, và khiến cho mình, hay người xem, chỉ mong muốn tìm ra cách làm sao để chấm dứt được cái thảm họa đáng sợ này. Nhưng nhìn vào thực tại trong phim, con người quả thực là quá nhỏ bé và vô vọng trước 1 sức mạnh tuyệt đối như Godzilla. Minus One thực đã làm quá tốt trong việc đưa người xem nhớ lại hình tượng phổ biến nhất của Godzilla trong mắt người Nhật, con thằn lằn hạt nhân trong suốt 70 năm lịch sử hình thành và phát triển, đúng là đã từng được xây dựng giống như là 1 phản anh hùng, 1 vị vua quái vật và là kẻ bảo vệ cho sự cân bằng của thế giới giống như cách mà Hollywood đã và đang làm. Tuy nhiên nguyên mẫu đúng nhất của Godzilla, thì nó vẫn là đại diện cho thảm họa, thiên tai, cho cơn thịnh nộ của thiên nhiên và đặc biệt nhất là sự tàn phá khủng khiếp mà bom hạt nhân đã gây ra cho đất nước mặt trời mọc này.
Câu chuyện của những con người sau thời chiến
Từ trước đến nay, vũ trụ điện ảnh quái vật hay monsterverse của Hollywood chưa bao giờ được đánh giá cao về mảng nội dung, thậm chí trong Godzilla King of the Monster hay gần đây hơn là Godzilla vs Kong, Godzilla x Kong The new empire, nội dung của phim bị đánh giá là nhồi nhét quá nhiều nhưng lại không có chiều sâu, quá nhiều tuyến nhân vật, các tuyến truyện liên kết không hợp lý và dường như chỉ để phục vụ cho tham vọng mở rộng vũ trụ phim ra nhiều hơn. Đặc biệt phải nói đến là cách xây dựng con người trong những phim này. Mình không chê các diễn viên đóng trong phim, cái mình muốn chê là cách mà đội ngũ đạo diễn, biên kịch đưa vai trò của con người vào trong phim, họ dường như đang cố tăng vai trò của con người trong phim lên, tuy nhiên kết quả đều chỉ đến mức ổn dạo gần đây chứ chưa bao giờ là xuất sắc cả. Vậy thì với Godzilla Minus One thì sao? Câu trả lời đó là phim đã làm cực kỳ xuất sắc trong việc xây dựng tuyến chuyện của con người mà không khiến cho phim trở nên nhàm chán, thậm chí là khiến cho người xem phải chú ý tới chính tuyến truyện của con người nhiều hơn. Lý do là bởi phim không chỉ coi Godzilla là nhân vật trung tâm duy nhất, mà nó còn có sự cân bằng giữa các tuyến chuyện của con người và tuyến truyện của Godzilla. Và đây cũng là lần đầu tiên mà trong 1 bộ phim về Godzilla, con quái vật có được 1 phép ẩn dụ đến chính nội tâm của nhân vật trong phim, mà ở đây mình đang muốn nói đến là nhân vật chính của bộ phim, Shikishima Kōichi, nhân vật mình sẽ nói rõ hơn ở phần sau của video. Có thể nói bước đi của Minus One là 1 bước đi khác biệt, xong không vì thế mà phim làm mất đi những giá trị đã làm nên hình tượng Godzilla như ngày nay, trái lại nó càng khắc họa sâu sắc hơn những giá trị của Godzilla, đồng thời truyền tải được những thông điệp, giá trị nhân văn mà đạo diễn Yamazaki muốn gửi đến khán giả. Những thông điệp đó được truyền tải 1 cách rất tự nhiên, không bị quá giáo điều và cũng không bị quá nhồi nhét để phim sặc mùi đạo lý nhưng lại bị sáo rỗng. Đó là thông điệp về thế hệ người Nhật Bản hậu Thế Chiến ấy đã vượt qua bóng ma của quá khứ như thế nào. Đó là câu chuyện về Chủ nghĩa quân phiệt Đế quốc và tinh thần võ sĩ đạo cực đoan đã ám ảnh cả 1 đất nước, khiến cho những người còn sống sót bị dằn xé tâm can bị mắc kẹt với cuộc chiến như thế nào dù cho cuộc chiến đã kết thúc.
NHÂN VẬT
Shikishima - nạn nhân của chiến tranh
Trong các nhân vật xuất hiện trong Minus One, nhân vật chính Shikishima Koichi, được thủ vai bởi nam diễn viên Kamiki Ryunosuke đã thể hiện cực kỳ xuất sắc vai diễn của mình, đồng thời cũng là nhân vật mà mình muốn tập trung phân tích nhiều nhất trong bài review này. Shikishima trong bộ phim là hiện thân hay nói đúng hơn là đại diện điển hình cho thế hệ người dân Nhật Bản hậu thế chiến thứ 2, những con người đang mắc kẹt trong bóng ma đáng sợ của chủ nghĩa quân phiệt Đế quốc và bị PTSD nặng do tàn dư của chiến tranh đẻ lại. Tương lai đối với họ chỉ là một màn đêm tăm tối, xám xịt hay 1 đường hầm mà đi mãi chẳng tìm ra được lối thoát. Shikishima trong phim là 1 Kamikaze, 1 thần phong hay 1 phi công cảm tử. Những người như Shikishima được đào tạo và huấn luyện với chỉ 1 mục tiêu duy nhất, chiến đấu và nhận lấy cái chết bằng việc lao thẳng máy bay vào tàu của quân địch, vì với người Nhật thời điểm đó những thần phong hay kamikaze thì việc họ ra đi đúng với tinh thần võ sĩ đạo, đúng với mệnh lệnh “hy sinh trong danh dự”. Thế nhưng cái hy sinh trong danh dự, cho tinh thần Samurai đó để làm gì chứ ? Nó chẳng có ý nghĩa gì cả, trừ việc thỏa mãn cái gọi là tinh thần võ sĩ đạo được thổi phồng đến mức cực đoan của nước Nhật thời điểm đó. Họ gọi đó là “hy sinh trong danh dự”, nhưng người chết rồi thì cần danh dự để làm gì? Để chứng minh với ai? Có lẽ chính vì điều đó mà Shikishima đã muốn sống tiếp, anh đã chọn việc hạ cánh xuống đảo Odo, lấy lý do là máy bay hỏng để không nhiệm vụ cảm tử của mình. Anh đã sợ hãi, đã tìm cách né tránh nhiệm vụ, bởi vì anh không muốn chết. Vậy Shikishima có phải là 1 kẻ hèn nhát không ? Mình nghĩ câu trả lời là không, có thể vì bất tuân mệnh lệnh thì không đáng là quân nhân. Thế nhưng đây đâu phải mệnh lệnh thông thường ? Đây là 1 mệnh lệnh mà đến chính cả 1 người thợ máy trên đảo Odo cũng đã nói, đó là cuộc chiến đã rõ kết cục, vậy thì cần gì phải mù quáng đâm đầu vào cái chết như vậy ? Shikishima muốn sống, điều ấy chẳng hề sai bởi thế cục của cuộc chiến lúc này đã quá rõ ràng, nước Nhật đã thua trước phe đồng minh mà cụ thể là người Mỹ, vậy thì sự hy sinh của những người lính như Shikishima liệu có còn có ý nghĩa gì nữa ? Vậy nên việc Shikishima muốn sống, điều ấy chẳng hề sai.
Thế nhưng người chết thì cũng được yên nghỉ, bởi nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng với người sống trong thời điểm này, còn sống là còn đau khổ. Bóng ma của quá khứ, của thất bại, của chủ nghĩa Đế quốc vẫn còn đó. Mặc cho cuộc chiến đã chấm dứt. Thế hệ của những người như Shikishima bị mắc kẹt ấy luôn tìm một đối tượng để đổ lỗi cho thất bại, cho chết chóc và đau khổ mà họ đang phải gánh chịu. Đó là người thợ máy Tachibana đã đổ lỗi cho Shikishima, khi mà anh đã không đủ dũng cảm để bắn con quái vật Godzilla, dẫn đến toàn bộ những đồng nghiệp của Tachibana phải bỏ mạng trước con quái vật, mặc dù Tachibana thừa hiểu rằng trước 1 sức mạnh tuyệt đối như Godzilla, súng đạn chẳng khác gì một trò đùa. Sau Tachibana thì đến cô hàng xóm Sumiko đổ lỗi cho Shikishima về cái chết của các con cô, và việc Tokyo bị tàn phá, bởi vì cô cho rằng nếu những Kamikaze như anh không hèn nhát thì chuyện đã chẳng ra nông nỗi này. Thế nhưng tất cả đều biết chuyện ấy chẳng thể thay đổi kết quả một cuộc chiến đã an bài. Và để sau những lời trách móc đó, Shikishima đã trách chính bản thân mình, anh dằn vặt, đau khổ khi nhìn thấy 1 đống đổ nát ở Tokyo, anh dằn vặt vì nếu anh sẵn sàng làm nhiệm vụ khi đó, có thể cha mẹ anh vẫn sẽ còn sống. Anh cho rằng mình là kẻ hèn nhát, là kẻ không đáng được sống và việc còn sống là 1 sự hổ thẹn với chính những người dân xung quanh. Anh chưa thể rũ bỏ được quá khứ để hướng tới tương lai. Trong thâm tâm, Shikishima vẫn cứ vô thức tìm đến cái chết, bằng cách này hay cách khác. Anh cho rằng mình không đáng có được hạnh phúc khi bao nhiêu người ngoài kia đã bỏ mạng để cho 1 kẻ như anh được sống. Anh không dám vươn tay ra nắm lấy hạnh phúc dù nó ở ngay trước mắt, tất cả chỉ vì một câu “tôi không đáng được sống” mà anh nhắc đi nhắc lại với chính mình. Đỉnh điểm của sự ám ảnh đó là khi mà Godzilla xuất hiện trở lại, những ám ảnh của quá khứ đã bao trùm lên người lính Nhật năm xưa, những cơn ác mộng ngày dày đặc, 1 hiện thực chỉ còn là 1 con số 0 giờ đây bị đẩy xuống -1, từ đáy của sự tuyệt vọng, sự xuất hiện của Godzilla giống như thể mang đến tuyệt vọng của tuyệt vọng cho người dân Nhật và cho chính Shikishima. Anh đau khổ hơn bao giờ hết, chẳng còn có lấy 1 lý do để thực sự sống, không nhìn thấy hy vọng, không còn trông thấy tương lai. Đã có những lúc đáng lẽ anh đã có thể hạnh phúc bên cạnh cô vợ nhặt Noriko và cô bé Akiko, thế nhưng những ám ảnh về chiến tranh, mặc cảm tội lỗi vẫn cứ đeo bám chính bản thân Shikishima mà anh không thể nào bước tiếp. Anh tin rằng cái hạnh phúc mà anh đang có được bên cạnh Noriko và Akiko chỉ là 1 giấc mơ, còn thực chất là anh đã chết ngoài chiến trường rồi. Nhưng thực tại thì vẫn nằm ở đó, Shikishima vẫn còn sống và anh cần phải sống tiếp. Nhưng cuộc sống trong thế giới này quá tàn nhẫn với chính anh và người dân Nhật lúc bây giờ, việc sống giống như là 1 sự trừng phạt nhiều hơn là 1 điều may mắn, bởi cứ sống trong cái sự ám ảnh như thế này thì sống còn có ý nghĩa gì nữa ? Ngày này qua ngày, Shikishima sống với sự đau khổ khôn nguôi đến từ mặc cảm tội lỗi của người sống sót, nó giống như 1 vòng lặp không thể có hồi kết vậy. Đó chính là tác hại đến từ bóng ma của tinh thần võ sĩ đạo cực đoan, của chủ nghĩa quân phiệt Đế quốc độc hại.
Chúng ta cần trở nên tốt hơn
Thế nhưng vòng lặp nào cũng cần phải kết thúc và những người trong vòng lặp đó cần phải trở nên tốt hơn. Trong những khoảnh khắc tuyệt vọng nhất đó, trong cái thực tại -1 đầy u ám đó, vẫn lóe lên 1 tia sáng hy vọng dù rằng nó vô cùng mong manh. Thế hệ những người lính, những người còn sống sót sau cuộc chiến đó đã dần rũ bỏ quá khứ tối tăm đằng sau để gượng dậy mà chống lại cơn ác mộng mang tên Godzilla, để nắm lấy tương lai và vận mệnh trong lòng bàn tay mình. Người xem chúng ta thấy rõ nhất điều này qua chính Shikishima, khi anh một lần nữa mất hết tất cả trong cuộc tấn công của Godzilla tại Ginza. Shikishima đã sợ hãi mà không nắm lấy hạnh phúc ngay trước mắt, để rồi chỉ còn biết ân hận khi vụt mất Noriko trong đống đổ nát do cơn thịnh nộ của thiên nhiên gây nên. Nếu như lúc trước Shikishima chỉ mơ hồ tìm kiếm cái chết, thì khi đã mất Noriko, anh thực sự muốn lao vào nơi cái chết đang đợi để trả thù. Có lẽ nếu Shikishima khi tham gia kế hoạch tiêu diệt Godzilla vẫn là Shikishima vừa bước ra khỏi cuộc chiến, anh sẽ thật sự lao máy bay vào và chết chung với Godzilla, với cơn ác mộng đã ám ảnh anh, bởi như Shikishima đã nói: cuộc chiến với anh vẫn chưa kết thúc. Đúng vậy, chiến tranh có thể đã kết thúc, nhưng cuộc chiến bên trong người lính không quân Shikishima Koichi vẫn còn và anh sẽ phải tự tay chấm dứt nó. Tuy nhiên, lần này mọi thứ đã khác rất nhiều, anh giờ đây không còn cô độc nữa, anh đã có bạn bè, có người mà bản thân mình muốn hy sinh để bảo vệ. Shikishima hay nói rộng ra là những người dân Nhật Bản, cũng như bao người khác, đã và đang dần bước ra khỏi bóng tối của chủ nghĩa quân phiệt Đế quốc và tinh thần võ sĩ đạo cực đoan để bước ra ánh sáng. Và để làm được điều đó, phim truyền tải đến khán giả thông điệp về sự tích cực mà ở đây là tình yêu thương, tình cảm, sự gắn kết giữa con người với con người trong những hoàn cảnh khốn khó và ngặt nghèo nhất. Bởi từ xưa đến nay con người vượt qua những khó khăn, thử thách mà thế giới này mang đến là nhờ cái gì ? Tình yêu thương, sự đùm bọc, sự kết nối của con người với con người để cùng nhau vượt qua khó khăn và trong Minus One, thông điệp này được truyền tải tới khán giả 1 cách vô cùng thuyết phục và sâu sắc.
Về các nhân vật khác xuất hiện trong Godzilla Minus One, nhìn chung họ đều thể rất tốt vai trò của mình, họ đóng góp 1 phần không nhỏ trong việc phát triển nhân vật chính là Shikishima, đặc biệt là cô vợ nhặt Noriko và anh kỹ sư sửa máy bay Tachibana, 2 người họ đã thực sự cho Shikishima lý do để bước tiếp, để sống, để tồn tại và để hạnh phúc. Bởi vì giờ đây họ không còn chiến đấu để tìm cái chết một cách vô nghĩa. Họ chiến đấu vì tương lai của mình, vì một hy vọng bản thân sẽ có được hạnh phúc. Bởi vì đơn giản thôi, con người ta ai cũng đáng được sống và ai cũng xứng đáng có được hạnh phúc cho riêng mình.
HÌNH ẢNH
Về hình ảnh, kỹ xảo trong Minus One. Mình thực sự đã cực kỳ, cực kỳ shock khi biết được rằng bộ phim này chỉ tiêu tốn chưa đến 15 triệu USD, một con số quá ít ỏi nếu để so với các bom tấn khác mà Hollywood mang đến cho khán giả. Thế nhưng từng thước phim, từng cảnh phim đều được đạo diễn Yamazaki Takashi thực hiện cực kỳ trau chuốt, tỉ mỉ đến từng khung hình. Đặc biệt là phải nói đến thứ đã làm nên thương hiệu cho Godzilla là hơi thở nguyên tử, dù cả phim số lần con quái vật này sử dụng chỉ đếm trên đầu ngón tay, xong mỗi lần dùng chiêu thức này, cảm tưởng như cả 1 quả bom hạt nhân lại được kích nổ vậy và đạo diễn cũng đã rất tinh tế trong việc để vụ nổ mà Godzilla gây ra có hình quả nấm để liên hệ trực tiếp tới thứ vũ khí đã phá hủy nước Nhật năm xưa. Có thể nói hình ảnh của Godzilla Minus One được thực hiện 1 cách quá xuất sắc và tuyệt vời, nó cho thấy được tinh thần làm việc, tình yêu với phim ảnh và sự tôn trọng với 1 biểu tượng trong văn hóa của người Nhật là lớn đến như thế nào. Và Oscar cho hạng mục hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất, là phần thưởng hoàn toàn xứng đáng cho những nỗ lực không ngừng nghỉ của đạo diễn Yamazaki Takashi và đội ngũ của mình.
TỔNG KẾT
Godzilla Minus One thực sự là 1 bộ phim mà đã nó đã thỏa mãn mình, không chỉ ở khía cạnh giải trí mà còn cả ở khía cạnh nội dung. Bộ phim là minh chứng cho việc hãy nỗ lực hết mình, hãy để cho những trí tưởng tượng được bay xa nhất có thể, hãy dồn hết tình yêu, sự nhiệt huyết của mình vào bộ phim thay vì liên tục vắt sữa cho ra các hậu bản, với nội dung ngày 1 nghèo nàn, hãy làm những bộ phim thật chất lượng và rồi người xem sẽ sẵn sàng bỏ tiền ra vì bạn. Mình chấm bộ phim 9.5/10 với những trải nghiệm mà phim đã mang đến cho mình !!!
-
"Godzilla" (1954) là bộ phim kinh điển của Nhật Bản, đánh dấu sự ra đời của một trong những nhân vật biểu tượng nhất trong lịch sử điện ảnh. Phim xoay quanh một con quái vật khổng lồ, Godzilla, được đánh thức từ giấc ngủ sâu dưới đáy biển do các thử nghiệm hạt nhân.
Nội dung chính của phim tập trung vào sự tàn phá mà Godzilla gây ra cho Tokyo, khi nó xuất hiện và phá hủy thành phố. Trong khi quân đội cố gắng tìm cách ngăn chặn quái vật, phim cũng khám phá các chủ đề về chiến tranh, hủy diệt và sự sống còn của nhân loại.
Một trong những điểm nổi bật của "Godzilla" là nó không chỉ đơn thuần là một bộ phim quái vật mà còn mang tính chất phản ánh xã hội, thể hiện nỗi lo sợ của người dân Nhật Bản sau Thế chiến II và những hậu quả của vũ khí hạt nhân. Godzilla trở thành biểu tượng cho sự hủy diệt mà con người có thể gây ra, đồng thời là một nhân vật phức tạp, vừa là kẻ thù vừa là nạn nhân của chính sự phát triển của loài người.
-
Bộ phim Italy thứ hai mình xem trong tuần qua là “Rapito” (tên tiếng Anh là “Kidnapped: The Abduction of Edgardo Mortara” - dịch ra tiếng Việt là “Cưỡng đoạt: Vụ bắt cóc Edgardo Mortara). Đây là một bộ phim chính kịch, lịch sử của đạo diễn Marco Bellocchio, từng được chọn tranh giải Cành cọ Vàng tại LHP Cannes lần thứ 76.
Trong phim, một em bé người Do Thái tên Edgardo Mortara đã chịu lễ rửa tội và bị Nhà nước Giáo hội cưỡng chế đưa đi khỏi gia đình mình và nuôi dạy như một người công giáo. Sự việc này đã châm ngòi cho một chuỗi mâu thuẫn kéo dài hàng thập kỷ sau đó, xoay quanh nỗ lực của gia đình nhà Mortara nhằm đưa cậu con trai bé bỏng trở về nhà.
Sinh ra và sống những năm đầu đời trong một gia đình Do Thái, nhưng lại lớn lên trong lòng Nhà nước Giáo hội và được nuôi dạy theo hệ thống tín điều của một tôn giáo hoàn toàn khác biệt, Edgardo sẽ trở thành một con người như thế nào? Những nỗ lực không ngừng nghỉ của cha mẹ anh liệu có giúp gia đình ấy được đoàn tụ dưới một mái nhà?
Kịch bản của “Rapito” (2023) được giới thiệu là lấy cảm hứng từ cuốn sách “Il caso Mortara” của tác giả Daniele Scalise (đấy là Wiki nói thế). Còn trên thực tế, cả cuốn sách và bộ phim đều được truyền cảm hứng từ một sự kiện có thật - một vụ tranh cãi gây chấn động nước Ý trong các thập niên 1850-1860. Mình có đi đào bới một chút về sự kiện này, thì cơ bản là nó đã được tái hiện khá chính xác (ít nhất các mốc sự kiện chính) trên màn ảnh.
“Rapito” mang đến cho khán giả cùng lúc nhiều tầng bi kịch: bi kịch của thời đại, bi kịch của một gia đình và bi kịch của cá nhân con người. Hai ý sau thì bạn đọc phần tóm tắt bên trên của mình hẳn đã phần nào mường tượng ra. Còn bi kịch lớn của thời đại khi ấy chính là sự suy tàn của Nhà nước Giáo hội - một trong những quốc gia lớn nhất từng tồn tại trên bán đảo Ý từ Thế kỷ VIII cho tới khi bán đảo này bị Vương quốc Sardegna thống nhất năm 1861 và Vương Quốc Ý ra đời năm 1870 (cái này là mình tiếp tục chép bài của Wikipedia 😛)
Nhà Mortara đã làm mọi cách để thu hút sự chú ý của dư luận đương thời vào câu chuyện của mình, để có thể đưa cậu con trai về nhà. Nỗ lực của họ càng khiến cho hình ảnh của Nhà nước Giáo hội - vốn dĩ đã chịu nhiều sóng gió vào thời điểm ấy - thêm hoen ố. Ở chiều ngược lại, việc Giáo hội cương quyết không trả con cho gia đình cũng đẩy nhà Mortara tới chỗ hành động cực đoan.
Nằm giữa cuộc tranh giành ấy là Edgardo Mortara. Bị bắt xa gia đình từ năm lên 6, cậu bé vẫn cố gắng giữ gìn niềm tin tín ngưỡng Do Thái của mình. Nhưng cuộc chiến âm thầm ấy sẽ kéo dài được bao lâu khi cậu bị tách khỏi gia đình và sống giữa một cộng đồng tôn giáo hoàn toàn khác? Và quan trọng nhất, cậu còn là một phần của cộng đồng Do Thái không một khi đã chịu lễ rửa tội của nhà thờ - cũng tức bây giờ cậu đã là con của Chúa?
Trong nửa đầu “Rapito”, khán giả bị cuốn theo cuộc chiến giành con của nhà Mortara; nhưng điểm thú vị thực sự của nó phải nói đến nửa sau phim, khi khán giả (cùng nhân vật chính) khám phá cuộc đời của Edgardo - sản phẩm ra đời từ tình huống trớ trêu của lịch sử. Anh ta tự định nghĩa bản thân mình là ai? Một người Do Thái hay một mục sư công giáo? Sự nhận diện ấy dẫn dắt anh ta bước trên con đường nào? Và con đường ấy sẽ dẫn tới sự tái sinh hay suy tàn?
Cá nhân mình, khi xem “Rapito”, mình nhớ đến một ví dụ (hơi creepy) trong sách giáo khoa Sinh học hồi cấp 2, bài học về môi trường sống ảnh hưởng lên một cá thể - nôm na thế. Đại để là ví dụ ấy kể về hai anh em sinh đôi giống hệt nhau (chắc là cùng trứng) nhưng từ nhỏ họ đã sống ở những nơi rất, rất xa nhau. Đến khi lớn lên gặp lại thì dù khuôn mặt vẫn giống nhau, nhưng tính cách, giọng nói, thói quen, tác phong suy nghĩ của họ đã khác nhau hoàn toàn. Chắc đến đoạn này thì mình cũng không cần kể nốt đoạn kết luận của thí nghiệm.
Vì là một người không theo tôn giáo nào (và có tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên), thì mình cũng không thực sự hiểu được sức mạnh của đức tin nằm bên trong mỗi nhân vật - cũng chính là động lực thôi thúc họ nghĩ những gì họ đã nghĩ và làm những việc họ đã làm. Mình cũng không nghĩ bộ phim nhắm tới việc tái hiện một sự xung đột nào đó giữa các đức tin. Điều mình cảm nhận được từ tác phẩm này là nỗ lực tuyệt vọng của một gia đình để được ở bên nhau, và hành trình đi tìm bản ngã của một người đàn ông với số phận khác thường. Một con đường đầy những trái ngang, bẽ bàng nhưng một khi đã đặt bước chân đầu tiên, họ buộc phải đi đến tận cùng.
-
"The Wandering Earth II" (2023) là phần tiếp theo của bộ phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng "The Wandering Earth". Phim lấy bối cảnh trong tương lai xa, khi Trái Đất đối mặt với một thảm họa lớn và nhân loại phải tìm cách di chuyển hành tinh của mình ra khỏi hệ mặt trời để tránh sự hủy diệt.
Nội dung chính xoay quanh các nỗ lực của con người trong việc xây dựng hệ thống động cơ khổng lồ để đẩy Trái Đất đến một hệ sao mới. Phim khai thác các mối quan hệ giữa con người trong bối cảnh khủng hoảng, những hy sinh cần thiết, và sự đoàn kết trong những thời điểm khó khăn.
Ngoài ra, phim còn khám phá các vấn đề về công nghệ, đạo đức, và tương lai của nhân loại khi phải đối mặt với những thách thức chưa từng có. Với các hiệu ứng hình ảnh ấn tượng và cốt truyện sâu sắc, "The Wandering Earth II" tiếp tục phát huy tinh thần của phần trước và mở rộng thế giới của nó.
-
Bạn thích xem một bộ phim như thế nào? Một bộ phim khiến bạn cười để rồi quên, hay lắng lại để suy ngẫm với những thông điệp? Một bộ phim dày đặc những nút thắt mở khiến bạn không thể rời mắt khỏi màn hình từ đầu đến cuối, hay một bộ phim với những đoạn kết không thể đoán định và tràn đầy bất ngờ?...
Hôm nay tôi muốn nói về một bộ phim rất đơn giản, một bộ phim mà bạn sẽ xem như thể đi từ A đến B, đi thẳng, không dừng lại hoặc rẽ ngang, cũng chẳng có nút thắt mở khó đoán nào, một bộ phim trần trụi điện ảnh, xem xong bạn có thể có một chút buồn, một chút ám ảnh, một chút đau đớn, nhói lòng, hoặc cũng có thể là không gì cả, tùy theo mức độ mà bạn cảm nhận. Tôi muốn nói về A Bittersweet Life - Cuộc đời ngọt đắng.
Sở dĩ tôi nói bộ phim này đơn giản bởi nội dung phim hầu như không có gì để kể với những diễn biến cũng vô cùng dễ đoán: Một gã tay sai tên Sun Woo sống cuộc đời khá nhàm chán, bề ngoài là quản lý khách sạn còn bên trong là tay chân đáng tin cậy của một tên trùm xã hội đen. Một ngày nọ Sun Woo được ông trùm giao cho nhiệm vụ khá nhẹ nhàng: theo dõi và chăm sóc cô bồ nhí của ông ta trong lúc ông trùm đi công tác Thượng Hải. Cô bồ nhí bị ông trùm nghi có nhân tình khác, và Sun Woo được lệnh thủ tiêu cả cô nàng lẫn gã nhân tình trẻ tuổi nếu phát hiện đôi trẻ có hành động "vượt quá giới hạn".
Chuyện không có gì đáng nói nếu như trong giờ phút quyết định, Sun Woo lại yếu lòng và tha chết cho cô bồ nhí lẫn gã nhân tình của cô. Mọi chuyện bị ông trùm phát giác và Sun Woo, từ một tay chân tin cẩn đã trở thành mục tiêu truy đuổi của nhiều bè phái xã hội đen, sống một cuộc đời không bằng chết... Bắt đầu từ đây, bộ phim tái hiện các cuộc thanh trừng đẫm máu và cuối cùng là một cái kết tàn khốc dành cho tất cả...
Nhìn lần một, bạn sẽ thấy A Bittersweet Life là một hành trình thẳng tắp, tái hiện lại thế giới khốc liệt của các băng nhóm xã hội đen chỉ có máu me và chém giết. Nhìn lần hai, bạn có thể cười mai mỉa một chút khi chứng kiến cái chết của rất nhiều con người có thể vì một tình yêu ngây thơ bất chợt nào đó của gã tay sai máu lạnh dành cho cô bồ nhí của ông chủ gã, những cái chết khiến bạn tặc lưỡi "rốt cuộc cũng chỉ chết vì đàn bà".
Nhìn lần ba, bạn lại thấy không phải là cái chết ngu ngốc vì đàn bà, và vượt ra ngoài những cuộc chém giết hận thù, đó là câu chuyện về một con người khát khao được làm điều đúng đắn nhưng không thể, một kẻ dám ước mơ và phải trả giá quá đắt cho ước mơ của mình...
Sun Woo suốt đời sẽ sống cuộc đời nhàm chán, vô dụng, không mục đích và cũng đơn giản như thể bóng đèn tắt đi rồi bật sáng trong căn phòng của gã mỗi tối đi ngủ và mỗi sáng tỉnh dậy nếu như nhân vật cô bồ nhí không xuất hiện. Cuộc sống của cô gái ấy sôi động và nhiều màu sắc quá khiến gã choáng ngợp. Và đó là khi cuộc đời gã thay đổi, vào buổi sáng mà gã thức dậy rồi chợt nghĩ "Người ta cũng cần có cuộc sống của mình". Sun Woo không làm điều gì sai, gã chỉ có ước mơ được làm một điều đúng đắn trong đời, đó là tha thứ cho hai người yêu nhau. Nhưng gã lại phải trả giá quá đắt cho ước mơ ấy.
Sun Woo không hiểu mình sai ở đâu, đó là lý do gã tìm đến tất cả những kẻ đã biến đời gã trở nên khốn khổ chỉ để hỏi: "Tại sao lại làm thế với tôi?". Và cho đến lúc chết, Sun Woo cuối cùng cũng không có được câu trả lời. Hình ảnh Sun Woo nằm trong vũng máu và kể câu chuyện về cậu học trò bật khóc trong đêm chỉ vì lỡ mơ một giấc mơ đẹp có lẽ là hình ảnh mang tính biểu tượng nhất của bộ phim đơn giản và khốc liệt này.
Chuyện kể vào một đêm cuối thu, cậu học trò bất chợt thức dậy và khóc. Người thầy của cậu hỏi: "Con mơ thấy ác mộng à?". "Không!" - cậu học trò trả lời. "Vậy hẳn là một giấc mơ buồn?" - người thầy lại hỏi. "Không!" - cậu học trò đáp - "Con đã mơ một giấc mơ ngọt ngào". "Vậy tại sao con lại khóc?". Cậu học trò lau nước mắt và lặng lẽ nói: "Bởi vì giấc mơ, nó sẽ không bao giờ thành hiện thực"...
Cuộc đời của chúng ta đôi khi vẫn diễn ra theo những cách tréo ngoe như vậy. Sinh ra đã là một hành trình khổ đau, và ai cũng có những bi kịch của riêng mình. Với Sun Won, bi kịch của gã chính là việc dám hy vọng vào những điều đúng đắn và đẹp đẽ, dám ước mơ về lòng nhân ái vượt quá tầm hiểu biết của đám xã hội đen cả đời chỉ biết chém giết quanh mình.
Tôi cũng yêu cách mà đạo diễn tài năng Kim Jae Woon lựa chọn để tái hiện lại câu chuyện bi kịch của Sun Won trong A Bittersweet Life. Tôi yêu những điểm nhấn đơn giản mà ấn tượng như nụ cười thanh khiết của cô bồ nhí lúc chơi đàn, đôi vai trắng ngần rung rung theo tiếng nấc khi khóc, đôi môi xinh xắn khi ăn... những hình ảnh nhẹ nhàng, trong sáng ấy đã giúp thay đổi cả một con người - kẻ tay sai máu lạnh như Su Won.
Hay cả cảnh quay Su Won băng băng đi vào khách sạn - nơi gã nổ súng giết chết tất cả những kẻ đã từng hành hạ gã. Cái không gian tăm tối, mờ mịt, lạnh lẽo với những cấu trúc ngóc ngách vòng vèo, luẩn quẩn y như cuộc đời không lối thoát của Su Won. Đó cũng là nơi Su Won bước vào và nói với ông chủ của gã: "Đây là nơi cuối cùng của tôi, tôi không còn nơi nào để đi nữa!".
Khác với các đạo diễn lựa chọn biến những câu chuyện đơn giản trở nên phức tạp bằng cách cố lồng ghép vào đó những nút thắt, hay những diễn biến xoay chiều, Kim Jae Woon lại chọn đơn giản hóa hết mức có thể câu chuyện của A Bittersweet Life. Tác phẩm này tồn tại với tất cả linh hồn của nó phơi bày ra trước mắt khán giả. Và khi cuộc tàn sát kết thúc, bạn nhận ra tất cả chính là đây: tinh khiết và giản dị, náo nhiệt và cả tĩnh lặng, có máu và rất nhiều máu, một bộ phim trung thực không có gì để che giấu. Bạn có thể yêu và không yêu, tùy theo cách cảm nhận của bạn, A Bittersweet Life là một bộ phim như thế!
-
Câu chuyện về gia đình Von Erich được nhiều người hâm mộ môn đấu vật chuyên nghiệp biết đến. Thường được coi là một trong những câu chuyện bi thảm nhất trong lịch sử đấu vật, đó là một câu chuyện chứa đựng rất nhiều tổn thương, sự tự hủy hoại và đau buồn đến nỗi việc nắm bắt được toàn bộ phạm vi của nó chỉ trong hai tiếng rưỡi sẽ là một điều khó khăn. nhiệm vụ khó khăn đối với bất kỳ bộ phim nào. Đối với tín dụng của nó, Móng vuốt sắt hầu hết thành công khi làm điều đó. Về nhiều mặt, bộ phim chính xác là bộ phim mà những người hâm mộ môn đấu vật vừa háo hức mong đợi vừa sợ hãi.
Với những hình ảnh mở đầu đen trắng đầy u ám, Móng vuốt sắt thiết lập một cách hiệu quả nỗi kinh hoàng và bi kịch gia đình sắp xảy ra, nhưng không rõ ràng đến mức màn đầu tiên tươi sáng, ngập nắng và yên bình đến khó tin của bộ phim không thể ru bạn vào cảm giác an toàn giả tạo. Khi biên kịch kiêm đạo diễn Sean Durkin liên tục kéo tấm thảm ra khỏi người bạn trong nửa sau của phim, không phải lúc nào anh ấy cũng làm điều đó một cách hiệu quả nhất có thể. Tuy nhiên, những gì mà nhà biên kịch kiêm đạo diễn mang lại là một bộ phim thể thao không giống bất kỳ bộ phim nào khác – một bộ phim biện minh hoàn toàn cho cả sự mong đợi và sự do dự từ lâu của những người quen thuộc với những khúc mắc trong câu chuyện đau đớn của nó.
Vì những lý do sẽ chỉ rõ ràng ngay lập tức đối với những người biết đầy đủ về các sự kiện trong đời thực đã truyền cảm hứng cho nó, Móng vuốt sắt theo sát Kevin Von Erich (Zac Efron), con trai của Fritz Von Erich (Holt McCallany đóng vai hoàn hảo), một cựu đô vật chuyên nghiệp nghiêm khắc và ngu ngốc, người đã truyền ước mơ của mình cho từng đứa con của mình. Sau cảnh mở đầu đen trắng, nhanh chóng khiến người xem bị mắc kẹt trong sự tàn bạo đẫm mồ hôi của một trong những trận đấu của Fritz, bộ phim bắt đầu vào cuối những năm 1970 khi Kevin đang trong quá trình vươn lên trong thế giới đấu vật chuyên nghiệp.
Các em trai của ông, David (Harris Dickinson) và Kerry (Con gấu ngôi sao Jeremy Allen White), không hề kém xa anh ấy. Cả ba cậu bé đều mong muốn làm cho cha mình tự hào và mang môn đấu vật chuyên nghiệp nổi tiếng về cho gia đình mà Fritz chưa bao giờ làm được. Em trai út của họ, Mike (Stanley Simons), là người duy nhất trong số họ chống lại yêu cầu của Fritz – thiên về sự nghiệp âm nhạc hơn cuộc đời chiến đấu trên võ đài. Mong muốn được đi trên con đường riêng của Mike, kết hợp với sở thích chung của David, Kerry và Kevin là đi theo bước chân của cha họ, đã tạo nên nền tảng đầy sóng gió về mặt cảm xúc cho Móng vuốt sắtcâu chuyện về chấn thương thế hệ và nam tính độc hại.
Tất cả các ý tưởng của bộ phim đều được đưa ra dưới góc nhìn của Kevin của Efron, người mà trong mắt Fritz, kỹ năng trên võ đài không sánh kịp với thể lực ở cấp độ Olympic của Kerry hay khả năng trình diễn vô song của David. BẰNG Móng vuốt sắtVới vai trò dẫn dắt ngây thơ nhưng tinh ý, Efron ở đây trở nên dịu dàng hơn bao giờ hết. Trong toàn bộ thời gian của bộ phim, Durkin chỉ cho phép Efron ba cơ hội để bộc lộ cảm xúc mãnh liệt của nhân vật, điều đó có nghĩa là anh buộc phải truyền đạt những tác động của những yêu cầu phi thực tế của Fritz và phong cách nuôi dạy con cái vô cảm của mình một cách im lặng nhất có thể. May mắn thay, Efron đã nắm bắt kịp thời cơ – mang đến một màn trình diễn rõ ràng, có cảm giác sâu sắc, khai thác được vàng từ sự kết hợp giữa nỗi đau ở mắt và sự ấn tượng của vóc dáng đấu vật của anh ấy.
Efron nổi lên như Móng vuốt sắttài sản lớn nhất của anh ấy, nhưng Durkin không lạ gì khi khám phá kiểu nam tính độc hại không chỉ là trung tâm của bộ phim mới nhất của anh ấy mà còn là nguyên nhân của vô số bi kịch trong đó. Như trường hợp của cả hai Martha Marcy May Marlene Và Cái tổTuy nhiên, cách xử lý chủ đề của Durkin tỏ ra quá hạn chế và quá nhạy bén. (Một khoảnh khắc ở cuối phim khi một nhân vật trẻ khăng khăng với Kevin của Efron rằng khóc cũng được, gần như không đạt được kết quả tốt như Durkin dự định.) Quyết định của nhà làm phim loại bỏ một trong những anh em nhà Von Erich khỏi Móng vuốt sắt và chơi nhanh và lỏng lẻo với các tình tiết khác trong câu chuyện đời thực của nó cũng gây ra một số vấn đề xuyên suốt bộ phim.
Đặc biệt, màn thứ ba của nó có nhịp độ không đồng đều xuyên suốt, khi Durkin cố gắng không thành công trong việc vạch ra một chương khó khăn trong cuộc đời Kevin đồng thời sắp đặt các sự kiện trong những phút cuối đầy tan vỡ của nó. Mặc dù nửa đầu đã mở đường cho nửa sau một cách hiệu quả, Móng vuốt sắt không bao giờ đạt được cảm giác liên tục về phía trước, điều này cản trở nó một chút và ngăn cản nó đạt được cảm giác bi kịch mà câu chuyện của nó đảm bảo. Bộ phim tiến gần đến việc nổi lên như một bộ sử thi chính thức của Mỹ. Tuy nhiên, việc nó không đạt được những độ cao đó không có nghĩa là đó là một nỗ lực hoàn toàn không thành công.
Ngược lại, Móng vuốt sắt là một trong những bộ phim truyền hình có ảnh hưởng nhất trong năm. Đó là một bộ phim đi sâu vào một thế giới hiếm khi được khám phá trên màn ảnh và đưa ra một số lý do thuyết phục giải thích tại sao nó luôn là nguồn gốc của nỗi đau và cái chết trong nhiều năm qua. Với Efron là người dẫn đầu và những nghệ sĩ hỗ trợ nổi bật như Dickinson, McCallany và White vây quanh anh ấy, Móng vuốt sắt cũng đạt được mức độ xem xét nội tâm đầy cảm xúc mà trên giấy tờ có vẻ trái ngược với câu chuyện sâu rộng và tàn khốc không ngừng nghỉ của nó. Trong khi đó, Lily James lại thể hiện xuất sắc vai Pam, người yêu có ý chí mạnh mẽ và đồng cảm của Kevin, điều này giúp bộ phim dễ dàng tránh đắm mình quá lâu trong nỗi đau khổ không thể tránh khỏi ở nửa sau.
Phía sau máy quay, Durkin ngăn cản Móng vuốt sắt từ việc chuyển sang loại trải nghiệm mệt mỏi về mặt cảm xúc mà lẽ ra nó có thể xảy ra. Anh ấy không nán lại quá lâu ở bất kỳ khoảnh khắc kinh hoàng nhất nào của bộ phim và trình bày sức nặng của chúng một cách thực tế nhất có thể. Do đó, hiệu ứng tổng thể của bộ phim không mang tính tấn công nhiều mà khiến người xem mất phương hướng. Một số người có thể coi đó là một thất bại của bộ phim, số khác lại cho rằng đó là một điều đáng tiếc. Dù thế nào đi nữa, Móng vuốt sắt có thể không đánh với lực mạnh như cú văng ếch thắng trận, nhưng nó có kết nối.
-
Điều đầu tiên, tớ muốn gợi nhắc đây là một bộ phim 18+, mà chắc chẳng cần phải nói lại (18+) có nghĩa là gì nhỉ. Bộ phim chân thật và đẹp như chính con người Pháp, ngay cả ở những thứ trần trụi nhất, ta vẫn thấy được cái đẹp, vậy thôi. Phim được dựng trên bối cảnh của những năm 60s, trên nền của cuộc chiến tranh Việt Nam, của những cuộc biểu tình của học sinh, sinh viên tại Paris.
Bộ phim xoay quanh, đặc tả cuộc sống của 3 cô cậu học sinh Matthew (Michael Pitt), Isabelle (Eva Green) và Theo (Louis Garrel) – ‘The dreamers’ của câu chuyện này. Họ là những con người có niềm đam mê vô hạn với phim ảnh, với những cách suy nghĩ lạ lùng so với lứa tuổi, và những giấc mơ.
Isabelle và Theo là hai anh em sinh đôi dính liền (theo như Theo nói, và họ cùng có một vết sẹo, hoặc bớt ở bên tay phải). Còn Matthew là sinh viên người Mỹ đến Paris để học, và cả ba đã gặp nhau lần đầu tiên tại rạp chiếu phim. Ở cặp sinh đôi có điều gì đó cuốn hút tới nỗi Matthew đã phải thốt lên rằng, ‘Cậu đã yêu họ ngay từ lần đầu tiên gặp họ’
Bộ phim dẫn dắt người xem từ những sở thích hết sức bình thường của bộ ba cho đến những suy nghĩ vô cùng kỳ quặc. Họ đi dạo cùng nhau, trò chuyện, chạy dưới mưa, ăn bữa tối với gia đình, nghe nhạc, đọc sách và bàn luận về phim ảnh. Điều đặc biệt là họ không chỉ yêu thích phim ảnh, họ còn diễn tả lại những cảnh trong phim. Họ tự do, cuồng loạn và tò mò.
Bộ phim rẽ sang một hướng khác khi Isabelle bắt người anh Theo của mình phải ‘tự sướng’ trước mặt cô và Matthew vì thua cược trong câu đố phim ảnh. Họ bước chân vào dục vọng, chìm đắm trong nhau, làm tình cùng nhau và quên đi thế giới bên ngoài. Matthew từng nói rằng cặp sinh đôi như hai nửa của một con người, rằng cậu yêu và trân trọng cả hai.
Nhưng giữa cặp sinh đôi có một sự kết nối của Matthew không sao xen vào được. Họ ngủ trên cùng một giường, tắm chung, ở bên nhau gần như nửa cuộc đời. Họ không san sẻ nửa kia cho ai cả, Họ ở trong nhau, theo một cách tinh khiết nhất.
Theo tớ nghĩ thì với mỗi người xem khác nhau, bộ phim sẽ mang một ý nghĩa khác nhau, hoặc chẳng có ý nghĩa quái gì. Nhưng xem thì đừng xem trước mặt gia đình nhé, nhìn ảnh tớ lấy từ tumblr xuống thì chắc mọi người cũng rõ bộ phim này nhạy cảm đến cỡ nào rồi. Việc cởi trần truồng đứng giữa nhà là chuyện hết sức bình thường nhé.
Riêng bản thân tớ để nói về bộ phim này, thì tớ nghĩ nó không chỉ nói về dục vọng, nó là những giấc mơ mà ta mong mỏi cứ như vậy mãi, nhưng rồi một ngày tỉnh dậy, ta nhận ra giấc mơ vốn không có thực. Và ta sẽ lại phải sống với hiện tại.
-
Cady Heron là một cô bé 16 tuổi sinh trưởng ở châu Phi và được giáo dục tại gia từ nhỏ. Bộ phim xoay quanh những tình huống dở khóc dở cười mà cô gặp phải khi lần đầu tiên bước chân vào trường trung học. Tại trường trung học North Shore ở Evanston, Illinois, với sự giúp đỡ của Janis và Damian, Cady biết thêm nhiều điều về những nhóm học sinh ở đây, đặc biệt là nhóm Plastics mà cô nên đặc biệt tránh xa. Nhóm này gồm có Gretchen Wieners - một cô gái giàu có nhưng hay tự ti về bản thân, Karen Smith - tốt bụng, đáng yêu nhưng ngốc nghếch và dẫn đầu bộ ba Plastics là cô nàng Regina George độc mồm, một thời từng là bạn thân của Janis, nhưng trở nên căm ghét nhau từ năm lớp 8 khi Regina tung tin đồn Janis là đồng tính nữ. Tuy nhiên, nhóm Plastics đã chú ý tới Cady, mời cô ngồi ăn trưa chung và đi mua sắm sau giờ học. Biết được nhóm Plastics chấp nhận Cady vào hội, Janis đã vạch ra kế hoạch trả thù Regina, thuyết phục Cady làm gián điệp để phá hoại nhóm Plastics.
Trong lúc lấy lòng nhóm Plastics để thực hiện âm mưu của Janis, Cady biết được về quyển sách "Burn Book", trong đó viết những tin đồn phỉ báng và bí mật về các nữ sinh và cả giáo viên trong trường. Lúc này, Cady đã đem lòng thầm thương trộm nhớ bạn trai cũ của Regina là Aaron Samuels. Regina khi biết được chuyện này đã tìm cách cướp lại Aaron khi hôn anh chàng ở bữa tiệc Halloween trước mặt Cady. Cady sau đó nổi cơn thịnh nộ và trở nên căm thù Regina. Cô cùng Janis tiếp tục vạch ra âm mưu tiêu diệt 3 điều quan trọng nhất đối với Regina là: chia cắt cô khỏi anh bạn trai Aaron, hủy hoại nhan sắc Regina và khiến hai thành viên kia trong nhóm Plastics chống lại cô. Cady và Damian đã nhiều lần tìm cách khiến cho Aaron bắt quả tang Regina mèo mả với anh bạn trai khác nhưng đều thất bại. Sau đó, Cady giả vờ bị điểm kém môn Toán dù cô học rất tốt môn này, để nhờ Aaron kèm cặp cô tại nhà, rồi tình cờ buột miệng khai chuyện Regina "cắm sừng" Aaron, khiến anh chia tay Regina. Không dừng lại, Cady dụ dỗ Regina ăn những thanh kẹo dinh dưỡng giàu calo gọi là Kälteen để cô trở nên béo ú, dù Cady nói dối đó là kẹo để giảm cân. Cady còn khiến Gretchen chống lại Regina bằng cách khiến cô nghĩ Regina xem Cady là bạn tốt hơn Gretchen.
Trong khi trả thù Regina, Cady dần dần đánh mất chính mình và trở nên độc ác không kém Regina, bỏ mặc hai người bạn Damian và Janis. Regina lúc này tăng cân vì những thanh kẹo quỷ quái của Cady và bị khai trừ khỏi nhóm Plastics, Cady trở thành "nữ hoàng" mới của nhóm. Cô tổ chức một bữa tiệc tại nhà, nói dối bố mẹ, Janis, Damian và không mời Regina. Janis và Damian phát hiện ra đã khước từ quan hệ bạn bè với Cady. Con người mới của Cady cũng khiến cho Aaron xa lánh cô. Còn Regina nổi điên khi biết được chuyện về những thanh kẹo.
Sau đó, Regina trả thù bằng cách phát tán toàn bộ nội dung cuốn sách "Burn Book" cho cả trường, tuy nhiên để tránh bị nghi ngờ, cô đã thêm một trang nói xấu chính mình vào trong đó, nhằm vu tội cho Cady, Gretchen và Karen. Việc làm của Regina đã khiến một cuộc đánh nhau bùng nổ giữa các nữ sinh trong trường. Sau đó, nó bị dập tắt bởi thầy hiệu trưởng Duvall. Cô giáo dạy Toán Norbury - người bị Cady vu khống là bán ma túy trong cuốn sách - đã giúp các nữ sinh nhận ra họ đều có lỗi khi bêu xấu người khác. Cô giáo cho mỗi nữ sinh đứng lên và xin lỗi trước các bạn còn lại. Tại đây, Janis khai nhận âm mưu chơi xỏ Regina và móc mỉa Regina trước mặt cả trường. Regina tức giận xông ra, Cady chạy theo sau xin lỗi cô và trong lúc tranh cãi Regina bị một xe buýt của trường học đụng phải. Mọi người đồn đại rằng Cady đã xô Regina vào đường chạy của xe.
Nay bị cả trường khinh ghét, Cady quyết định sửa chữa lỗi lầm bằng cách nhận mọi trách nhiệm về cuốn Burn Book. Dù chịu nhiều hình phạt nghiêm khắc, nhưng nỗi cắn rứt trong lòng Cady được giải tỏa và cô trở về con người thật của mình. Còn cô giáo Norbury "phạt" Cady bằng cách cho cô vào đội tuyển Toán để đi thi. Khi thi, Cady phải đấu với một cô gái xấu xí của đội bên kia. Lúc đó, Cady nhận ra dù cô có trêu chọc ngoại hình của cô gái ấy thì vẫn không thể ngăn việc cô ta đánh bại mình. Cady đã thắng cuộc thi và kịp trở về trường tham gia dạ hội.
Tại đấy, Cady được bầu làm nữ hoàng của dạ hội. Cô phát biểu rằng chiến thắng của mình là vô nghĩa, mỗi người đều xinh đẹp theo cách của riêng mình và bẻ chiếc vương miện chia cho mọi người. Sau đó, cô hàn gắn quan hệ với Janis, Damian và anh chàng Aaron, giảng hòa với nhóm Plastics.
Bộ phim kết thúc bằng cảnh năm học mới, nhóm Plastics tan rã. Regina tham gia môn thể thao bóng vợt để tận dụng sự giận dữ của mình vào hướng tích cực. Karen thành người dự báo thời tiết của trường vì cô nói ngực cô có thể cảm nhận khi nào trời sắp mưa. Gretchen gia nhập nhóm "châu Á sành điệu". Còn Cady cặp với Aaron. Và ở khóa học sinh mới vào, tiếp tục xuất hiện một nhóm Plastics mới.
-
“Điều tệ nhất của tuổi già là gì?” Người đàn ông lạ mặt hỏi Straight, ông lão đang trên hành trình vượt 500 dặm để gặp gỡ anh trai trong A Straight Story (Câu chuyện về Straight, 1999). “Điều tệ nhất à?” Lão trả lời. “Đó là nhớ lại ngày ta còn trẻ.”
Đó là một trong nhiều câu thoại thấm thía mà người xem sẽ được thưởng thức trong The Straight Story. Một qui luật và trải nghiệm mỗi chúng ta đều phải trải qua: Người trẻ ít khi nghĩ đến tuổi già, nhưng người già luôn bị lấp đầy bởi ý nghĩ về tuổi trẻ. Qua giọng nói và đôi mắt xanh u sầu của Alvin, được vào vai tuyệt vời bởi nam diễn viên gạo cội Richard Farnsworth, cảnh phim trở thành một câu chuyện ngụ ngôn, chắt lọc tinh túy cuộc đời thành những bài học giản dị.
The Straight Story là tập hợp nhiều câu chuyện như thế, trên con đường rong ruổi của Alvin ở vùng Trung Tây nước Mĩ. 73 tuổi, lão bỏ lại con gái thiểu năng Rose (Sissy Spacey) và thị trấn yên ắng như chính tuổi già, tìm gặp ông anh trai vừa bị đột quị sống dở chết dở. Quá già để lái xe hơi, Alvin lên đường bằng chiếc máy cắt cỏ. 300 dặm đường trên một phương tiện chỉ dùng trong sân vườn. Nhiều người sẽ nghĩ đây là chi tiết điện ảnh được làm quá, cho đến khi biết câu chuyện này dựa trên sự kiện có thật.
Hành trình gặp anh trai của Alvin chính là hành trình tìm về quá khứ. Trên đường đi, lão gặp gỡ với nhiều người khác nhau từ trẻ đến già, hé lộ các chi tiết đời mình. Từ những ngày thơ ấu cùng anh trai ngắm sao trên đồng, khoảng thời gian quân ngũ với cả niềm tự hào và tội lỗi, cuộc hôn nhân dài lâu với vợ… Nhưng không giống lời kể lể dài dòng của hầu hết người già, lời của Alvin như được rút ra từ truyện của Enest Hemingway, ngắn gọn, tinh tế và hàm chứa ý nghĩa. Dù vậy, hành trình này không chỉ của riêng Alvin. Đó còn là câu chuyện nhân sinh từ những người lạ mặt. Mỗi vị khách trên đường lại mở ra một cảnh đời, một tâm sự, góp vào bức tranh đời sống vùng nông thôn nước Mĩ.
Đây là một tác phẩm khác lạ của David Lynch, đạo diễn nổi danh với các phim siêu thực như Mulholland Drive (2001) hay Twin Peak (1989 – 1991). Không còn là những con phố tăm tối, chứa đựng các bí mật đáng sợ, mà là những cánh đồng lúa vàng hiền hòa rung rinh theo gió. Các bản nhạc đồng quê êm dịu dẫn dắt Alvin qua từng cuộc gặp một cách nhẹ nhàng. Những khung hình rộng tuyệt đẹp bắt lấy không gian miền quê và đưa người xem vào đó. Ta như ở cùng Alvin khi lão tắm mình dưới ánh nắng đầu Hè hay ngắm mưa rơi dưới mái nhà kho giữa đồng.
Mỗi bộ phim hành trình hay luôn phải mở ra một thế giới chưa biết. Straight Story là một chuyến đi dễ chịu và thư thái, mở ra cảnh sắc và con người vùng Trung Tây. Kịch bản đầy đặn của bộ đôi John Roach và Mary Sweeney đưa vào nhiều chi tiết thú vị. Trong một cảnh kịch tính hiếm hoi, Alvin suýt nữa thì lao xe xuống một đám cháy diễn tập. Ở bên kia đường, một gia đình vừa nằm tắm nắng, vừa ăn bỏng ngô và xem lính cứu hỏa tập luyện. Sự ảm đạm của đời sống nông thôn Mĩ hiện lên ngay trước mắt người xem, mà không cần lời giải thích nào.
Lynch dẫn dắt bộ phim như một cậu trò ngoan làm bài tập, chuẩn mực và rành mạch. Nhưng khi cần, ở những cảnh đắt giá, ông xử lí chúng theo lối tinh tế của một bậc thầy. Câu chuyện của Straight Story rất dễ sa vào hoài niệm và ướt át, nếu đạo diễn thiếu đi sự nhạy cảm. Bỏ đi phong cách đen tối phức tạp, Lynch mang đến thứ điện ảnh dung dị và cảm động của sự thật. Sự thật tối giản và dễ hiểu, nhưng luôn khơi gợi suy tư, dù là một câu thoại hay hình ảnh. Như chi tiết đám củi khô được cột chặt khi Alvin gặp gỡ cô bé bụi đời. “Một cây củi thì dễ bẻ gãy, nhưng một bó củi thì không.” Hay khi lão nhắc nhở hai anh em sinh đôi cãi nhau ở tiệm sửa xe… Thứ điện ảnh quí không dễ tìm thấy.
Mỗi bộ phim xuất sắc đều sở hữu một diễn viên xuất sắc. Với Straight Story đó là Richard Farnsworth, nam diễn viên đã gắn bó với nghiệp diễn từ thập kỉ 30. Sự nghiệp của ông cũng chính là lịch sử điện ảnh. Farnsworth vào vai Alvin khi là chính Alvin, độ tuổi 70 với bệnh ung thư và nỗi sợ hãi cái chết. Người ta thường nói về những trường hợp xuất thần, khi nhân vật và diễn viên là một, Alvin là một trong số đó. Gương mặt già cỗi nhưng toát lên vẻ ương bướng, kiêu hãnh của Farnsworth là điều gắn kết mọi thứ trong bộ phim.
Không chỉ Farnsworth, mỗi gương mặt xuất hiện đều để lại ấn tượng khó quên. Mỗi nhân vật mang đến một số phận đáng tin, với thông điệp và cảm xúc riêng. Người xem sẽ khó ngăn được tiếng thở dài khi biết vì sao Rose không ở bên con cái, hay đau xót trước câu chuyện về anh lính bắn tỉa, hoặc rơi nước mắt khi anh trai của Alvin xuất hiện. Bởi vì, The Straight Story đủ sức mạnh để khiến chúng ta cảm thấy họ như những người thân gần gũi xung quanh mình.
Để cuối cùng, điều đọng lại trong người xem là sự ấm áp và hài lòng. Ấm áp vì một đoạn kết giàu cảm xúc và hài lòng vì các giá trị nhận được lớn hơn nhiều 2 giờ đồng hồ bỏ ra. The Straight Story là bộ phim mà trữ lượng hơn rất nhiều thời lượng. Các bài học mà Alvin gửi gắm không mất đi khi hành trình của lão kết thúc, mà sẽ tiếp tục với hành trình của riêng mỗi chúng ta.
-
The Lavender Hill Mob (1951) là một bộ phim hài tội phạm của đạo diễn Charles Crichton, với sự tham gia của Alec Guinness và Stanley Holloway. Phim xoay quanh nhân vật Henry Holland (do Alec Guinness thủ vai), một người lãnh đạo yếu ớt làm việc tại một nhà máy sản xuất đúc tiền ở London.
Khi Holland nảy ra ý tưởng cướp tiền bằng cách sử dụng công nghệ sản xuất của nhà máy, anh cùng với một tên tội phạm nhỏ (Stanley Holloway) lập kế hoạch cho vụ trộm. Họ lên kế hoạch tinh vi để tạo ra những đồng tiền giả và dự định vận chuyển chúng ra nước ngoài.
Phim khéo léo kết hợp giữa hài hước và căng thẳng, thể hiện quá trình chuẩn bị cho vụ cướp và những rắc rối mà họ gặp phải. Câu chuyện dẫn dắt người xem qua nhiều tình huống dở khóc dở cười, cho đến khi mọi thứ đi vào ngõ cụt. Bộ phim được đánh giá cao về khả năng châm biếm và phong cách hài hước tinh tế, cũng như màn trình diễn xuất sắc của dàn diễn viên.
Phim đã nhận được nhiều lời khen ngợi và được xem là một trong những tác phẩm kinh điển của điện ảnh Anh.
-
"1984" (1984) là bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của George Orwell, do Michael Radford đạo diễn. Phim diễn ra trong một xã hội dystopian ở tương lai, nơi chính quyền toàn trị kiểm soát mọi khía cạnh của đời sống con người.
Câu chuyện theo chân Winston Smith, một nhân viên của Đảng sống ở thành phố London, nơi mà "Big Brother" (Ông Lớn) luôn theo dõi công dân. Winston làm việc tại Bộ Sự Thật, nơi anh chỉnh sửa lịch sử để phục vụ cho tuyên truyền của Đảng. Tuy nhiên, trong thâm tâm, Winston bắt đầu hoài nghi về chế độ độc tài và khao khát tự do.
Winston bắt đầu một mối quan hệ bí mật với Julia, một đồng nghiệp, và họ cùng nhau tìm cách nổi dậy chống lại Đảng. Nhưng sự theo dõi của chính quyền là rất chặt chẽ, và cả hai phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng khi hành động của họ bị phát hiện.
Bộ phim mang đến một cái nhìn sâu sắc về sự kiểm soát, sự mất tự do và nỗi sợ hãi trong một xã hội toàn trị. Với diễn xuất mạnh mẽ của John Hurt (Winston) và Richard Burton (O'Brien), "1984" đã trở thành một tác phẩm kinh điển phản ánh những lo ngại về quyền lực và sự kiểm soát trong xã hội hiện đại.
-
Bạch phát ma nữ truyện là một tác phẩm kiếm hiệp vào loại nổi tiếng nhất của Lương Vũ Sinh, bằng chứng là nó đã được chuyển thể thành phim điện ảnh và truyền hình rất nhiều lần, nhưng chắc chắn phiên bản 1993 do Vu Nhân Thái thực hiện vẫn sẽ được coi là phiên bản xuất sắc nhất.
Trác Nhất Hàng (Trương Quốc Vinh) là đại đệ tử của phái Võ Đang với tài nghệ vào loại hàng đầu trong Bát đại môn phái. Anh là niềm hy vọng của cả phái Võ Đang và giang hồ trong cảnh loạn lạc cuối đời nhà Minh tuy nhiên Nhất Hàng lại chẳng màng chức vị hay danh tiếng, anh chỉ thích đối tửu cùng người bạn lâu năm Ngô Tam Quế (Cao Hùng Sơn - người thủ vai Lâm Xung trong loạt phim truyền hình cùng tên) và tơ tưởng tới người trong mộng của anh - nàng Lang nữ (Lâm Thanh Hà đang ở đỉnh cao của sự nghiệp và nhan sắc) xinh đẹp, đệ nhất sát thủ của Thần Cung giáo - kẻ địch của Bát đại môn phái. Và rồi Nhất Hàng cùng Lang nữ cũng đến được với nhau, Nhất Hàng đặt tên cho người yêu của mình là Luyện Nghê Thường, còn nàng Nghê Thường bắt người yêu phải thề rằng anh sẽ luôn tin tưởng vào cô bất kể chuyện gì xảy ra. Và tất nhiên với một mối tình ngang trái kiểu Romeo và Juliette thì sẽ có rất nhiều thứ ập đến với Nhất Hàng và Nghê Thường, đó là sự ngăn cản từ phía phái Võ Đang với Nhất Hàng, từ phía Cơ Vô Song (Ngô Trấn Vũ và Lã Thiếu Linh trong "một" vai ... dính liền) giáo chủ Thần Cung giáo, đó là sự kiện nhà Thanh xâm chiếm Trung Quốc nhờ sự tiếp tay của Ngô Tam Quế. Kết quả thì như tất cả những ai yêu kiếm hiệp đều đã biết, nàng Nghê Thường biến thành Bạch phát ma nữ với mái tóc trắng xóa, còn Nhất Hàng suốt phần đời còn lại đứng canh trên đỉnh núi tuyết trắng để tìm thứ thảo dược giúp hồi sinh mái tóc của nàng Nghê Thường. Nhưng cái người xem quan tâm là bi kịch nào đã đẩy Nghê Thường và Nhất Hàng tới số phận đau khổ như vậy.
Điều ấn tượng nhất ở Bạch phát ma nữ truyện chắc chắn là diễn xuất tuyệt vời của bộ đôi Lâm Thanh Hà và Trương Quốc Vinh. Đây có lẽ là bộ phim hiếm hoi trong lịch sử điện ảnh Hồng Kông mà hai ngôi sao vào loại sáng nhất lại đồng ý ... đóng những cảnh thân mật tầm cỡ ... gần như phim Hollywood, những cảnh đó được thực hiện rất đẹp (người quay Bạch phát ma nữ truyện là Bào Đức Hy - quay phim của Ngọa hổ tàng long), đẹp như nét xuân sắc của Lâm Thanh Hà, ánh mắt buồn bã của Trương Quốc Vinh và vẻ mờ ảo của cả bộ phim. Đạo diễn Vu Nhân Thái đã rất thành công trong việc cân bằng các yếu tố võ thuật - tưởng tượng (fantasy) - bi kịch và lãng mạn của phim, một điều cũng hiếm khi xảy ra với dòng phim võ thuật của Hồng Kông đầu thập niên 1990, vì thế Bạch phát ma nữ truyện trở nên lôi cuốn khán giả nhờ tất cả những yếu tố, chi tiết của nó chứ không cần phải dựa vào bất cứ một yếu tố duy nhất nào. Tóm lại chỉ có thể nói rằng Bạch phát ma nữ truyện là một bộ phim cần xem cho bất cứ ai muốn tìm hiểu phim kiếm hiệp Hồng Kông hay chỉ đơn giản là muốn hiểu lý do tại sao Lâm Thanh Hà lại được coi là gương mặt nổi bật nhất của điện ảnh xứ Cảng thơm trong giai đoạn này.
-
"The Hitcher" (1986) là một bộ phim kinh dị và hành động do Robert Harmon đạo diễn, với sự tham gia của Rutger Hauer, C. Thomas Howell và Jennifer Jason Leigh. Câu chuyện xoay quanh một thanh niên tên Jim Halsey, người đang lái xe một mình qua sa mạc Texas.
Trong hành trình, Jim dừng lại để đón một người đi nhờ, John Ryder, do Rutger Hauer thủ vai. Ryder nhanh chóng tiết lộ rằng anh ta là một kẻ giết người nguy hiểm. Từ đây, cuộc sống của Jim trở thành một cơn ác mộng khi Ryder bắt đầu truy đuổi và khủng bố anh, biến hành trình trở về nhà thành một cuộc chiến sinh tồn.
Bộ phim không chỉ tạo ra sự hồi hộp qua những cảnh rượt đuổi căng thẳng mà còn khám phá các chủ đề về sự tin tưởng, sự sợ hãi và sự khủng hoảng tâm lý. "The Hitcher" đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại phim kinh dị, nổi bật với màn trình diễn ấn tượng của Rutger Hauer và bầu không khí căng thẳng, đầy ám ảnh.
-
"Arizona Dream" (1993) là một bộ phim của đạo diễn Emir Kusturica, kết hợp giữa hài hước và lãng mạn, mang đậm phong cách kỳ ảo. Câu chuyện xoay quanh Axel Black, một thanh niên sống ở New York, do Johnny Depp thủ vai, người mơ ước trở thành một nghệ sĩ nhưng lại bị cuốn vào cuộc sống thực tế đầy phức tạp.
Khi Axel đến Arizona để dự đám cưới của chú mình, anh gặp gỡ những nhân vật kỳ lạ như một người phụ nữ yêu cầu anh xây dựng một chiếc máy bay, và một phụ nữ khác, do Faye Dunaway thủ vai, có mối quan hệ phức tạp với những người xung quanh. Trong hành trình này, Axel phải đối mặt với những mâu thuẫn giữa ước mơ và thực tại, giữa tình yêu và sự mất mát.
Bộ phim nổi bật với phong cách hình ảnh độc đáo, những khoảnh khắc hài hước và cảm xúc, cùng với sự thể hiện ấn tượng của dàn diễn viên. "Arizona Dream" khám phá những chủ đề như tình yêu, khát vọng, và sự tìm kiếm bản thân trong một thế giới đầy bất ổn.
-
"Eyes Without a Face" (1960) là một bộ phim kinh dị Pháp do Georges Franju đạo diễn, nổi tiếng với phong cách hình ảnh và sự khám phá tâm lý sâu sắc. Câu chuyện xoay quanh bác sĩ Génessier, người đang tìm cách phục hồi vẻ đẹp cho con gái mình, Christiane, sau một tai nạn ô tô đã làm hỏng khuôn mặt của cô.
Để thực hiện điều này, bác sĩ Génessier bắt cóc những cô gái trẻ để lấy da mặt của họ, nhằm cấy ghép cho Christiane. Trong khi Christiane phải sống với chiếc mặt nạ che phủ gương mặt của mình, cô trải qua cảm giác cô đơn và tuyệt vọng. Câu chuyện mang đến những hình ảnh rùng rợn nhưng cũng đầy tính nhân văn, phản ánh nỗi đau của việc mất mát và khát khao về vẻ đẹp.
Bộ phim được ca ngợi vì những cảnh quay nghệ thuật, âm thanh ám ảnh và thông điệp sâu sắc về bản sắc và nhân tính. "Eyes Without a Face" trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại kinh dị, ảnh hưởng đến nhiều bộ phim sau này.
-
"Dream Scenario" (2023) là một bộ phim hài kịch kỳ ảo, xoay quanh nhân vật chính là một giáo sư vô danh, do Nicolas Cage thủ vai. Câu chuyện bắt đầu khi nhân vật này bỗng nhiên trở thành tâm điểm của sự chú ý sau khi xuất hiện trong những giấc mơ của người khác, khiến cuộc sống của anh thay đổi một cách đáng kể.
Khi sự nổi tiếng này gia tăng, nhân vật phải đối mặt với những hệ lụy không mong muốn, bao gồm sự thờ ơ từ gia đình và những áp lực xã hội. Bộ phim khám phá các chủ đề như danh tiếng, sự cô đơn và những tác động của việc trở thành "người nổi tiếng" đối với cuộc sống cá nhân.
Bên cạnh những yếu tố hài hước, "Dream Scenario" cũng mang đến một cái nhìn sâu sắc về bản chất con người và cách mà chúng ta tương tác với nhau trong xã hội hiện đại. Phim được đánh giá cao về kịch bản sáng tạo và màn trình diễn ấn tượng của Nicolas Cage.
-
Bất chấp khởi đầu không thuận lợi, Willy Wonka & the chocolate factory dần được yêu thích và được xem là một trong các phim gia đình đáng nhớ nhất từ trước đến nay.
Gần đây, chàng tài tử điển trai Timothée Chalamet thu hút sự quan tâm của người hâm mộ trong những thước phim đầu tiên của tác phẩm Wonka. Anh hóa thân Willy Wonka - chàng trai đang trên đường thành lập nhà máy sản xuất sô cô la của mình. Bộ phim này là tiền truyện của Willy Wonka and the chocolate factory (Willy Wonka và nhà máy sô cô la - 1971) - tác phẩm được xem là huyền thoại trong dòng phim nhạc kịch ở Mỹ.
Nguồn gốc của loạt phim này đến từ tiểu thuyết trẻ em Charlie and the chocolate factory (Charlie và nhà máy sô cô la - 1964) của nhà văn Roald Dahl. Khi con gái 10 tuổi của đạo diễn Mel Stuart đọc sách, cô bé mong muốn cha mình chuyển thể cuốn truyện này. Stuart đã giới thiệu nó với nhà sản xuất David L. Wolper - cũng là bạn thân của gia đình. David thuyết phục được Quaker Oats Company - công ty thực phẩm chưa có kinh nghiệm làm phim - mua lại bản quyền sách và đầu tư vào dự án điện ảnh.
Sau khởi đầu có phần ly kỳ, dự án phim khởi động với khá nhiều trục trặc: nhiều người tham gia khâu biên kịch và quyết định đổi tên phim từ “Charlie” thành “Willy Wonka”, đánh dấu sự thay đổi trọng tâm sang nhân vật này.
Slugworth, ban đầu là nhân vật phụ, từng là đối thủ của Wonka trong cuốn sách, được sửa thành vai bí ẩn trong phim. Nhiều cảnh trong truyện được thay đổi để tạo hiệu ứng tốt hơn trên màn ảnh.
Cú lội ngược dòng để trở thành kinh điển
Khi công chiếu vào năm 1971, Willy Wonka & the chocolate factory chỉ đạt thành tích khiêm tốn là 4 triệu USD, trong khi kinh phí là 3 triệu USD. Phong cách trình diễn trong tác phẩm được cho là xa lạ với khán giả, những người khi ấy vốn quen thuộc hơn với kiểu phim trẻ em của hãng Disney.
Tác phẩm vẫn mờ nhạt trong những năm sau đó, đến nỗi gần như chìm vào quên lãng. Đến thập niên 1980, phim bỗng trở nên nổi tiếng và được một bộ phận lớn khán giả bàn tán. Cú lội ngược dòng ngoạn mục này là do phim được phát sóng nhiều lần trên truyền hình và tiếp cận một lượng khán giả mới. Nhiều người bỗng nhận ra giá trị thật của tác phẩm và yêu thích những cảnh quay của nó. Năm 1996, bộ phim được chiếu lại nhân dịp kỷ niệm 25 năm, thu về thêm 21 triệu USD.
Nhà phê bình lừng danh Roger Ebert chấm bộ phim điểm tuyệt đối. 91% cây bút cũng chấm cho phim điểm tích cực trên Rotten Tomatoes. Năm 2003, Entertainment Weekly xếp tác phẩm ở vị trí thứ 25 trong "50 bộ phim đình đám nhất" mọi thời đại. Vào năm 2014, tác phẩm được Thư viện Quốc hội Mỹ chọn để lưu giữ trong Cơ quan Đăng ký Phim Quốc gia vì "có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử hoặc thẩm mỹ".
Bộ phim xoay quanh Charlie Bucket (Peter Ostrum) - cậu bé bán báo nghèo, thường nhìn vào các cửa hàng kẹo nhưng không đủ tiền để mua. Trên đường về nhà vào một buổi tối, cậu đi ngang qua nhà máy sô cô la danh tiếng của Willy Wonka (Gene Wilder). Charlie nghe được câu chuyện là nhà máy đã bị khóa kín cổng 3 năm nay, dù vẫn có sản phẩm đều đặn. Danh tính những công nhân trong nhà máy vẫn là điều bí ẩn với mọi người.
Một ngày nọ, Wonka thông báo đã giấu 5 vé Vàng trong các thanh sô cô la Wonka. Những người tìm được vé sẽ nhận được một chuyến tham quan nhà máy và sử dụng sô cô la trọn đời. Cả thế giới sôi sục săn tìm những tấm vé này trong suốt nhiều ngày sau đó. Charlie cũng không ngoại lệ.
Chủ nhân 4 tấm vé đầu là Augustus Gloop - cậu bé người Đức háu ăn, Veruca Salt - cô con gái hư hỏng của doanh nhân giàu có người Anh, Violet Beauregarde - cô bé nhai kẹo cao su liên tục và Mike Teevee - cậu bé nghiện xem truyền hình.
Tưởng như đã tuyệt vọng, Charlie nhặt được một khoản tiền trong rãnh nước và mua được thanh sô cô la có chứa tấm vé cuối cùng. Theo quy định, chủ nhân tấm vé được dẫn theo 1 người tham quan nhà máy nên Charlie chọn ông nội đi cùng. 1 nhân vật nham hiểm tên Slugworth xuất hiện và hứa hẹn sẽ trả khoản tiền hậu hĩnh nếu Charlie chịu đánh cắp 1 thứ quan trọng của Wonka.
Sự thú vị, hài hước, ấm áp và hình ảnh độc đáo là những điểm khiến Willy Wonka & the chocolate factory trở thành kinh điển. Từ khi chuyến hành trình vào nhà máy bắt đầu, bộ phim đưa người xem vào thế giới giả tưởng vui nhộn, nơi biên giới cuối cùng chính là trí tưởng tượng. Nhiều cảnh quay các khu vực trong nhà máy được hòa trộn khéo léo giữa hình ảnh của một công xưởng thật và hình dung độc đáo của nhà làm phim. Cách cư xử kỳ dị của Willy Wonka khoác cho bộ phim sự bí ẩn và đôi khi hơi đáng sợ.
Willy Wonka & the chocolate factory là bộ phim hiếm hoi tạo được cả cảm xúc kỳ bí và ấm áp. Giữa thế giới kỳ dị đó, Charlie hiện lên như một cậu bé đời thường, với cá tính dễ gây cảm thông. Ai cũng quý mến Charlie, cậu bé nhà nghèo, tốt bụng cuối cùng cũng chạm đến ước mơ của mình. 4 đứa trẻ đi cùng cậu trong chuyến đi đều là “trẻ hư” theo cách nào đó và gặp phải những sự trừng phạt đích đáng. Dù vậy, đến cuối phim, Willy vẫn khẳng định là chúng sẽ ổn, ngụ ý rằng những hình phạt này chỉ là cảnh cáo.
Sức hút của bộ phim còn nằm ở những màn diễn xuất, trong đó xuất sắc nhất là Gene Wilder trong vai Willy Wonka. Tài tử đã mang đến sự cân bằng hoàn hảo giữa nét quyến rũ, bí ẩn và lập dị của nhân vật. Willy có dáng vẻ kỳ dị, hành xử đôi khi khác thường nhưng đến cuối cùng, khi mọi chuyện vỡ lẽ, người ta mới hiểu được tấm lòng của anh. Diễn xuất của Wilder đã tạo thêm chiều sâu và sự phức tạp cho nhân vật, khiến anh được yêu mến dù hơi đáng sợ. Vai diễn Willy Wonka được xem là xuất thần và là một trong những thành tựu tiêu biểu nhất của Gene Wilder.
Trong vai diễn đầu tay của mình, Peter Ostrum, khi đó mới 14 tuổi, đã hóa thân nhân vật chính Charlie Bucket tốt bụng và khiêm tốn. Diễn xuất chân thực của Ostrum truyền tải được sự ngây thơ, lạc quan và quyết tâm của Charlie, khiến cậu bé trở nên dễ gần và đồng cảm. Với hành trình của mình trong phim, Charlie cũng là nhân vật mang đến nhiều phân cảnh giàu cảm xúc nhất.
Cũng không thể bỏ qua Jack Albertson trong vai người ông tên Joe luôn ủng hộ tinh thần cho Charlie. Cách nhập vai của Albertson đã mang lại sự ấm áp và hài hước cho vai diễn, ở đôi chỗ còn có sự tinh nghịch. Sự kết hợp giữa ông và Peter Ostrum cũng tạo ra sự ấm áp đặc trưng trong các phim về chủ đề gia đình.
4 diễn viên nhí vào vai 4 đứa trẻ trong những sắc thái đa dạng của “trẻ hư”. Kịch bản cũng dành không ít thời gian cho các nhân vật này, tạo ra những sự khuếch đại về tính xấu của trẻ em. 4 đứa trẻ mang lại những khoảnh khắc hài hước và cả sự hồi hộp, khi chúng ta đều tò mò không biết ai sẽ bị Willy Wonka trừng phạt trước và như thế nào.
Có một điều thú vị là tác giả sách Roald Dahl không phải là người hâm mộ bộ phim. Ông không hài lòng khi bản điện ảnh năm 1971 thay đổi quá nhiều chi tiết trong truyện. Dù vậy, đến nay, cả phiên bản tiểu thuyết và điện ảnh đều thành công theo những cách khác nhau.
Xét về tác động văn hóa, Willy Wonka & the chocolate factory đã trở thành bộ phim gia đình kinh điển. Nó đã thu hút được lượng lớn người hâm mộ và tiếp tục được khán giả mọi lứa tuổi yêu thích. Nếu hứng thú với tác phẩm này, khán giả cũng có thể tìm đến Charlie and the chocolate factory - bộ phim điện ảnh năm 2005 do Tim Burton đạo diễn và Johnny Depp đóng chính, cũng rất thành công về nhiều mặt.
-
Câu chuyện diễn ra vào những năm 1870, xoay quanh nhân vật Creedsman (Peter Strauss), một binh sĩ trẻ của quân đội Mỹ. Anh cùng với một cô gái bản địa tên là Cathy (Candice Bergen) phải sống sót sau một cuộc tấn công tàn bạo vào một ngôi làng của người bản địa do quân đội Mỹ thực hiện.
Sau khi trải qua những khủng khiếp của cuộc chiến, Creedsman dần nhận ra sự thật về chính phủ và cách mà quân đội đối xử với người bản địa. Anh chứng kiến những hành động tàn bạo và bất công mà người bản địa phải chịu đựng, điều này khiến anh phải đặt câu hỏi về lòng trung thành của mình với quân đội.
-
Bộ phim của đạo diễn Bong Joon-ho lấy bối cảnh miền nông thôn Gyeonggi ở Hàn Quốc những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, nơi diễn ra vụ giết người hàng loạt gây chấn động dư luận nước này. Nạn nhân là nữ giới ở nhiều lứa tuổi, từ 14 đến 71. Các hồ sơ ghi nhận đã có gần 2 triệu người tham gia truy bắt hung thủ, hơn 21 nghìn nghi phạm được triệu tập, tuy vậy cho đến nay, danh tính kẻ sát nhân vẫn là một dấu hỏi lớn.
Trong phim, đảm nhận nhiệm vụ chính truy bắt tên sát nhân là hai cảnh sát địa phương Park Doo-man, Cho Yong-koo và thanh tra Seo Tae-yoon được đặc phái từ Seoul. Park Doo-man và Cho Yong-koo là những người ưa dùng chân tay hơn đầu óc, cả hai liên tục bắt nhầm người, giở đủ trò từ tra tấn đến ép cung để bắt nghi phạm của mình nhận tội. Trong khi đó, Seo Tae-yoon là một thanh tra có trách nhiệm, anh dùng những bằng chứng xác thực và theo chân tên sát nhân bằng khả năng nghiệp vụ và đầu óc sắc bén của mình. Đối lập với cảnh sát địa phương chỉ quan tâm đến kết quả và công trạng, Seo Tae-yoon khao khát muốn lột mặt tên sát nhân biến thái hơn ai hết.
Khi mà số phụ nữ bị giết hại ngày càng tăng, làng quê Gyeonggi vốn yên bình co cụm lại trong nỗi khiếp sợ và sự u ám bao trùm khắp nơi như thể một tấm màn đen giăng kín bầu trời những đêm mưa. Tên sát nhân càng ngày càng táo tợn, thủ đoạn của hắn ngày một khó lường hơn, chứng cứ và manh mối liên tiếp được gợi mở nhưng cuối cùng, vụ án đi vào ngõ cụt, để lại cho Doo-man và Tae-yoon những câu hỏi và sự giằng xé trong tâm hồn.
Memories Of Murder không chỉ là hành trình truy tìm tên sát nhân, bộ phim còn là hành trình để hai nhân vật chính Doo-man và Tae-yoon tìm về với bản ngã của mình. Với Doo-man, việc người đồng đội Yong-koo bị mất đi một bên chân khiến anh thay đổi hoàn toàn, từ một người bừa bãi và vô trách nhiệm, Doo-man trở nên lãnh đạm hơn,biết suy nghĩ hơn. Sau những biến cố kinh hoàng mà anh phải trải qua, sau khi thấy những người vô tội lần lượt phải ngã xuống mà kẻ sát nhân vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, Doo-man nhìn quanh và anh nhận ra nơi này không còn phù hợp với mình nữa, công việc mà anh đang làm, những điều tồi tệ mà anh phải đối mặt đã vĩnh viễn gieo vào lòng anh một nỗi khắc khoải khó mà giải thoát.
Còn đối với Tae-yoon, từ một người khôn ngoan và tiết chế, cuộc hành trình theo đuôi kẻ giết người đã khiến anh gần như đánh mất bản thân mình. Liệu anh có sai khi kết luận Park Hyeon-gyu chính là thủ phạm bằng trực giác của mình và liệu anh có đúng khi sẵn sàng vứt bỏ hết danh dự, sự nghiệp để kết liễu hắn. Không ai biết. Không ai có thể trả lời cho những câu hỏi ấy. Vụ án tưởng chừng sẽ được Seo và Doo-man phá giải nhưng cuối cùng, chính nó đã cuốn hai người vào vòng xoáy của những mâu thuẫn và bi ai.
Memories Of Murder mô tả về con người qua việc phơi bày những góc khuất trong tâm hồn của họ, đặt họ vào trong những tình huống nan giải nhất để thấy được cách mà mỗi cá thể đối mặt với nỗi sợ và sự mất mát như thế nào. Tuyến nhân vật trong phim được xây dựng ấn tượng với điểm nhấn đáng chú ý là nhân vật nghi phạm Park Hyeon-gyu, tuy không được xuất hiện nhiều trên màn ảnh, tuy vậy nhân vật này vẫn để lại những ấn tượng mạnh mẽ với khán giả. Từ khuôn mặt điển trai nhưng lạnh lùng, từ ánh nhìn cao ngạo và có chút gì đó ương bướng, Park Hyeon-gyu làm tôi nhớ đến kẻ sát nhân Zodiac trong tác phẩm cùng tên của đạo diễn David Fincher, có điều Hyeon-gyu khiến tôi ám ảnh hơn, có điều gì đó xuất phát từ gã trai trẻ này khiến người xem cảm thấy bệnh hoạn và ghê tởm, đến nỗi Doo-man đã phải thốt lên: “Tao không hiểu, mày vẫn thức dậy vào mỗi sáng sao?”
Bên cạnh phần kịch bản ấn tượng, bộ phim của đạo diễn Bong Joon-ho còn là tập hợp của nhiều cảnh quay xuất sắc. Cảnh tên sát nhân chui lên từ cánh đồng để tấn công nạn nhân là sự kết hợp tài tình của góc máy và nhạc nền; cảnh Tae-yoon tấn công tên nghi phạm Hyeon-gyu và muốn dùng công lý thay cho luật pháp để kết thúc hắn ta gợi liên tưởng đến cảnh phim giữa Thanh tra Mills và John Doe ở phim Se7en; cảnh kết phim vừa tạo nên sự thú vị của kết cấu đầu cuối vừa gợi mở những chi tiết ẩn ước thú vị.
Nhắc đến thành công của bộ phim thì không thể bỏ qua vị đạo diễn Bong Joon-ho, người đã đem đến cho bộ phim một màu sắc không lẫn đi đâu được trong các tác phẩm của ông. Đó là sự châm biếm và các bài học được ẩn giấu sau mỗi tình huống phim. Chúng ta thấy ông đả kích hệ thống cảnh sát Hàn Quốc làm việc hời hợt, vô trách nhiệm trong việc điều tra tội phạm, ông lên án chế độ chính trị gây mất niềm tin và vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân. Bên cạnh đó, việc Yong-koo bị mất đi một chân cũng nêu lên bài học: Những kẻ đam mê bạo lực sẽ phải chịu kết quả bạo lực. Yong-koo ưa thích đánh đập, tra tấn nghi phạm nên phải nhận kết cục cay đắng.
Vào thời điểm ra mắt ở năm 2003, Memories Of Murder bị lấn át khá nhiều bởi Oldboy – kiệt tác của đạo diễn Park Chan-wook thậm chí đã giành giải thưởng lớn của Ban giám khảo LHP Carnes. Nếu như Oldboy là tượng đài của dòng phim báo thù, thì Memories Of Murder là kinh điển của thể loại tâm lý tội phạm. Bộ phim thậm chí được đạo diễn Quentin Tarantino đưa vào danh sách 20 phim yêu thích của ông kể từ năm 1992. Phần đông khán giả Việt Nam có lẽ quen thuộc nhiều hơn với những bộ phim truyền hình lãng mạn nhưng chính các tác phẩm mang tính đột phá như Memories Of Murder mới giúp đưa tên tuổi của nền điện ảnh Đông Á vươn ra tầm thế giới.