Jump to content

Điện Ảnh

Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên

1,724 files

  1. "Brimstone" (2016) là một bộ phim kinh dị tâm lý do Martin Koolhoven đạo diễn, kết hợp giữa các yếu tố phương Tây và kịch tính. Phim kể về Liz, một người phụ nữ sống trong một cộng đồng tôn giáo khắc nghiệt. Cuộc sống của cô bị đảo lộn khi một mục sư bí ẩn, vừa mới đến thị trấn, bắt đầu theo đuổi và quấy rối cô.
    Câu chuyện diễn ra theo cấu trúc phi tuyến tính, với những đoạn hồi tưởng tiết lộ về quá khứ đau thương của Liz, những mối quan hệ phức tạp và sự tàn nhẫn mà cô phải chịu đựng. Những chi tiết về sự ngược đãi và đàn áp của một người đàn ông đối với phụ nữ được thể hiện rõ ràng, đồng thời phim cũng phản ánh các chủ đề về tôn giáo, sự tha thứ và sức mạnh của phụ nữ.
    Phim nổi bật với bầu không khí u ám, phong cách hình ảnh ấn tượng và những màn trình diễn mạnh mẽ, đặc biệt là của Dakota Fanning trong vai Liz. Phim tạo ra một trải nghiệm căng thẳng và cảm xúc, khám phá những mặt tối của con người và xã hội.
    • 0 Downloads
    Joker
    Updated
  2. Phim theo chân nhân vật D'Artagnan, một thanh niên trẻ tuổi, đầy tham vọng, rời quê hương để đến Paris với ước mơ trở thành một Musketeer danh tiếng.
    Khi đến Paris, D'Artagnan tình cờ gặp gỡ ba Musketeer nổi tiếng: Athos, Porthos và Aramis. Anh nhanh chóng bị cuốn vào cuộc chiến chống lại âm mưu chính trị, sự phản bội và những cuộc đối đầu căng thẳng trong triều đình Pháp. 
    • 1 Downloads
    Joker
    Updated
  3. "The Last Wave" (1977) là một bộ phim tâm lý kinh dị của đạo diễn Peter Weir, khám phá các chủ đề liên quan đến văn hóa, tâm linh và sự va chạm giữa các nền văn hóa.
    Câu chuyện xoay quanh David Burton, một luật sư sống tại Sydney, Australia, người được giao nhiệm vụ bảo vệ một nhóm người thổ dân Aborigines bị cáo buộc giết người. Khi David tìm hiểu vụ án, anh bắt đầu trải qua những giấc mơ kỳ lạ và cảm giác về một thảm họa sắp xảy ra. Những giấc mơ này dường như liên quan đến những nghi thức và truyền thuyết của người Aborigines.
    Khi sự căng thẳng giữa các nền văn hóa gia tăng và những hiện tượng bí ẩn xảy ra xung quanh, David dần dần nhận ra rằng cuộc sống của anh đang bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những điều siêu nhiên và những linh hồn của quá khứ. Bộ phim khéo léo kết hợp yếu tố tâm linh và xã hội, tạo nên một bầu không khí u ám và huyền bí, khiến khán giả phải suy ngẫm về sự liên kết giữa con người và tự nhiên. "The Last Wave" đã được công nhận là một tác phẩm nghệ thuật sâu sắc và có ảnh hưởng trong điện ảnh.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  4. "The Big Boss" (1971), còn được biết đến với tên "Fists of Fury," là bộ phim võ thuật nổi tiếng do Lý Tiểu Long (Bruce Lee) đóng chính và đạo diễn bởi Tăng Duy Nhân. Phim theo chân nhân vật Cheng Chao-an, một thanh niên đến từ Trung Quốc, chuyển đến Thái Lan để tìm việc và sống một cuộc sống bình yên.
    Khi đến nơi, Cheng phát hiện ra rằng nhà máy nơi anh làm việc bị điều hành bởi một băng đảng tội phạm độc ác, đang buôn bán ma túy và khai thác công nhân. Mặc dù cố gắng tránh xa bạo lực, nhưng khi những người bạn và người thân của anh bị đe dọa, Cheng buộc phải sử dụng kỹ năng võ thuật của mình để chiến đấu chống lại băng đảng.
    Phim nổi bật với những cảnh hành động mãn nhãn, kỹ thuật võ thuật ấn tượng của Lý Tiểu Long và thông điệp về lòng trung thành và sự chính nghĩa. "The Big Boss" không chỉ là một tác phẩm giải trí mà còn giúp Lý Tiểu Long khẳng định vị thế của mình trong thể loại phim võ thuật, đánh dấu sự khởi đầu cho sự nghiệp điện ảnh vang dội của ông.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  5. "Eden Lake" là một bộ phim kinh dị năm 2008 do James Watkins đạo diễn. Câu chuyện xoay quanh một cặp đôi, Jenny và Steve, đang tìm kiếm một kỳ nghỉ lãng mạn ở một hồ nước yên tĩnh. Tuy nhiên, mọi thứ nhanh chóng biến thành cơn ác mộng khi họ gặp một nhóm thanh niên địa phương.
    Khi Steve bị nhóm thanh niên quấy rối, cặp đôi cố gắng tránh xung đột, nhưng mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn khi họ bị truy đuổi và bắt nạt một cách tàn nhẫn. Jenny và Steve phải chiến đấu để sinh tồn trong một tình huống ngày càng bạo lực và khắc nghiệt.
    Bộ phim không chỉ đơn thuần là một tác phẩm kinh dị mà còn khám phá các chủ đề về bạo lực, sự phân cách giữa các thế hệ và cách xã hội có thể trở nên tàn nhẫn. "Eden Lake" để lại ấn tượng mạnh mẽ với những cảnh quay căng thẳng và thông điệp sâu sắc về con người và xã hội.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  6. - High Tension có nội dung (tưởng chừng như) bình thường như bao phim kinh dị khác: Marie đến nhà người bạn thân Alex để chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới. Nhưng ngày cuối tuần êm ả nhanh chóng biến thành cơn ác mộng khi một tên sát nhân biến thái xuất hiện.
    Nghe đến đây, có lẽ bạn sẽ nghĩ: “Tưởng gì, chỉ có thế thôi à?”, “Dạng này gặp nhiều rồi”,… nhưng khác với mấy thể loại đầu voi đuôi chuột, nghĩa là tên thì rất hoành tá tràng (Kiểu như “… kinh hoàng”, “… chết chóc”, “… tử thần”) còn nội dung thì cứ như phim hài, High Tension sẽ mang đến cho bạn trải nghiệm đúng như nghĩa đen của cụm từ “Căng thẳng tột độ” với sự xuất hiện của hàng loạt những cảnh quay ghê rợn, đẫm máu: Tên biến thái chặt đầu một cô gái rồi dùng nó để thủ dâm, hay lúc hắn lần lượt sát hại từng thành viên trong gia đình Alex. Đứa con trai ít ra còn được chết nhanh gọn, chứ ông bố với bà mẹ thì bị hành hạ các kiểu, máu chảy thành suối: Đánh đập rồi bị hắn đẩy cái tủ chẹt qua khiến đầu đứt rời khỏi cổ, chặt tay, cắt cổ như cắt tiết gà. Trên đường tẩu thoát, hắn còn giết luôn nhân viên trạm xăng vì anh này phát hiện ra vết máu ở tay hắn và định báo cảnh sát.
    – Cả bộ phim là cuộc đấu trí đầy căng thẳng đến nghẹt thở giữa Marie và tên sát nhân bệnh hoạn. Marie của chúng ta rất bình tĩnh, thông minh và nhanh trí khi đối mặt với tình huống nguy cấp: Nhanh chóng thu dọn hết đồ đạc, gấp chăn gối gọn gàng, lau khô vòi nước và lavabo rửa mặt với mục đích biến căn phòng thành nơi không có người ở, lấy dây thép gai quấn quanh gậy gỗ tạo thành vũ khí. Và đặc biệt là không có kiểu đang trốn và cứ thở hồng hộc, khóc thút thít như nhiều nhân vật nữ khác (Tất nhiên rồi, có thế thì mới sống sót được chứ không thì đi bán muối từ đầu phim rồi). Không phải cô gái nào cũng làm được những việc này. Nhưng tên sát nhân cũng không phải dạng vừa. Hắn bệnh hoạn, khát máu nhưng không ngu. Hắn hành động thận trọng, bài bản và có chuẩn bị trước. Kiên nhẫn chờ cả gia đình Alex đi ngủ rồi mới thực hiện kế hoạch. Ra tay xử lý từng người theo thứ tự khả năng phản kháng giảm dần: Đàn ông, phụ nữ, trẻ em. Thảm sát cả gia đình xong còn cẩn thận đi kiểm tra phòng dành cho khách xem còn ai nữa không. Xong đâu vào đó rồi mới đi bắt Alex, dùng dây xích trói lại cho chắc ăn,… Trong hoàn cảnh nguy cấp, không đủ thời gian đợi cảnh sát đến giải cứu, Marie không còn lựa chọn nào khác là phải tự mình đối phó với tên sát nhân. Vì lúc này, tính mạng Alex đang bị đe dọa, nếu vì chậm trễ mà để mất dấu hắn, có thể Marie sẽ không còn cơ hội gặp lại cô bạn thân nữa.
    – Phải công nhận là đạo diễn chọn diễn viên chuẩn thật. Philippe Nahon ngoài đời trông cũng hiền hiền nhưng đã thể hiện quá thành công vai sát nhân biến thái máu lạnh với bộ mặt hung ác, cái bụng phệ, móng tay cáu bẩn, bộ quần áo bám đầy dầu mỡ cùng chiếc xe han gỉ của mình. Cảnh tên giết người tay cầm dao cạo lặng lẽ đi lùng sục khắp căn nhà chắc chắn khiến nhiều người xem rợn tóc gáy. Đặc biệt là ở đoạn cuối, khuôn mặt của hắn thủng lỗ chỗ, bê bết máu do bị Marie tấn công, lại còn vác theo cưa máy trông càng thêm ghê rợn.
    – Lý do ở đầu bài viết tôi lại nói High Tension có nội dung tưởng chừng như bình thường đến cuối phim mới được tiết lộ. Những tưởng lúc được Marie quay lại giải cứu, Alex phải cảm thấy vui mừng vì mình đã thoát chết. Nhưng không, ngược lại cô còn tỏ ra thù địch với Marie, không cho Marie động vào người mình: “Cút đi. Tránh xa tôi ra”, “Không được lại gần tôi”. Thái độ khó hiểu này cùng việc cảnh sát khi kiểm tra camera ở trạm xăng đã xác định được thủ phạm giết nhân viên bán hàng đã hé lộ sự thật kinh hoàng. Hóa ra, không có tên sát nhân nào cả, chính Marie đã gây ra tất cả những cái chết đáng sợ ấy. Cô mắc chứng rối loạn đa nhân cách mà một trong số đó chính là kẻ giết người máu lạnh. Đây là kết cục không ai ngờ tới bởi điểm chung duy nhất giữa 2 nhân vật này đó là đều yêu Alex. Chính tình yêu mù quáng này đã khiến nhân cách thứ 2 trỗi dậy, giết hết những người mà “hắn” cho rằng đang ngăn cản tình yêu của mình với Alex. “Hắn” sẵn sàng làm mọi chuyện chỉ để độc chiếm Alex. Và rồi khi nghe được câu nói “Tôi yêu cậu” mình luôn mong chờ, “hắn” lập tức biến thành Marie si tình. Nụ hôn đẫm máu cùng cảnh Marie lặp đi lặp lại câu “Sẽ không ai có thể chia lìa chúng ta” như một cái máy càng khiến cho kết thúc của bộ phim thêm phần ám ảnh.
    – Thật ra đoạn kết của phim đã được đẩy ngay lên đầu rồi. Marie vẫn sống sau khi bị Alex đâm nhưng phải vào trại tâm thần. Tại đây, cô vẫn không ngừng nhắc lại câu “Không ai có thể chia lìa chúng ta”. Nhưng chắc ít người để ý đến chi tiết này ngay từ đầu. Mới đầu tôi còn chẳng để ý đến nó, chỉ nghĩ đó một là cảnh trong giấc mơ của Marie mà thôi.
    – Phim được chấm 6.8/10 trên IMDb, các chuyên gia khắt khe hơn khi chỉ cho phim 42/100. Bên Rotten Tomatoes cũng không khá khẩm hơn với chỉ 40%. Phim có đến nỗi nào đâu mà sao điểm chán đời quá T.T.
    => Tuy diễn biến tâm lý nhân vật chưa được lột tả rõ ràng nhưng theo đánh giá chung của tôi, High Tension có chất lượng ở mức khá. Với nội dung ổn; gây bất ngờ ở phút chót, kết hợp với những cảnh quay bạo lực và đẫm máu, High Tension được nhiều người bình chọn là một trong những phim kinh dị đáng sợ nhất mọi thời đại.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  7. Nếu như năm qua các phim kinh dị không quá được lòng Viện Hàn Lâm trong cuộc chạy đua ở các giải thưởng điện ảnh, khi “NOPE” của Jordan Peele và “Bones and All” của Luca Guadagnino hoàn toàn vắng mặt dù chất lượng tốt (điều này có thể khiến cho Luca bỗng dưng sắp sửa trở lại với một tác phẩm mang màu rom-com thay thì chính kịch); thì trong năm sau, một cuộc “cách mạng” có thể xảy ra, khi những tin tức về các tác phẩm thuộc vào dạng này đang được đánh giá tương đối lạc quan. Và “Beau is Afraid” là một trong số đó.
    Được phát triển từ một phim ngắn đã được sản xuất vào năm 2011, tác phẩm xoay quanh nhân vật nam chính giờ đã trung tuổi (do “Joker” Joaquin Phoenix thủ vai) trong cuộc hành trình về với ngôi nhà mẹ mình đang sống. Điều này sẽ rất bình thường nếu như Ari Aster không chỉ đơn thuần đi vào khía cạnh hiện thực, mà ở đâu đó ta sẽ thấy lại những gì là điên rồ nhất và cuồng loạn nhất có thể xảy đến cho một con người.
    Khác “Midsommar” vào 4 năm trước khi là thước phim mang màu trong trẻo nhưng có nội dung hoàn toàn trái ngược, “Beau is Afraid” ngay khoảnh khắc đầu đã “cô đọng” mình với gam trung tính như là điềm báo cho chút gì đó của sự khó chịu. Mở đầu là cảnh Beau ngồi trị liệu cùng vị bác sĩ trong một bộ dạng có phần phục phịch, mọi thứ quanh ông có vẻ gì đó như chậm một nhịp, khiến ta không thể không liên tưởng đến nhân vật của Brendan Fraser trong phim “The Whale” cũng đến cùng hãng trong mùa năm ngoái.
    Và cũng từ đây mà “chiếc hộp Pandora” dần dần mở ra, với những thế giới và những khả thể khó mà tưởng tượng. Phù hợp với hướng đi chính của A24, “Beau is Afraid” là một lát cắt gồm nhiều tập hợp của những ám ảnh cũng như nỗi sợ suốt nửa đời người. Vì sao Beau lại không muốn về nhà? Vì sao thế giới của ông trở nên hỗn loạn, nơi những ranh giới giữa thực và mơ không thể phân định?
    Ari Aster đã rất mạo hiểm để bước vào trong thế giới siêu thực của não bộ người, nơi mà các nhà khoa học chưa khám phá hết, nhưng vị đạo diễn đã rất thông minh khi đưa ra được những sự ám ảnh mang tính phổ quát. Đó là một Beau lúc 8 – 9 tuổi, rồi độ 40, cuối cùng là khi gần đất xa trời. Quãng đời trường thành dường như bị bỏ rơi lại và là khoảng trống không được nhắc đến, như cho ta thấy được tính hiện thực không thuộc vào quỹ đạo chung của bộ phim này.
    Ở đó ta như thấy lại bản thân đồng hành cùng với nhân vật. Nếu như ở tuổi thiếu nhi là nỗi sợ về căn gác mái, với các sinh vật kiểu Kafkaesque và một ai đó như là “ông kẹ”... thì khi về già, đó là nỗi sợ mất đi gia đình, nơi mà mọi thứ sẽ bị chia cắt trong khi chính ta không thể đoán trước, bởi lẽ chia phôi còn có thể đau hơn cả cái chết. Ở mỗi giai đoạn nỗi sợ đó không mất đi, mà với riêng Beau nó được cộng dồn và ngày càng tăng mức độ e sợ của bản thân anh.
    Trong tác phẩm này, Aster đã lấy gia đình như một trụ cột, từ đó khảo sát trở lại những nỗi tổn thương cũng như là sự đau đớn từ đó gây ra. Hôn nhân thiếu đi hạnh phúc, chia cắt quá sớm từ phía người cha cũng như người mẹ đang quá bảo bọc… tất cả khiến Beau trở nên hoài nghi và rồi mong manh đến mức điên loạn. Ari Aster đã đi rất sâu vào khía cạnh này, từ đó khảo sát nguồn cơn cũng như nguyên nhân của sự yếm thế.
    Ở đây ta có thể thấy những nỗi ám ảnh mang tính “nguyên thủy” như được di truyền mang tính thế hệ - về người mẹ tóc đỏ đàng điếm, về người cha vắng mặt, cũng như tin đồn rằng ông mất đi do thượng mã phong lúc đang hoài thai đứa con trong bụng vợ mình. Bởi vũ trụ đó có nhiều ngăn kéo và nhiều ngõ ngách, nên Aster cũng đã biến nó thành một “hộp bút chì” có rất nhiều màu, để trong 3 tiếng đồng hồ theo dõi bộ phim, khán giả đã được dẫn đi hầu như thuận tình theo các diễn biến.
    Cách kể độc đáo
    Đó là một chút hài hước khi ta nhìn Beau phong phanh với vài cơ quan to lớn bất thường, rồi ngay sau đó khi ông về nhà và chịu tang mẹ, thì sự ám ảnh về một xác chết không không đầu hay căn bệnh cũ lập tức mang đến mảng miếng bất ngờ. Tuy vậy cũng có những lúc phần nhạc của Bobby Krkic như đưa ta vào trạng thái thôi miên của sự kinh dị và các nỗi sợ mang tính cá nhân. Aster biết cách vun vén nỗi sợ khi khuếch trương nó (như cú jumpscare lên trên trần nhà), hoặc giải tỏa nó (với cảnh quay cận những vết đâm chém và việc bám theo một cơn chạy đuổi)…
    Cũng khá bất ngờ khi Aster đưa thêm chút hậu hiện đại vào tác phẩm này, với sự xen kẽ của nhiều loại hình phối hợp với nhau một cách trơn tru. Đôi khi ta thấy có vài phân cảnh nặng tính kịch nghệ, với các kỹ nghệ về mặt sân khấu tương đối ấn tượng, đôi chỗ còn có mặt nạ kịch Noh… Để rồi đến cuối, những thước phim kiểu stop motion như đánh gục người xem với phần hậu cảnh liên tục thay đổi. Chính sự thêm vào thể loại khác nhau đã mở rộng thêm không gian bộ phim, đem đến thêm sự kích thích và những dụng ý có phần tương đồng cũng như chìm khuất ở tít đằng sau.
    Và dù hỗn loạn trong mặt suy nghĩ, thế nhưng Aster vẫn đưa ta vào một trật tự chung, nơi các câu chuyện được giải quyết cũng như sắp xếp một cách hoàn chỉnh. Không “rối não” như phim đa vũ trụ gây tiếng vang lớn hồi đầu năm ngoái, bộ phim lần này như vở kịch 5 hồi có các chuyển cảnh thật sự mượt mà. Do đó Aster là một đại diện cho kiểu đạo diễn đưa được vấn đề mang tính chính kịch vào một thể loại vốn vẫn được gọi như là “ba xu”. Đó là một cảm giác có các thứ bậc và được tính toán một cách rõ ràng.
    Có sự tham gia của “Joker” Joaquin Phoenix, vai Beau là một trường hợp không có quá nhiều diễn viên có thể làm tốt, khi nó đòi hỏi một sự thay đổi về mặt cảm xúc diễn ra liên tục, với các tầng sâu về mặt cảm xúc là rất mâu thuẫn. Dù vậy do đã thành công với motif khác cũng có chiều hướng đen tối và bị tổn thương, nên nam diễn viên trong tác phẩm này hoàn thành một cách xuất sắc vai diễn của mình. Với việc quay cận vào các hình thể trong những khoảng đọng khung hình hay là trình diễn ở trước phông xanh, Joaquin cho thấy đề cử của một giải thưởng vào năm sau đó hoàn toàn có thể, với màn trình diễn là rất ấn tượng.
    Trở thành bộ phim có kinh phí đắt đỏ nhất tính đến hiện tại của A24, “Beau is Afraid” với sự đầu tư gần 35 triệu dollar đã cho ta thấy được sự chịu chơi cũng như chấp nhận đầu tư của hãng phim này. Dẫu vậy nguồn tiền khổng lồ xứng đáng từng phút từng giây, với một tác phẩm có thể sáng ngang “Hóa thân”, “Hỏa ngục”… trong mảng văn chương.
    Với tác phẩm này, Aster đã tự đặt ra một tiêu chuẩn mới, khi phim kinh dị cũng có thể nói về những vấn đề thật cốt tủy hơn và con người hơn. Có thể nói rằng từ sau “Get Out” của Jordan Peele thì mới có thêm tác phẩm kinh dị/ chính kịch hoàn toàn thuyết phục như tác phẩm này, và như đạo diễn huyền thoại Martin Scorsese đã nhận xét rằng “Ari Aster là một trong những giọng nói mới, đặc biệt nhất của nền điện ảnh hiện nay”. Qua đó đạo diễn của những thánh ca kinh dị đã sở hữu thêm một tác phẩm nữa gây dấu ấn lớn, hướng anh trở thành một nhà làm phim với các tác phẩm cũng như ngôn ngữ điện ảnh hoàn toàn khác biệt.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  8. Pearl là một bộ phim được sản xuất năm 2022, với nội dung câu chuyện xoay quanh cô gái trẻ là Pearl, với ước mơ trở thành một vũ công nổi tiếng, cô sống cùng mẹ và một người bố bại liệt ở một trang trại. Ngay từ những phân đoạn đầu của phim rất dễ để thấy cô có một nhân cách khá rối loạn khi giết một con ngỗng để làm mồi cho cá sấu hay bóp nát một quả trứng. Nhưng cô chỉ dám làm những điều ấy khi không có sự quan sát của ai, khi quay về nhà cô phải làm tròn nghĩa vụ của người phụ nữ có chồng phục vụ cho chiến tranh, chạy việc vặt trong nhà, tắm rửa cho người bố bại liệt và những cuộc đối thoại đầy mâu thuẫn với người mẹ độc đoán.

    Dù phim được sản xuất trong thời gian hiện đại và lấy bối cảnh trong những năm 90 nhưng trong phim xuất hiện chi tiết dịch cúm và khiến mọi người phải đeo khẩu trang hay cách ly vài tuần, dễ làm bất cứ ai có thể liên tưởng đến đại dịch Covid. Một tình tiết mang tính thời sự trong bối cảnh hiện tại này, đã góp phần làm dày lên sự cô lập mà Pearl đã trải qua. 
    Chỉ xem thôi mà mình cũng đủ cảm nhận được sự ngột ngạt bao trùm lên ngôi nhà này và không khó để thấy Pearl chỉ cảm thấy thoải mái nhất là khi cô được thoát khỏi nó, trong những lần được lên thị trấn làm việc vặt, những lúc đó là lúc cô cảm thấy được tự do nhất. Đến rạp chiếu bóng xem phim vũ kịch - những sở thích rất đỗi bình thường nhưng trong mắt mẹ cô đó là một thứ xa xỉ và gieo rắc mầm bệnh cho ngôi nhà trong thời gian lúc bấy giờ.
    Tại đây, cô gặp người đàn ông làm việc ở phòng vận hành chiếu phim (có thể cho cô xem miễn phí bao nhiêu lần tùy thích) và nói với cô rằng “Chăm sóc gia đình trong thời đại này là điều đáng ngưỡng mộ nhưng cũng đừng quên sống cuộc đời của mình".
    Chi tiết trên đoạn đường về nhà, Pearl đã rẽ vào cánh đồng ngô và cưỡi lên người con bù nhìn, lúc đầu mình cảm thấy cô hơi bệnh hoạn nhưng xem đến cuối phim, mình có thể lý giải theo cách hiểu của bản thân rằng, việc gặp người đàn ông ấy đã phần nào làm trỗi dậy những ham muốn xác thịt đơn thuần, mà người chồng Howard đã để cô ở lại trang trại một mình trong sự cô đơn.
    Bị kiểm soát trong mọi thứ, thậm chí là việc ăn uống, bởi người mẹ cay nghiệt, cộng hưởng cùng sự cô đơn đến phát ngấy mà cô đã và đang nếm trải, đã đủ để cô muốn thoát ra khỏi nơi này càng xa càng tốt - cũng là điều duy nhất mà cô cầu nguyện hằng đêm, trái với lời cầu nguyện khiên cưỡng cô buộc phải làm trên bàn ăn mỗi ngày cùng bố, mẹ.
    Pearl có thể là một cô gái đơn giản, buộc phải hạ thấp khả năng phòng thủ của mình và học cách trở nên dễ bị tổn thương trước mặt người khác để tìm kiếm một cảm giác an toàn và được yêu thương. Những tưởng kết hôn với Howard là một sự giải thoát cho cô nhưng có lẽ đây chính là “số mệnh" của cô khi không có “một lời cầu nguyện nào từ cô được Chúa hồi đáp

    Phim về kẻ sát nhân là một chủ đề đã quá quen thuộc với bất cứ ai, chúng ta có thể phẫn nộ hoặc đồng cảm. Đó là lựa chọn của mỗi người.Riêng mình Pearl là một kẻ sát nhân đặc biệt, kẻ sát nhân thì vẫn là một kẻ sát nhân, không nên phủ lên nó một lớp vải về ý niệm nhân danh việc giết người cho một điều gì đó cao cả, để làm mờ đi tội ác mà cô đã gây ra. Mình chỉ đơn giản nghĩ rằng Pearl đặc biệt, vì cô có ước mơ trong sáng như bao cô gái trẻ khác và điều làm cô đặc biệt chính là dám theo đuổi nó đến cùng, trong phim có xuất hiện một câu mà Pearl đã nói với mẹ của mình 
    “Nếu số phận của con là dành cả quãng đời này sống cùng bố mẹ ở trang trại này thì cũng được thôi. Nhưng con chỉ có một thời thiếu nữ, con phải biết là con đã cố gắng, nếu không con sẽ hối hận cả đời". Điều này làm mình khá xúc động và có chút đồng cảm với cô.
    Diễn xuất của Pearl (Mia Goth) là một điểm sáng để lột tả nhân vật Pearl - những lớp lang về cả mặt sáng và tối trong tính cách của cô, khi thì trong sáng, ngây thơ đầy mong ước mãnh liệt, lúc lại lạnh lùng và ghê rợn như cách mà cô bày biện bữa ăn ở cuối phim và đợi chồng trở về (thực sự chỉ khiến mình cảm thấy buồn nôn). Hay lúc Pearl trải lòng về tất cả mọi thứ với người em chồng về mọi thứ đã diễn ra xung quanh cuộc đời cô, là một trường đoạn độc thoại với nhiều cảm xúc lẫn lộn mà diễn xuất lại không hề khô khan. Và cả nụ cười, khóc lẫn lộn ở kết phim đầy ám ảnh.
    Pearl là tiền truyện của X (hậu truyện của cuộc đời Pearl khi về già), có thể sẽ hơi khó hiểu hoặc không muốn hiểu nếu bạn xem X trước nhưng theo mình thì Pearl mang một ý nghĩa về nhu cầu được tự do của bất cứ ai và không ai có quyền được đoạt đi sự tự do của bạn, ngoài bạn.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  9. "Delicatessen" (1991) là một bộ phim hài đen và giả tưởng của đạo diễn Jean-Pierre Jeunet và Marc Caro. Câu chuyện diễn ra trong một thế giới hậu tận thế, nơi thức ăn trở thành hàng hiếm và cuộc sống hàng ngày bị chi phối bởi nỗi lo sợ và bạo lực.
    Phim theo chân một người đàn ông tên là Louison (Dominique Pinon), một nhạc công thất nghiệp, khi anh đến một tòa nhà cũ kỹ để thuê phòng. Tại đây, Louison gặp gỡ một nhóm cư dân kỳ quặc và chủ sở hữu tiệm thịt, trở thành nơi cung cấp thực phẩm cho cộng đồng. Chủ tiệm thịt, người có những mưu đồ tăm tối, thường chuẩn bị các món ăn từ những người sống trong tòa nhà.
    Louison, với tính cách lạc quan và tình cảm, bắt đầu nảy sinh tình cảm với Julie (Marie-Laure Dougnac), con gái của chủ tiệm. Khi mối quan hệ của họ phát triển, Louison dần phát hiện ra những bí mật đáng sợ về tiệm thịt và những cư dân xung quanh.
    Phim nổi bật với phong cách hình ảnh độc đáo, sự sáng tạo trong thiết kế và cảm xúc tinh tế, mang đến một câu chuyện vừa hài hước vừa u ám, khám phá những khía cạnh tối tăm của nhân tính trong bối cảnh khắc nghiệt. Phim đã nhận được nhiều lời khen ngợi và trở thành một tác phẩm kinh điển trong điện ảnh Pháp.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  10. Truyện phim kể về cô nàng Bess McNeill kết hôn với Jan, một công nhân làm trên giàn khoan dầu ở ngoài khơi bắc Scotland, bất chấp ý của dân làng và Giáo hội Trưởng Lão (Cơ Đốc) của cô. Bess khá giản dị và ngây thơ, vất vả khi chồng đi làm trên giàn khoan và luôn cầu nguyện cho chồng sớm trở về với mình. Một ngày kia Jan trở về sau một tai nạn lao động, bị gãy cổ và bị liệt, Bess đã tin rằng đây là lỗi của nàng.
    Jan không còn khả năng tình dục và bị ảnh hưởng tâm thần, Jan yêu cầu vợ làm tình với các người đàn ông khác rồi về thuật lại các chi tiết cho chồng nghe. Ban đầu Bess còn ngại ngùng, sau rồi cũng dấn thân làm tình với người khác, và Bess bắt đầu tin rằng việc mình làm là hợp với ý muốn của Chúa và giúp cho Jan sống sót
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  11. Câu chuyện xoay quanh Jeanne du Barry, một phụ nữ thuộc tầng lớp thấp, cô đã dùng sắc đẹp và trí thông minh của mình để thăng tiến trong xã hội Pháp thế kỷ 18. Cô trở thành tình nhân của Louis XV, người đàn ông quyền lực nhất lúc bấy giờ, và từ đó trở thành một phần của triều đình.
    Phim không chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa Jeanne và nhà vua mà còn khắc họa những xung đột chính trị, xã hội và văn hóa trong thời kỳ này. Nó thể hiện cách mà Jeanne phải đối mặt với sự phản đối từ những người xung quanh và nỗ lực để được chấp nhận trong một thế giới đầy quyền lực và nghi kỵ.
    Với những cảnh quay đẹp mắt, phục trang công phu và diễn xuất ấn tượng, "Jeanne du Barry" mang đến một cái nhìn sâu sắc về một nhân vật lịch sử thú vị, đồng thời khám phá các chủ đề về tình yêu, quyền lực và sự đấu tranh.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  12. "U-571" (2000) là một bộ phim hành động chiến tranh do Jonathan Mostow đạo diễn, lấy bối cảnh trong Thế chiến II. Phim kể về một nhiệm vụ liều lĩnh của quân đội Mỹ nhằm chiếm lấy một tàu ngầm Đức U-Boat.
    Câu chuyện xoay quanh một nhóm lính hải quân Mỹ, do Trung sĩ Mike Dahlgren (Matthew McConaughey) lãnh đạo, được giao nhiệm vụ thâm nhập vào một tàu ngầm Đức đã bị đánh chìm để thu hồi một máy mã Enigma, thiết bị quan trọng giúp mã hóa thông tin quân sự. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhóm gặp phải những khó khăn và nguy hiểm lớn khi tàu ngầm của họ bị phát hiện và tấn công.
    Phim không chỉ miêu tả các pha hành động căng thẳng mà còn thể hiện tinh thần đồng đội, sự hy sinh và quyết tâm của các nhân vật. Với những cảnh quay ấn tượng và không khí hồi hộp, "U-571" đã nhận được sự chú ý từ khán giả và giới phê bình, dù cũng gây tranh cãi về sự chính xác lịch sử của một số yếu tố trong phim.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  13. Có thể nói không ngoa rằng bộ phim The Pianist của đạo diễn Roman Polanski, và được thể hiện một cách vô cùng chân thực bởi nam diễn viên Adrien Brody, với 7 đề cử và 3 tượng vàng Oscar năm 2003, là một trong những tượng đài lớn nhất của dòng phim Phản chiến của điện ảnh Thế giới.
    Dựa trên một câu chuyện có thật về sự sống sót thần kỳ của nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan Władysław Szpilman tại thủ đô Warsaw trong suốt khoảng thời gian từ năm 1939, khi Phát xít Đức chiếm đóng, mở đầu Thế chiến thứ II cho đến khi Warsaw được Liên Xô giải phóng vào năm 1945; mặc dù lấy bối cảnh là thời điểm chiến tranh kinh khủng nhất, cùng sự tàn sát của Đức Quốc Xã với chủng tộc Do Thái của Szpilman, thế nhưng khác với các dòng phim Phản chiến khác, điểm đặc biệt nhất của The Pianist là chỉ xoay quanh khát vọng sinh tồn của một người đàn ông bình thường mà thôi!
    Gần 20 năm sau, bây giờ tôi mới có dịp xem lại lần thứ hai, và lúc này, dưới cảm nhận của một người đàn ông trưởng thành, những ký ức của cậu bé năm xưa dường như không còn giống một chút nào nữa, đây là một bộ phim quá đỗi nặng nề và ám ảnh đến cùng cực!
    NHỮNG SỰ TƯƠNG PHẢN NGHIỆT NGÃ
    Thủ pháp ẩn dụ và tương phản đối lập đã được đạo diễn Roman Polanski sử dụng vô cùng tinh tế xuyên suốt, khiến The Pianist trở nên đặc quánh và căng thẳng hầu hết thời lượng 150 phút của bộ phim.
    ÂM THANH
    Mở đầu bằng giai điệu piano được Szpilman chơi trong Đài phát thanh Warsaw, thế nhưng rất bất ngờ và ngay lập tức, cả không gian bị xé toạc bởi tiếng bom mà Đức Quốc Xã dội xuống Ba Lan trong đợt không kích đầu tiên ngày 01/09/1939, mở đầu Thế chiến thứ II.
    Âm thanh đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong cách thể hiện của Roman Polanski. Mọi thứ âm thanh, tiếng động đều được khai thác một cách bình dị và tạo ra cảm giác chân thực nhất: từ tiếng dương cầm của Szpilman, tiếng người cười nói trên phố đến tiếng súng đạn chát chúa, hay thậm chí là tiếng rơi vỡ của chồng bát đĩa… tất cả hòa quyện lại, khiến người xem cảm giác như đang được xem những thước phim tài liệu chứ không phải là một tác phẩm điện ảnh, cái tài tình và vĩ đại của Polanski nằm ở chỗ đó.
    Âm thanh, lại một lần nữa là yếu tố khiến nhịp phim dù từ tốn, nhưng ẩn bên trong nó là sự dồn dập, không ngừng nghỉ, dẫn lối cho cảm xúc được đẩy lên dần đều với mỗi phân cảnh.
    HÌNH ẢNH
    Khi Szpilman lần đầu tiên được đi ra ngoài khu tập trung, một lần nữa người xem lại cảm thấy bàng hoàng. Đối lập với những điều khủng khiếp phía bên kia bức tường quây người dân Do Thái ngay trong thủ đô Warsaw tươi đẹp, với cái chết, nạn đói, sự man rợ diễn ra hàng ngày; thì ngay bên kia bức tường Ghetto, cuộc sống của những người dân Ba Lan còn lại vẫn diễn ra nhộn nhịp. Những khung hình xoáy sâu vào những sạp hàng đầy bánh mì, tiếng trẻ em đùa vui vẻ, tiếng người qua lại, những bộ xiêm y lộng lẫy…
    Chứng kiến sự xa hoa, sầm uất đó qua đôi mắt vô tư không hề có sự căm phẫn hay hận thù nào của Szpilman càng làm lồng ngực tôi đau nhói. Trong cùng một thành phố, cùng những con người từng là hàng xóm, người thân của nhau, mà nay vì chiến tranh, vì chủng tộc mà cuộc sống thay đổi không khác gì thiên đường và địa ngục, được phân chia bởi một bức tường! Cách khắc họa nạn diệt chủng Do Thái khủng khiếp Holocaust bằng hình ảnh của Polanski không chỉ dừng ở việc mô tả sự tàn nhẫn của Đức Quốc Xã, mà còn ở chính những thước phim bình yên này.

    Ngay khi chính những đồng bào của mình đang bị tàn sát, thì đại bộ phận những người Ba Lan khác vẫn vui vẻ sống bình yên, hưởng thụ và thậm chí là bị tẩy não bởi chiến tranh. Một điều đáng buồn là vào lúc mà người Do Thái cần cứu giúp nhất thì ở nhiều nơi trên thế giới các cánh cửa đã đóng lại với họ. Luật di dân của Mỹ đã ngăn cản họ vào nước Mỹ. Còn đất tổ Palestine, từ năm 1938, đã ban bố “sách trắng” đóng cửa với người Do Thái. Cuộc diệt chủng này đã dẫn đến cái chết của hơn 6 triệu người Do Thái trên toàn Thế giới thời kỳ đen tối đó.
    SỰ PHẢN KHÁNG
    Những tưởng toàn bộ The Pianist chỉ là sự mô tả và cam chịu, thế nhưng hoàn toàn không phải như thế. 17 năm sau lần đầu tiên xem phim, lần đầu tiên, bây giờ, tôi cảm nhận được phía sâu bên trong 150 phút phim này luôn là những sự phản kháng bền bỉ, được Polanski lồng ghép cực kỳ tinh tế.
    Chuỗi ngày chui lủi của Szpilman vẫn tiếp diễn ngay cả khi ông đã trốn ra khỏi khu tập trung, bị bỏ đói, bị nhốt, phải vật vã chiến đấu với bệnh tật một mình trong làn lửa đạn… thì đâu đó quanh ông, ngoài sự kháng chiến bằng vũ lực của người Do Thái mà đại diện là Majorek, cuộc sống của con người vẫn tiếp tục như một hình thức đấu tranh mạnh mẽ khác mà tôi muốn nói đến, đó là tình yêu, ước mơ và nghệ thuật!
    Trong căn phòng trú tạm tồi tàn, lần đầu tiên sau gần 4 năm chui lủi, Szpilman gặp lại cây dương cầm. Có một điều vô cùng thú vị của bộ phim, đó là dù mang tên “Nghệ sĩ dương cầm”, nhưng suốt thời lượng, chúng ta chỉ nghe thấy tiếng đàn của Szpilman đúng ba lần: đầu phim, khi anh còn tự do; cuối phim, khi hòa bình lập lại; và nửa gần kết phim, khi anh được chơi cho sĩ quan người Đức Hosenfield nghe. Thế nhưng với tôi, có lẽ lần chơi đàn trong căn phòng trống đó là khoảnh khắc Szpilman hạnh phúc nhất, dù anh chỉ chơi trong tưởng tượng vì “tuyệt đối không được gây ra tiếng động để người khác biết anh đang trốn ở đây!”

    Bởi khát vọng nghệ thuật trong anh vẫn cháy bỏng sau ngần ấy năm. Chạm vào cây đàn, sờ từng phím đàn, sự đam mê và cả sự hân hoan đến tuột cùng đó đã tạo ra sự khích lệ lớn hơn bao giờ hết trong anh. Trong cam khó nghiệt ngã, những điều thân quen, những niềm vui dù là nhỏ bé, khiêm nhường, nhưng cũng đủ đem đến cho con người niềm hạnh phúc lớn lao nhất, cũng giống như ước mơ “được trở thành nghệ sĩ Cello” của Janina, người bạn của Szpilman trước chiến tranh đã trở thành hiện thực. Bản nhạc anh chơi lúc này là Grande Polonaise brillante Op. 22 của Chopin, đó cũng là lý do tôi cảm nhận như vậy và sẽ phân tích chi tiết hơn ở phần tiếp theo của bài viết này. 
    Âm nhạc là sự phản kháng lớn nhất, dữ dội nhất và cũng là một thủ pháp nghệ thuật tinh tế nhất của Polanski với bộ phim. 
    Cũng chính trong căn phòng đó, Szpilman nghe được tiếng cặp tình nhân phòng bên tâm sự, khúc khích cười đùa, vui vẻ cùng nhau, trái tim anh như ấm lại vì chỉ cần còn tình yêu, thì con người vẫn còn nuôi dưỡng được hi vọng về tương lai tốt đẹp hơn.
    Thế nhưng tất cả, lại một lần nữa, bị phá tan một cách tàn nhẫn và bất ngờ bằng tiếng súng và lựu đạn chát chúa đến lạnh người trong cuộc nổi dậy của quân khởi nghĩa bên phía bên kia bức tường ngày 19/4/1943. Niềm vui ngắn chẳng tày gang, bộ phim lại tiếp tục cuốn người xem vào vòng xoáy vô định, bởi thân phận con người vô tội trong chiến tranh là thế, chẳng có gì được dự báo trước cả… 
    Dấu ba chấm của tôi, như một sự tiếc nuối đến khôn cùng khoảnh khắc đẹp đẽ đó…
    CON NGƯỜI
    Có lẽ đây là sự tương phản đáng sợ nhất và cũng là nhân văn nhất trong “trường ca Nghệ sĩ dương cầm". Trong thời kỳ đen tối kinh hoàng nhất của Thế chiến lần thứ II và của người dân Do Thái, con người chính là sự vô định lớn nhất.

    Giai đoạn này, những người Ba Lan bị phân tách thành hai nhóm: người Do Thái, đối diện với súng đạn, đói khát, cái chết hàng ngày, trên đường phố của khu tập trung; và những người còn lại với điều kiện sống hầu như bình thường. Mặc dù luôn có những người Ba Lan yêu thương đồng bào, tìm mọi cách giúp đỡ vô điều kiện cho người Do Thái như vợ chồng Dorota, vợ chồng Janina… nhưng ngược lại, dưới sự đàn áp và tuyên truyền của Đức Quốc Xã, không ít những người Ba Lan khác coi người Do Thái là kẻ thù.
    Họ tố cáo, gào lên trong hận thù hay thậm chí đuổi bắt khi gặp Szpilman. Lại một lần nữa, chúng ta được hiểu chiến tranh là như thế, con người xét cho cùng cũng là sinh vật khao khát được sống mà thôi. Cứ thế, cứ thế, Szpilman chạy trốn trong sự truy đuổi của kẻ thù, và cả chính những đồng bào của mình!
    Thế nhưng, đâu đó luôn tồn tại tình thương giữa người với người. Trong chuỗi ngày đó, Szpilman vô tình gặp Hosenfield, sĩ quan chỉ huy cao nhất của Đức Quốc Xã tại chốt phòng thủ cuối cùng của mặt trận Warsaw, là một người yêu nghệ thuật. Bản nhạc được chơi và được thưởng thức trọn vẹn bởi hai con người hai bên chiến tuyến, nhưng lại đồng điệu trong tâm hồn, bỏ qua mọi sự đối địch trong văn hóa, chiến tranh, hận thù… có lẽ đã khắc họa được giá trị cốt lõi nhất của nghệ thuật. Đồng cảm đã khiến Hosenfield giúp đỡ Szpilman tồn tại trong những ngày cuối cùng trước khi Hồng quân tiến vào Warsaw.
    Sự đối lập nghiệt ngã ở chỗ, trong bĩ cực, đồng bào có thể quay lưng lại với nhau, nhưng đôi khi kẻ thù lại giúp đỡ và cứu sống nhau. Điều này có lẽ lại làm tăng thêm xót xa với mỗi chúng ta mà thôi…
    ÂM NHẠC VÀ SỰ ĐẤU TRANH
    Như tôi đã chia sẻ ở phần trên, xuyên suốt The Pianist, âm nhạc được sử dụng như một thủ pháp sâu sắc nhất để khắc họa cảm xúc, tinh thần và sự phản kháng dữ dội nhất của bộ phim. Sẽ là không đủ nếu đưa Âm nhạc của The Pianist như một trong những yếu tố thể hiện sự đối lập, thế nên tôi tách ra một phần riêng để phân tích được sâu hơn.
    Toàn bộ OST của The Pianist đều sử dụng âm nhạc của Chopin, trừ bản “Moving to the Ghetto” của Wojciech Kilar (Nhà soạn nhạc cổ điển nổi tiếng của Balan) được làm nhạc nền khi bức tường Ghetto được xây lên vào đoạn đầu phim.
    Frédéric Chopin là một nhà soạn nhạc vĩ đại thiên tài người Ba Lan, sinh ra và lớn lên ở chính Warsaw, bối cảnh của bộ phim. Cả tuổi thơ ấu cho đến năm 21 tuổi của Chopin gắn bó với các giai điệu dân gian của vùng đồng bằng Ba Lan, với sự thanh khiết, đặc sắc, giàu âm hưởng dân vũ, chính vì thế, âm nhạc của Chopin mang nặng tình quê hương và là niềm tự hào của dân tộc Ba Lan. Đối với The Pianist, âm nhạc của ông được đạo diễn Polanski sử dụng ẩn dụ như một thứ sức mạnh phản kháng vô hình.
    Có 10 tác phẩm của Chopin được sử dụng trong bộ phim, tuy nhiên nổi bật nhất là ba phân đoạn mang đầy đủ ý nghĩa và tâm tư mà Polanski muốn truyền tải đến người xem.
    1. Nocturne No.20 in C-Sharp Minor Op. post 
    Nocturne No.20 được tách làm hai phần: Đoạn đầu tiên được Szpilman chơi khi mới bắt đầu bộ phim và phần còn lại được ông hoàn thành sau khi hòa bình, tại đài phát thanh Warsaw, cũng chính là nơi ông đã chơi phần đầu còn dang dở.
    Đây có thể coi là bản Nocturne đặc biệt nhất của Chopin, được viết năm 1930, tặng cho người em gái Ludwika trước khi ông buộc phải rời Ba Lan đến Pháp vào mùa thu năm 1931 để sống những năm tháng cuối đời. Khi ra đi, ông không hề biết sau đó mảnh đất nơi chôn rau cắt rốn của mình sẽ chìm vào chiến tranh và mãi mãi ông không thể quay trở lại được nữa. Chopin gửi gắm vào bản Nocturne này là nỗi day dứt, nhớ thương và sự khắc khoải về quê hương. Bản nhạc như tiếng lòng của Chopin cũng như mọi người con Warsaw xa xứ. 
    Nocturne No.20 in C-Sharp Minor Op. post được công diễn lần đầu tiên vào năm 1970, 21 năm sau khi Chopin qua đời, bởi nữ nghệ sĩ người Do Thái Natalia Karp, người sống sót sau cuộc diệt chủng Holocaust của Đức Quốc Xã.
    Lựa chọn bản nhạc này làm khúc mở đầu và kết thúc, Polanski muốn gửi gắm nỗi niềm của ông về tình yêu nước, sự u sầu và đau đớn mà những người Do Thái Warsaw phải đón chịu trong suốt thời kỳ u tối đó trong suốt các trường đoạn tiếp theo của bộ phim.
    2. Grande Polonaise brillante in E-flat major
    Đây là bản nhạc mà tôi đã nhắc đến ở Phần II (Những sự tương phản nghiệt ngã) của bài viết, được Szpilman chơi trong tưởng tượng, khi ông thấy lại chiếc dương cầm trong căn nhà trú ẩn. 

    Trái với sự u buồn của Nocturne No.20, đây là một tác phẩm có âm điệu nhẹ nhàng và trong sáng. Polonaise là một giai điệu trong âm nhạc dân gian của Ba Lan, bản Grande Polonaise Brillante của Chopin chứa đựng những nốt cao bay bổng, giai điệu tươi vui, mang đậm linh hồn Ba Lan. 
    Dù là chơi trong tưởng tượng, thế nhưng đó cũng là một khoảnh khắc rất hiếm hoi sau nhiều năm trốn chạy Szpilman đã mỉm cười. Ông cười bởi niềm hạnh phúc được chơi đàn, nhưng ẩn sau đó là nỗi niềm đau đớn của người đàn ông đã mất tất cả, toàn bộ gia đình, sự nghiệp, cuộc sống êm đềm và phải đối diện với những mất mát, kinh hoàng của chiến tranh. 
    Đây cũng là bản nhạc được Szpilman chơi hoàn thành trong buổi hòa nhạc ở cuối phim cùng đoạn credit, khi ông chơi thành tiếng trong đoàn giao hưởng hoành tráng, như một thông điệp rằng mọi điều dang dở đều sẽ được hoàn thành, vì nỗi đau nào rồi cũng sẽ qua đi mà thôi.
    3. Ballade No. 1 in G Minor, Op. 23
    Đây là đoạn nhạc mà Szpilman chơi cho viên sĩ quan Đức Quốc Xã Hosenfield tại căn nhà trú ẩn cuối cùng trước khi Liên Xô chiếm đóng Warsaw, và đây cũng là một bước sáng tạo tinh tế vô cùng của đạo diễn Polanski và cũng là phân đoạn tôi thích nhất bộ phim

    Trong cuốn hồi ký có thật của mình, nguyên tác của The Pianist, Szpilman đã kể lại rằng, bản nhạc ông chơi lúc đó vốn là bản Nocturne của Chopin; thế nhưng khi đọc kịch bản, đạo diễn Polanski đã thay đổi thành Ballade No. 1 in G Minor, Op. 23, một bản nhạc hùng tráng và quật cường hơn.
    Trước đó, khi trốn trên căn gác xép, Polanski đã vô tình nghe thấy tiếng đàn của Hosenfield chơi bản Moonlight Sonata vô cùng nổi tiếng của Beethoven. Điểm độc đáo, đó là Beethoven là nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức, vì vậy, để đáp lại, Polanski quyết định sử dụng âm nhạc của Chopin, nhà soạn nhạc vĩ đại người Ba Lan. 
    Phân cảnh chỉ gồm có tiếng đàn, cảm xúc hòa trộn giữa người chơi và người thưởng thức, thế nhưng đằng sau đó là sự đấu tranh bằng âm nhạc, giữa Chopin và Beethoven; giữa Ba Lan và Đức Quốc Xã, chứ tuyệt nhiên không phải giữa con người với con người trong chiến tranh.
    Ballade No. 1 được Szpilman chơi bằng tất cả nỗi niềm đau đớn nhất, bắt đầu từ những giai điệu từ tốn, chậm rãi, rồi được đẩy nhanh dần lên, những đoạn nghỉ và những đoạn nối đầy căm hận cứ quyện chặt vào nhau. Đây cũng là lúc duy nhất mà ông thể hiện sự cay đắng, phẫn nộ và cả sự căm hận chiến tranh đã cướp đi của ông quá nhiều điều quý giá.
    Hai người đàn ông ở hai bên chiến tuyến, một chiếc đàn và những bản nhạc, phải chăng có là thực tại tàn nhẫn thế nào đi nữa, cảm xúc chân nguyên nhất của con người cũng luôn chạm được vào nhau. Đó là cách mà bộ phim đã đưa những khắc khoải vào trái tim từng khán giả.
    MINH CHỨNG LỊCH SỬ
    Chẳng cần đao to búa lớn, cũng chẳng cần phải tô vẽ thêm vẻ hào hùng gì cho bức tranh vốn dĩ đã quá u tối thời điểm đó, trong ngần ấy năm tháng bị bỏ lại ở Warsaw, tất cả những gì Szpilman làm chỉ là chạy trốn, chạy trốn và chạy trốn. 
    Hành trình chạy trốn đã vô tình đưa Szpilman trở thành một chứng nhân lịch sử. Theo bước chân ông, chúng ta được chứng kiến một trong những giai đoạn kinh hoàng nhất của đất nước Ba Lan nói chung và người dân Do Thái nói riêng trong Thế chiến thứ II. 
    The Pianist được đạo diễn Roman Polanski nhấn mạnh qua 4 khoảnh khắc lịch sử lớn nhất trong suốt 6 năm Đức Quốc Xã chiếm đóng Warsaw.
    1. Khởi đầu chiến tranh Thế giới lần II bắt đầu bằng cuộc không kích của Đức Quốc Xã ngày 01/09/1939 
    Vào những phút đầu tiên của bộ phim là đoạn diễn văn rất nổi tiếng được phát trên radio của Phó thủ tướng Anh Neville Chamberlain ngày 03/09/1939, tuyên bố Anh sẽ tham gia vào Thế chiến thứ II khi Đức Quốc Xã đã không phản hồi việc rút quân khỏi Ba Lan:
    Chi tiết này cũng giống với chi tiết bước ngoặt trong bộ phim The Dig (2021) của đạo diễn Simon Stone, nhưng trái với sự lo lắng căng thẳng trong The Dig, gia đình Szpilman và cả Warsaw đều cảm thấy vui mừng khôn xiết, bởi họ biết các nước Đồng minh đã vào cuộc, niềm tin vào tương lai hòa bình trở nên thật sự mãnh liệt.
    Nghiệt ngã thay, thực tại lại không phải như vậy, sự can thiệp của Anh không đủ áp lực khiến Warsaw trụ vững, theo sau là một cuộc bao vây sát hại hàng chục ngàn thường dân và tàn phá các di tích lịch sử của Ba Lan. Bị cắt nguồn điện, nước và lương thực, 25% nhà cửa trong thành phố bị phá hủy, Warsaw buộc phải đầu hàng quân Đức vào ngày 27/09/1939; đó cũng là thời điểm những bức tường Ghetto được xây dựng để đưa toàn bộ hơn 500,000 người Do Thái của Warsaw vào tập trung trong không gian chưa đầy 2ha.
    2. Cuộc nổi dậy của ZOB (Żydowska Organizacja Bojowa - Tổ chức Do Thái Kháng chiến) ngày 09/4/1943 - 16/5/1943 tại Warsaw
    Đây chính là kế hoạch mà Majorek đã lập ra và Szpilman đã tham gia vào công tác vận chuyển vũ khí trong trại tập trung Ghetto Warsaw. 

    Tháng 04/1943, chỉ huy Đức Quốc xã Heinrich Himmler đã thông báo rằng khu Ghetto Warsaw phải được giải tỏa để tôn vinh ngày sinh nhật của Hitler. Đức Quốc Xã đã điều động hơn 1,000 lính SS tấn công khu vực giam cầm người Do Thái với xe tăng và pháo binh hạng nặng, buộc tổ chức ZOB của người Do Thái phải phản công để giành hi vọng sống sót.
    Đáng tiếc rằng sau hơn 1 tháng cầm cự, với lượng vũ khí nghèo nàn phải mua với giá cao, cùng với hỏa lực áp đảo của Phát xít Đức, ZOB đã thất bại. Trong cuộc nổi dậy, khoảng 300 lính Đức đã bị giết, và hàng ngàn người Do Thái đã bị tàn sát. Hầu như tất cả những người còn  sống sót sau Cuộc nổi dậy đều được đầy tới Treblinka để hỏa thiêu.
    3.Cuộc nổi dậy Warsaw (The Warsaw Uprising) ngày 01/8/1944 - 02/10/1944
    Chúng ta được chứng kiến một phần của cuộc chiến này ở nửa cuối bộ phim, khi Szpilman trốn trong bệnh viện quân y Đức, và quan sát bên ngoài thông qua một lỗ vỡ trên ô cửa sổ nhà vệ sinh.

    Nếu chỉ là xem bộ phim, chúng ta dễ hiểu lầm rằng Liên Xô đã giải phóng Warsaw, giải phóng Ba Lan, như một điều tốt lành mà quân Đồng Minh đã làm cho Thế giới, nhưng thực chất không hẳn là như vậy, mà đó cũng là những toan tính chính trị của Stalin và sự bỏ mặc nhằm chia chác và giảm thiểu tổn thất cho Liên Xô mà thôi.
    Theo dòng lịch sử, Ba Lan là đất nước đầu tiên bị xâm lược trong Thế chiến thứ hai, bị kéo vào một trong những thời kỳ thảm sát u tối nhất của lịch sử, nhưng khi có hi vọng được giải phóng bởi Liên Xô, Ba Lan lại phải đứng trước một lựa chọn đau thương: hoặc bắt đầu cuộc nổi dậy trong tình hình chính trị khó khăn và có nguy cơ thiếu sự hỗ trợ của Liên Xô, hoặc không thể nổi dậy và đối mặt với việc nếu Ba Lan được giải phóng bởi Hồng quân, thì Ba Lan sẽ bị lệ thuộc vào Liên Xô và mất đi Chính phủ hiện tại. 
    Trước sự hững hờ và có dấu hiệu trì hoãn của Stalin, Ba Lan buộc phải tiến hành kế hoạch này với hi vọng vừa là một biểu hiện chính trị của chủ quyền Ba Lan vừa là một hoạt động trực tiếp chống lại quân Đức chiếm đóng. 
    Cuộc nổi dậy đã diễn ra và thất bại trong 63 ngày với rất ít sự hỗ trợ từ bên ngoài. Đây là nỗ lực quân sự lớn nhất được thực hiện bởi bất kỳ phong trào kháng chiến châu Âu nào trong Thế chiến thứ hai. Kết quả là toàn bộ Warsaw bị phá hủy gần như hoàn toàn, gần 200 nghìn người Ba Lan bị sát hại hoặc bị bắt giữ. 
    4. Giải phóng Warsaw ngày 17/01/1945 của Hồng quân và quân đội chính quy Ba Lan – The First Polish Army
    Đây là khoảnh khắc mà Szpilman thấy Hồng quân Liên Xô kéo vào Warsaw, anh vui mừng chạy ra ôm lấy mọi người, khi biết chuỗi ngày hòa bình đã bắt đầu trở lại.

    Một chi tiết đáng buồn trong lịch sử mà có lẽ chúng ta cần phải đánh giá lại góc nhìn về Liên Xô trong bộ phim này, đó là ngay khi Đức Quốc Xã xâm lược Ba Lan ngày 01/09/1939 từ phía Tây, thì ngày 17/09/1939 Liên Xô cũng xâm lược Ba Lan từ phía Đông!
    Sau khi cuộc nổi dậy The Warsaw Uprising thất bại, dẫn đến những thiệt hại cực kỳ khủng khiếp cả về nhân lực, vật lực của Ba Lan, Hồng quân Liên Xô mới tiến vào đẩy nốt phần còn lại của Đức Quốc Xã khỏi Ba Lan trước khi ký hiệp định biên giới Ba Lan - Liên Xô vào ngày 16/8/1945 dưới sức ép của Chính phủ Anh.
    THAY CHO LỜI KẾT
    Bộ phim đạt vô số giải thưởng, nhưng danh giá nhất là 3 giải Oscar cho 3 hạng mục quan trọng: Đạo diễn xuất sắc nhất Roman Polanski; Diễn viên chính xuất sắc nhất Adrien Brody và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất Ronald Harwood sau khi có được 7 đề cử vào lễ trao giải lần thứ 75 năm 2003.
    Những lời khen dành cho Polanski tôi đã nói quá đủ trong phần nội dung của bài Đánh giá; nhưng để đưa tác phẩm thành hình, truyền được đầy đủ và chân thật nhất cảm xúc cho người xem, không thể không nhắc đến diễn xuất quá tuyệt vời của Adrien Brody với vai diễn Władysław Szpilman! 
    Để thực hiện bộ phim, Brody phải khổ luyện đàn dương cầm trong nhiều tháng ròng rã và phải giảm 14kg cho đúng với thể hình của Szpilman thời điểm đó. Mọi cảm xúc, nội tâm và nỗi khắc khoải đau đớn nhất của Szpilman được Brody chuyển thể quá hoàn hảo qua đôi mắt xanh đầy ma mị của mình. Vai diễn Szpilman cũng ám ảnh Brody trong suốt 15 năm sau dó. Anh hoàn toàn xứng đáng khi trở thành diễn viên trẻ nhất từng đạt danh hiệu này năm 29 tuổi. 
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  14. "Crash" (1996) là một bộ phim của đạo diễn David Cronenberg, chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của J.G. Ballard. Phim khám phá những mối liên hệ giữa tình dục, bạo lực và công nghệ trong xã hội hiện đại.
    Câu chuyện xoay quanh một nhóm người có niềm đam mê kỳ lạ với tai nạn xe hơi. Nhân vật chính, Vaughan (James Spader), là một nhà quay phim vừa trải qua một tai nạn xe hơi. Sau tai nạn, anh gặp gỡ và bị cuốn vào một thế giới của những người có sở thích tình dục kỳ lạ liên quan đến những vụ tai nạn. Vaughan cùng với một người phụ nữ tên là Catherine (Deborah Kara Unger) và một người chồng tên là Graham (Eric McCormack) khám phá những giới hạn của bản thân và mối quan hệ giữa tình dục và cái chết.
    Phim đặt ra nhiều câu hỏi về sự ám ảnh, sự tha hóa trong xã hội hiện đại và cách mà con người kết nối với nhau qua những trải nghiệm cực đoan. Với hình ảnh táo bạo và chủ đề gây tranh cãi, "Crash" đã tạo ra nhiều phản ứng mạnh mẽ từ khán giả và giới phê bình, trở thành một tác phẩm gây tranh cãi và mang tính biểu tượng trong điện ảnh.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  15. Tôi xem Tâm trạng khi yêu (In the mood for love) rồi mới xem đến Vượng giác ca môn (As tears go by). Giữa hai bộ phim của đạo diễn Vương Gia Vệ là khoảng cách hơn một thập kỉ, Tâm trạng khi yêu ra mắt năm 2000 còn Vượng giác ca môn là 1988. Bộ phim năm 2000 được đánh giá là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của vị đạo diễn họ Vương, còn bộ phim năm 1988 chính là tác phẩm đầu tay của ông.

    Như rất nhiều tác phẩm đầu tay, Vượng giác ca môn có một vẻ ngây thơ, đơn thuần của những người mới bước chân vào con đường nghệ thuật. Tôi nghĩ những người mới bắt đầu sáng tạo đều như vậy: rất nhiệt tình, thuần khiết, mơ mộng và cũng rất ngây thơ, có phần bồng bột. Cũng giống như tuổi trẻ trong Vượng giác ca môn vậy.
    Nội dung phim cũng không quá phức tạp, xoay quanh chuỗi ngày quẩn quanh đòi nợ - vay nợ - trả hộ nợ - đánh nhau – thôi không đánh nhau của hai anh em xã hội đen trẻ tuổi Hoa (Lưu Đức Hoa) và Fly (Trương Học Hữu), cùng mối tình giữa Hoa và Nga - cô em họ của anh (Trương Mạn Ngọc). Chỉ vậy thôi mà tôi lại thích phim rất nhiều. Có thể vì Trương Mạn Ngọc của phim này còn quá trẻ, đôi mắt trong sáng chưa trải qua thời gian như những bộ phim sau. Cũng có thể vì những khung hình đẹp như cắt ra từ những bức tranh.

    Một trong những khung hình đọng lại thật lâu trong kí ức của tôi về bộ phim là cảnh những tán cây xanh mướt xào xạc trong gió. Những nhân vật trong phim cứ giải quyết các ân oán (vặt vãnh) chốn giang hồ, mải yêu đương rồi lại chia tay, còn những chuyến xe bus màu vàng vẫn cứ đều đều lướt qua nhau, người đi rồi về, hoặc đi rồi không bao giờ quay trở lại, và cây lá cứ xanh rì, vi vu. Xanh như tuổi trẻ bốc đồng và khờ dại.
    Có lẽ chỉ khi còn trẻ người ta mới bất chấp mọi lý lẽ để yêu một người mà mình biết là khó có tương lai. Khi A Nga bỏ anh bác sỹ lại để chạy đi tìm Hoa, hẳn cô cũng không nghĩ gì nhiều, chỉ đơn giản là không muốn trốn chạy tình cảm của mình thêm một chút nào nữa. Khi cô vừa khóc vừa tiễn Hoa ở bến xe, có lẽ cô cũng bất an về một ngày anh sẽ không bao giờ trở lại. Cô biết hết, biết hết chứ, về kết cục không mấy tươi sáng cho mối quan hệ của hai người. Chính A Nga đã chứng kiến cuộc sống lộn xộn, nguy hiểm của Hoa, cũng chính cô lại mua cho anh những chiếc cốc mới để thay cho những chiếc cốc anh đã làm vỡ.
    Tuổi 30, 40, bạn có thể thôi gật gù theo những bản nhạc pop vào một sáng đẹp trời, cất những bộ quần áo thùng thình vào xó tủ. Nhưng tuổi 20, bạn đủ điên cuồng để yêu mà không nghĩ đến ngày mai, để lên một chuyến xe mà chưa rõ điểm đến.
    Tuổi 20, có đôi lúc bạn muốn làm anh hùng, thấy cảnh sống đời tẻ nhạt sao mà chán chết. Fly (Trương Học Hữu) cứ muốn phải trở thành một cái gì đó khác với con người hắn hiện tại. Hắn cứ ăn nói bạt mạng, đánh nhau tơi bời, lắm lúc gây ra toàn chuyện phiền phức cho đàn anh A Hoa, cũng chỉ vì hắn không biết phải làm gì với đời mình. Những màn trừng phạt, gây hấn liều mạng trong phim giữa hai anh em A Hoa – Fly và băng đảng của anh áo sọc nhiều lần khiến tôi nghĩ rằng, hay là tất cả xã hội đen trẻ tuổi trong phim này đều vậy, đều không biết phải làm gì với đời họ nên cứ đi đấm, đá, thụi, bịch chỉ vì những lý do hết sức cỏn con?
    “Những người như chúng ta làm gì có ngày mai”
    Nhân vật Fly trong Vượng giác ca môn khiến tôi nghĩ tới Betty Blue trong bộ phim cùng tên của điện ảnh Pháp. Cả hai đều hành động bột phát, không ai biết sắp tới họ sẽ làm gì, và buồn thay, hành động nào cũng chỉ dẫn tới sự tự hủy hoại mình. Betty rạch luôn chiếc lược sắt vào mặt gã biên tập đã buông lời miệt thị tác phẩm của người đàn ông cô yêu, còn Fly nổi khùng khi đám lâu la của kẻ thù châm chọc việc anh đứng bán cá viên ở lề đường, để rồi nhận lấy những trận đòn nhừ tử. Bán cá viên à? Bán cá viên thì có gì là oách, tôi đây muốn làm anh hùng cơ, muốn làm một người có vị thế cơ, Fly nghĩ vậy, nên anh ta tung hứng cái kéo cắt cá viên rồi để kéo rớt luôn vào nồi nước, khi cảnh sát hỏi đến thì đốp chát lại, dùng kéo cắt… lông mũi, rồi kết cục cũng bỏ luôn xe bán cá. Khi Fly mang điều hòa về cho mẹ, mẹ anh ta từ chối không nhận, anh ta cũng vứt luôn cái điều hòa xuống sông.

    Thằng nhóc Holden Caufield trong Bắt trẻ đồng xanh cũng chẳng từng muốn đến làm việc ở trạm xăng, rồi giả câm giả điếc để không phải trò chuyện với ai đấy thôi. Tuổi trẻ có thừa những lúc bơ vơ và cô đơn đến như thế. Khi tuổi trẻ qua đi, những cô gái như A Nga rất có thể sẽ quay về với anh bác sỹ hiền lành, công việc ổn định, bỏ lại sau lưng mối tình chớp nhoáng và say đắm thời mắt còn biếc, ánh nhìn còn thơ ngây. Những kẻ lạc lõng, không có nổi một mái nhà để tìm về như A Hoa hay Fly hoặc là tự hủy hoại mình, hoặc là sẽ tìm một công việc bình lặng, đàng hoàng hơn để bắt đầu lại. Họ có thể sẽ ổn, hoặc không ổn, nhưng dù gì đi nữa, thì cái màu xanh rì mướt mắt của những tán cây ngày hôm ấy, tuổi trẻ ngốc nghếch một thời ấy, sẽ không còn bao giờ quay trở lại nữa.  
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  16. "When Harry Met Sally..." (1989) là một bộ phim hài lãng mạn do Rob Reiner đạo diễn và được viết bởi Nora Ephron. Phim kể về câu chuyện tình yêu giữa Harry Burns (Billy Crystal) và Sally Albright (Meg Ryan), diễn ra trong suốt nhiều năm.
    Câu chuyện bắt đầu khi Harry và Sally gặp nhau trên một chuyến đi từ Chicago đến New York. Họ có những quan điểm khác nhau về tình yêu và tình bạn giữa nam và nữ. Sau nhiều cuộc gặp gỡ, cả hai trở thành bạn bè, nhưng với những trải nghiệm tình cảm và các mối quan hệ riêng của họ, sự căng thẳng và cảm xúc dần phát triển.
    Phim khéo léo khám phá những câu hỏi về tình yêu, tình bạn và sự khác biệt giữa hai giới. Những đoạn đối thoại thông minh và hài hước, cùng với những khoảnh khắc đáng nhớ, khiến bộ phim trở thành một tác phẩm kinh điển. Câu nói nổi tiếng “I’ll have what she’s having” từ một cảnh trong phim đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa đại chúng.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  17. "Ghost Dog: The Way of the Samurai" (1999) là một bộ phim của đạo diễn Jim Jarmusch, kết hợp giữa thể loại hành động và tâm lý. Phim kể về Ghost Dog, một sát thủ người Mỹ gốc Nhật, do Forest Whitaker thủ vai. Anh sống theo triết lý của samurai và tuân thủ những nguyên tắc của cuốn sách "Hagakure".
    Ghost Dog làm việc cho một ông trùm mafia, nhưng khi một nhiệm vụ sai lầm xảy ra, anh trở thành mục tiêu của chính những người đã thuê mình. Phim khám phá mối quan hệ giữa văn hóa Nhật Bản và cuộc sống hiện đại ở New York, cũng như những xung đột giữa đạo đức và nghĩa vụ.
    Câu chuyện tập trung vào hành trình của Ghost Dog trong việc giữ vững nguyên tắc samurai giữa một thế giới đầy bạo lực và phản bội. Với phong cách kể chuyện độc đáo, nhạc nền ấn tượng và hình ảnh nghệ thuật, phim mang đến một cái nhìn sâu sắc về danh dự, lòng trung thành và bản chất con người.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  18. "The Swimming Pool" (1969) là một bộ phim tâm lý kinh dị của đạo diễn Jacques Deray, với sự tham gia của nữ diễn viên Romy Schneider và Alain Delon. Câu chuyện xoay quanh một cặp đôi, Jean-Paul và Marianne, đang nghỉ hè tại một biệt thự bên bờ biển.
    Khi Marianne mời một người bạn cũ, Penélope, đến nghỉ ngơi cùng họ, mối quan hệ giữa các nhân vật trở nên phức tạp. Tình cảm ghen tuông, sự bí ẩn và những mâu thuẫn giữa họ dẫn đến một chuỗi sự kiện căng thẳng. Những mối quan hệ phức tạp và những bí mật dần được tiết lộ, tạo nên không khí kịch tính và hồi hộp.
    Phim không chỉ khám phá tình yêu và sự ghen tuông mà còn phản ánh về bản chất con người trong những tình huống khó khăn. Với những hình ảnh đẹp và nhạc nền lôi cuốn, "The Swimming Pool" đã để lại ấn tượng mạnh mẽ và trở thành một tác phẩm kinh điển trong thể loại tâm lý.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  19. Nhắc đến những bộ phim về những con quái vật mang đến thảm họa nhân loại trên màn ảnh rộng xứ Hàn, không thể không kể đến những tác phẩm của đạo diễn Bong Joon Ho. Cùng với những tên tuổi nổi bật như Park Chan Wook, Kim Jee Won,… Bong Joon Ho được xem là đại diện cho thế hệ đạo diễn đứng đầu Hàn Quốc đã có thành tựu trên phim trường quốc tế.
    Trước khi trình làng với bữa tiệc quái vật thật sự trong The Host (Quái Vật Sông Hàn), đạo diễn Bong Joon Ho cũng đã thành công khắc họa những con "quái vật" là hiện thân của những góc khuất và tối tăm của loài người. Trong Memories of Murder (Hồi Ức Kẻ Sát Nhân), con quái vật của Bong Joon Ho chính là một tên sát nhân liên hoàn không khác gì "ông kẹ" chui nhủi trong bóng đêm và liên tục xuất hiện gieo rắc sự tuyệt vọng cho người dân ngôi làng. Còn trong Snowpiercer (Chuyến Tàu Băng Giá), con quái vật lại là những kẻ bóc lột ở tầng lớp giai cấp thống trị của chủ nghĩa tư bản.
    Song, con quái vật "hàng thật giá thật" trong The Host lại mới là nguyên do đưa tên tuổi của đạo diễn Bong Joon Ho lên một tầm cao mới, là tiền đề cho siêu phẩm Mother đã đoạt giải Rồng Xanh cho phim điện ảnh xuất sắc nhất năm 2009. Với diện mạo dữ tợn cùng hàm răng sắc nhọn có khả năng nuốt trọn một người trưởng thành, lớp da bầy nhầy và cái đuôi to dài quật tất cả chướng ngại vật cản đường nó, con quái vật đã mang đến ác mộng thật sự cho những người dân thủ đô Seoul.
    Tuy rằng những hiệu ứng đặc biệt vẫn chưa thật sự trau chuốt, nhưng con quái vật cảm hứng từ màn trình diễn hoang dã của Steve Buscemi trong Fargo của đạo diễn Bong Joon Ho cùng với đội của ông đã thật sự gây ấn tượng mạnh với khán giả theo dõi The Host. Một con quái vật có hình dạng tương tự sinh vật thần thoại Chimera sống trong lòng sông và cống rãnh có cấu tạo mồm kì dị khiến người xem ám ảnh, vừa cực kì đáng sợ song cũng ngu ngốc đơn thuần như bản tính động vật. Tất cả đã khiến con quái vật ẩn chứa đầy bất ngờ và ngạc nhiên cho đến tận những phút cuối cùng của bộ phim. Khán giả sẽ không thể đoán được lúc nào con quái vật xuất hiện, hay thứ gì sẽ được nôn ra từ cái miệng đầy kì dị của nó. Tuy nhiên, ẩn số lớn nhất mà The Host mang đến lại chính là sự thôi thúc khiến khán giả phải thật sự "nhìn" vào nội tâm con quái vật đáng sợ này.
    Vào thời điểm đó, việc đạo diễn Bong Joon Ho theo đuổi điều không tưởng và tạo dựng một bộ phim về quái vật theo bước bộ phim đình đám Godzilla là một điều vô cùng tự nhiên. Cụ thể hơn, ông đã áp dụng công nghệ hiện đại vào bộ phim để bình luận về tương lai vô định của một quốc gia châu Á vừa bước ra khỏi chiến tranh và đang cố gắng vượt qua hậu quả của cuộc chiến.
    Suy cho cùng, việc đạo diễn Bong Joon Ho tạo dựng hình tượng một con quái vật thật sự trong khi những bộ phim còn lại của ông đã cho thấy sự hiện hữu của quái vật là không có thật, vốn chỉ là ẩn dụ của góc khuất con người là một việc khá kì quái và còn thể gây phản tác dụng. Và quyết định sử dụng hình tượng quái vật làm trọng tâm của phân đoạn đầu của phim đã định rõ được đặc trưng của bộ phim.
    Liệu The Host chỉ đơn thuần là một bộ phim bi hài về một gia đình bình thường ở Hàn Quốc cố gắng giải cứu thành viên nhỏ tuổi nhất, hay những gì đạo diễn Bong Joon Ho muốn gửi gắm sau bộ phim là một điều gì đó sâu xa hơn "Đừng tin những lời của chính phủ, hãy chỉ tin vào gia đình của bạn"? Đạo diễn Bong Joon Ho muốn chúng ta nhìn nhận được điều gì khi ông cho quái vật xuất hiện giữa ban ngày ban mặt và những đặc điểm đáng sợ và nhớp nháp của nó được triển lãm trước mắt người xem thay cho những hình ảnh "quái vật" quen thuộc từng được sử dụng trước đây? Vì sao bộ phim The Host nhanh chóng bình thường hoá con quái vật của mình bằng việc sử dụng những cảnh quay toàn cảnh rộng và tinh tế khiến con quái vật trở thành một phần của quang cảnh trong phim? Ở thời diểm hiện tại, thời điểm mà kỷ nguyên của CGI và những hiệu ứng đặc biệt mở ra, khi mà khán giả có thể dễ dàng xem những con quái vật thật sự trên màn ảnh, siêu phẩm của đạo diễn Bong Joon Ho cuối cùng cũng có thể triển lộ sự tuyệt vời của nó.
    Những thước phim của The Host đã khéo léo lồng ghép sự chỉ trích những ảnh hưởng nặng nề của tàn quân Mỹ còn sót lại ở Hàn Quốc mang đến, đồng thời còn có sự châm biếm ý nhị về hậu quả của vũ khí hủy diệt hàng loạt và chiến tranh Iraq gây ra cho quốc gia này. Lấy cảm hứng từ văn hoá và hiện thực của Hàn Quốc, đạo diễn Bong Joon Ho đã xây dựng hình tượng các nhân vật trong phim như một lũ ngốc: từ anh chàng thiện lương Song Kang Ho vụng về đến vị quan chức mờ ám trong bộ quần áo bảo hộ, người đã ngã sõng soài xuống đất khi vừa xuất hiện.
    Sự thô cứng của hiệu ứng kĩ xảo trong The Host không chỉ đơn thuần là một nét cuốn hút của bộ phim mà chính là mục đích của đạo diễn Bong Joon Ho. Đây là câu chuyện về một ác nhân nhẫn tâm thải 90 lít hóa chất độc hại formaldehyde vào nguồn nước sông Hàn với khoái cảm tàn bạo để rồi nuôi dưỡng ra con quái thú này. Là câu chuyện về một quái vật sống dưới gầm cây cầu nổi tiếng nhất Seoul trước khi lên bờ để mang đến cơn ác mộng thật sự cho dân chúng.   
    The Host chính là câu chuyện nghiệt ngã về một xã hội mà chính phủ không ngần ngại lợi dụng cơ hội để trừng phạt những người dân yếu đuối, và về những nhà khoa học kinh tởm, những người đã công khai khoe khoang rằng họ sẽ cắt vào não bộ của nhân vật Song Kang Ho để khiến anh ta phải im lặng. Câu chuyện này cũng cho thấy rằng sức mạnh của con người được đo lường bởi sự bảo vệ mà họ dành cho những người yếu đuối nhất. Bộ phim của Bong Joon Ho bắt đầu với hình ảnh của một tiệm tạp hoá ven sông và dần phát triển theo mô tuýp của nhà văn Dickens khi hai nhân vật mồ côi xuất hiện trong phim.
    Lý do The Host trở thành bộ phim đại diện cho nền điện ảnh Hàn Quốc về đề tài quái vật ở thế kỷ 21 không phải chỉ vì bộ phim đã đào sâu vào khai thác mặt tối của truyền thông chính phủ, mà còn vì The Host là bộ phim duy nhất về thể loại này mà không phải là phép ẩn dụ cho bất cứ một điều gì. Thảm họa trong The Host cực kì rõ ràng, là một Tổng thống phân biệt chủng tộc vi phạm luật cấm nhận "các khoản thù lao" từ chính phủ quốc gia khác, chà đạp lên quyền và lợi ích cũng như sức khỏe của người dân. Nền dân chủ trong The Host không khác gì một trò chơi chuyên quyền của những người thuộc cao tầng chỉ quan tâm lợi ích bản thân mà bỏ qua nhân dân của họ. Điều đó đã de dọa trực tiếp đến tính mạng của người dân Đại Hàn.
    Bằng những thước phim diễn tả sinh động cảnh con quái thú chạy dọc theo bờ hồ sông Hàn và càn quét tất cả sinh mạng của những người dân vô tội trên đường đi, The Host của đạo diễn Bong Joon Ho đã tinh tế truyền tải một thông điệp: Muốn sống sót, trước tiên phải thừa nhận bản thân đang đối mặt với thảm họa, đồng thời đừng quên thứ gọi là tình nghĩa. Thế giới chúng ta đang sống có thể là một thế giới tràn ngập hiềm nghi, tư tưởng cố hữu của nhân loại khiến bản thân loài người khó có thể tin tưởng vào sự tồn tại của những con quái vật, dẫn đến sự trở tay không kịp khi chúng thật sự xuất hiện trước mặt loài người.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  20. Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra nhận lời thách thức từ Hoàng đế La Mã Julius Caesar xây dựng một cung điện xa hoa giữa sa mạc trong ba tháng. Nếu thành công, Caesar sẽ phải thừa nhận công khai rằng người dân Ai Cập là những người vĩ đại nhất trong tất cả các dân tộc. Để làm được điều này, Cleopatra kêu gọi Numérobis - kiến trúc sư tiên phong tràn đầy năng lượng. Nhận thức được độ khó của vấn đề, Numérobis đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ người bạn cũ Druid Getafix. Druid đến Ai Cập cùng với Asterix và Obelix. Mặt khác, Amonbofis - kiến trúc sư chính thức của Cleopatra ghen tị với việc nữ hoàng chọn Numérobis sẽ làm mọi cách để đánh bại đối thủ.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  21. "DogMan" (2023) là bộ phim do Luc Besson đạo diễn, xoay quanh một câu chuyện cảm động về tình bạn giữa một cậu bé và những chú chó.
    Nội dung phim kể về một cậu bé tên là Damien, người sống trong một môi trường khó khăn và bị bạo hành bởi cha mình. Trong những khoảnh khắc tuyệt vọng, cậu tìm thấy sự an ủi và bảo vệ từ một nhóm chó hoang. Những chú chó này trở thành bạn đồng hành và là nguồn động lực cho Damien, giúp cậu vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
    Khi lớn lên, Damien phát triển mối quan hệ đặc biệt với các chú chó, và cậu quyết định sử dụng kỹ năng của mình để bảo vệ những sinh vật mà mình yêu quý. Câu chuyện dẫn dắt khán giả qua hành trình của Damien, từ những trải nghiệm đau thương đến những quyết định mạnh mẽ nhằm bảo vệ những người và động vật mà cậu yêu thương.
    Phim không chỉ thể hiện tình yêu thương giữa con người và động vật mà còn khai thác những chủ đề về sự trưởng thành, sự tha thứ và tìm kiếm một nơi thuộc về. Với phong cách điện ảnh đặc trưng của Luc Besson, "DogMan" mang đến những hình ảnh đẹp và cảm xúc sâu sắc.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  22. "The 400 Blows" (tựa gốc tiếng Pháp: "Les Quatre Cents Coups") là một bộ phim nổi tiếng của đạo diễn François Truffaut, phát hành năm 1959. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của phong trào điện ảnh Nouvelle Vague (Đại diện mới) của Pháp.
    Nội dung phim xoay quanh cuộc sống của một cậu bé 12 tuổi tên là Antoine Doinel (do Jean-Pierre Léaud thủ vai). Antoine sống ở Paris cùng với cha mẹ, nhưng cậu thường xuyên cảm thấy bị bỏ rơi và không được thấu hiểu. Cha mẹ của cậu không có mối quan hệ tốt đẹp và thường xuyên cãi vã, điều này khiến Antoine cảm thấy cô đơn và không hạnh phúc.
    Cậu bé bắt đầu tìm cách nổi loạn và khám phá cuộc sống, nhưng những hành động bốc đồng của mình dẫn đến nhiều rắc rối. Antoine trốn học, ăn trộm và tìm kiếm sự tự do trong một thế giới mà cậu cảm thấy không thuộc về. Cuối cùng, khi tình hình trở nên tồi tệ hơn, Antoine bị đưa vào một trại giáo dưỡng.
    Bộ phim thể hiện một cách chân thực và sâu sắc những cảm xúc của tuổi thơ, sự bất mãn và khát khao tự do. "The 400 Blows" không chỉ là một câu chuyện về một cậu bé mà còn phản ánh xã hội và hệ thống giáo dục của thời đại. Với cách kể chuyện độc đáo và hình ảnh đẹp, phim đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử điện ảnh và được coi là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của điện ảnh Pháp.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  23. "The Wages of Fear" (tựa gốc tiếng Pháp: "Le Salaire de la peur") là một bộ phim kinh điển của đạo diễn Henri-Georges Clouzot, phát hành năm 1953. Phim dựa trên cuốn tiểu thuyết của Georges Arnaud và xoay quanh một nhóm người sống trong một thị trấn hẻo lánh ở Nam Mỹ.
    Nội dung phim kể về bốn người đàn ông: Mario, Jo, Bimba và Luigi, những người sống trong cảnh nghèo khổ. Họ tìm cách kiếm tiền bằng cách tham gia vào một nhiệm vụ nguy hiểm: vận chuyển một lô chất nổ từ một công ty khai thác dầu đến một địa điểm xa xôi. Công việc này vô cùng rủi ro, vì họ phải lái xe qua những con đường hiểm trở, đầy chướng ngại vật và rủi ro có thể dẫn đến cái chết.
    Khi họ bắt đầu hành trình, phim không chỉ thể hiện những tình huống hồi hộp và căng thẳng mà còn đào sâu vào tâm lý của các nhân vật, thể hiện sự tuyệt vọng và tham lam của con người trong những hoàn cảnh khó khăn. Những yếu tố như tình bạn, sự phản bội và nỗi sợ hãi cũng được khai thác một cách sâu sắc.
    Phim được ca ngợi vì kỹ thuật kể chuyện và cách xây dựng căng thẳng, cũng như các màn trình diễn ấn tượng của dàn diễn viên. Phim đã giành được nhiều giải thưởng, bao gồm cả giải Palme d'Or tại Liên hoan phim Cannes. Đây là một tác phẩm xuất sắc, phản ánh con người trong những tình huống khắc nghiệt và những lựa chọn khó khăn.
    • 1 Downloads
    Joker
    Updated
  24. A Better Tomorrow (1986) quy tụ một dàn diễn viên đình đám của điện ảnh Hồng Kông với những cái tên như Châu Nhuận Phát, Địch Long, Trương Quốc Vinh, đặc biệt là có sự tham gia của đạo diễn Ngô Vũ Sâm và giám chế Từ Khắc trong vai trò diễn viên khách mời.
    Sau thành công của “Bến Thượng Hải” cùng hình tượng Hứa Văn Cường, lần này Châu Nhuận Phát tiếp tục vào vai một đại ca xã hội đen. Anh diễn xuất quá “ngọt”, quá tự nhiên và duyên dáng, khiến người ta không khỏi có cảm giác nhân vật này sinh ra là để dành cho anh. Phá vỡ định kiến về việc cho rằng hễ cứ trùm mafia là phải lạnh lùng, dữ tợn, anh xuất hiện với một phong thái hài hước, hào sảng, tràn đầy nét ngông cuồng của một tay ăn chơi có hạng, kèm theo đó là nụ cười luôn nở trên môi. Không chỉ dừng lại ở đó, Châu còn thể hiện trọn vẹn hình tượng một con người trọng nghĩa khí, sẵn sàng xả thân vì bạn bè, hay một tay anh chị có lúc lên voi xuống chó với những biểu cảm sinh động và phong phú. Anh đã chứng minh được khả năng diễn xuất của mình không chỉ gói gọn trong các dạng phim hành động đơn thuần mà còn nhiều thể loại khác nữa.
    Người bạn thân chí cốt của Châu Nhuận Phát trong phim, Địch Long, tuy không thật sự ấn tượng và tỏa sáng như đồng sự của mình, nhưng dầu sao anh cũng đã diễn tròn vai, giúp chúng ta cảm nhận được một Tống Tử Hào trầm ổn, già dặn, có lúc cũng đầy hối hận hay đau đớn và bất lực khi không được tha thứ, khi nhận ra không có cơ hội để mình hoàn lương.
    Lúc tham gia diễn xuất trong A Better Tomorrow (1986), Trương Quốc Vinh vẫn còn là người mới và chưa nổi tiếng như này. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể nhận ra ánh hào quang xán lạn phát ra từ ngôi sao mang tầm cỡ quốc tế đó. Anh cùng với sự tươi sáng và nhiệt thành của mình, hệt như làn gió xuân tươi mát nhất, thanh khiết nhất thổi vào lòng bất cứ ai xem phim.
    Hình ảnh, âm thanh
    Có lẽ do được sản xuất vào thập niên 80 tại Hồng Kông, kỹ xảo còn hạn chế nên A Better Tomorrow I không có những màn cháy nổ hoàng tráng, những pha rượt đuổi thót tim như trong những siêu phẩm điện ảnh Mỹ thường thấy sau này. Các cảnh hành động trong phim hầu hết là những màn đọ súng đơn thuần, tuy nhiên chúng vẫn được dàn dựng một cách bài bản, hợp lý mang lại kịch tính cao trào và những giây phút hồi hộp cho người xem.
    Hình ảnh cùng màu sắc trong phim chưa có gì thực sự nổi bật, không có bối cảnh đẹp, cũng không sử dụng hiệu ứng. Chỉ thỉnh thoảng chúng ta mới thấy được một số khung hình mang tính nghệ thuật nhờ vào ánh sáng và góc quay trong những cảnh tranh tối tranh sáng hoặc quay cận cảnh để đặc tả khuôn mặt diễn viên, ngoài ra thì những phân đoạn lúc tràn ngập ánh sáng mặt trời cũng khá là đẹp mắt. Nói tóm lại thì phần hình ảnh của “A Better Tomorrow I” mới dừng lại ở mức độ chân thực và “đủ dùng”, không quá xuất sắc nhưng cũng tuyệt đối không phải tệ hại.
    Trong khi tác phẩm điện ảnh này chưa để lại được ấn tượng gì nhiều về mặt thị giác, thì phần âm nhạc của nó lại thực sự là một điểm nhấn. Những đoạn có sử dụng nhạc nền chiếm đa số thời lượng của cả bộ phim. Tùy vào từng thời điểm mà nhạc nổi lên sẽ mang giai điệu sôi nổi vui tươi hay hồi hộp, kịch tính, hay da diết, bi thương. Các soundtrack được sử dụng trong phim khá phong phú, đáng nói nhất là bài hát chủ đề “Đương niên tình” qua giọng ca truyền cảm của chính Trương Quốc Vinh. Nhạc vốn hay lại còn được thể hiện tốt, không có gì khó hiểu khi ca khúc đó đã vượt ra khỏi vai trò nhạc nền và có được vị trí độc lập với bộ phim, đồng thời được yêu thích cho đến tận ngày nay.
    Nội dung
    A Better Tomorrow (1986) xoay quanh hai tay đàn anh trong thế giới ngầm của Hồng Kông cùng một người em trai, tréo ngoe thay, lại làm cảnh sát. “Huynh đệ cảnh tặc” không phải là một đề tài mới mẻ nhưng bộ phim đã rất khéo léo và tinh tế trong việc khắc họa, khai thác diễn biến nội tâm cũng như tính cách của từng nhân vật, khiến cho nó có chiều sâu và tạo nên xúc cảm đặc biệt cho người xem. Những sợi dây tình cảm, những mối quan hệ trong phim nhiều khi đầy mâu thuẫn và chồng chéo, một mặt chúng gắn kết các nhân vật lại, mặt khác lại khiến họ phải trăn trở, làm tổn thương nhau và thất vọng về nhau.
    Sẽ thật thiếu sót nếu đã nói về A Better Tomorrow I mà lại không nhắc tới tình bằng hữu, tình huynh đệ sống chết có nhau đầy xúc động và đáng khâm phục giữa Mark, Hào và Kiệt. Giữa họ từng có thể xảy hiểu lầm, mâu thuẫn, hay khác biệt về quan điểm và con đường đi, nhưng cho đến phút cuối cùng, cả ba đều sát cánh bên nhau, che chở, bảo vệ và tin tưởng lẫn nhau. Đây có thể nói là những khoảnh khắc đáng giá nhất của cả bộ phim, khiến nhiệt huyết trong người ta sôi trào, khiến lệ nóng dâng tràn bờ mi, khiến ta không khỏi bùi ngùi cảm khái về hai chữ nghĩa tình.
    Ngoài ra, các tình tiết trong phim được nối tiếp nhau một cách bất ngờ, mạch phim có nhịp điệu vừa phải, hợp lý, không gây nên cảm giác mất kiên nhẫn hay khó hiểu cho người xem. Những cảnh mang tính hành động không quá hoành tráng cũng chẳng sử dụng kỹ xảo hay hiệu ứng gì đặc biệt nhưng vẫn gay cấn và cuốn hút như thường. Đáng tiếc là những phân đoạn liên quan đến việc lật đổ, trả thù, thanh toán giữa các thế lực ngầm (ngoại trừ cảnh đối đầu cuối cùng) vẫn còn đơn giản và chưa thuyết phục, chưa xứng tầm với địa vị mà các nhân vật đảm nhiệm.
    Tuy nhiên nếu xét đến thời điểm bộ phim được sản xuất thì những gì mà nó làm được đã là một thành công đáng nể (được chứng minh qua hàng loạt giải thưởng tại các liên hoan phim và phá vỡ kỷ lục phòng vé của Hồng Kông thời bấy giờ), đưa những cái tên như Ngô Vũ Sâm, Châu Nhuận Phát, Trương Quốc Vinh vượt ra khỏi biên giới châu Á, trở thành một bộ phim xã hội đen kinh điển của điện ảnh Hồng Kông, là chuẩn mực cho những bộ phim cùng đề tài sau này. Tác phẩm đồng thời còn xây dựng lên một “bản sắc anh hùng” mới: đầy phong cách, đầy tự tin và trọng nghĩa khí. Hình ảnh Châu Nhuận Phát đeo kính đen, hai tay hai súng, hiên ngang như đi vào chốn không người mãi là một hình ảnh đẹp và ấn tượng, in sâu vào trong tâm trí khán giả.
    Có đáng xem không?
    Câu trả lời tất nhiên là có bởi vì đây một bộ phim giải trí có chiều sâu, nó không quá khó xem cũng không quá nhạt nhẽo, vừa đủ hồi hộp, vừa đủ lắng đọng, nên sẽ phù hợp với khá nhiều thị hiếu. Hoặc giả nếu bạn chỉ muốn nhìn lại một đại diện của điện ảnh Hồng Kông thời hoàng kim, hay Trương Quốc Vinh, Châu Nhuận Phát thời trai trẻ đầy sôi nổi và nhiệt huyết thì A Better Tomorrow (1986) chính là câu trả lời chúng tôi dành cho bạn.
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted
  25. "A Touch of Zen" (1971) là một bộ phim cổ trang của đạo diễn Hoàng Dương (King Hu), nổi bật với phong cách nghệ thuật và triết lý sâu sắc. Phim xoay quanh cuộc sống của một họa sĩ tên là Yang (do Từ Tử Kỳ thủ vai), người sống trong một ngôi làng yên bình.
    Câu chuyện bắt đầu khi Yang gặp một người phụ nữ bí ẩn tên là Gu Shengzhen, người đang chạy trốn khỏi một nhóm sát thủ. Gu là một nữ chiến binh được đào tạo bài bản, có khả năng võ thuật xuất sắc. Yang, ban đầu chỉ là một họa sĩ nhút nhát, dần bị cuốn vào cuộc chiến giữa thiện và ác.
    Phim không chỉ tập trung vào những cảnh hành động mãn nhãn mà còn khám phá những chủ đề về tình yêu, lòng trung thành và sự giác ngộ. Bằng việc kết hợp giữa nghệ thuật võ thuật và triết lý Đạo giáo, "A Touch of Zen" đã tạo nên một tác phẩm độc đáo, góp phần định hình thể loại phim võ thuật ở châu Á.
    Bộ phim được ca ngợi vì kỹ thuật quay phim sáng tạo và các cảnh hành động tinh tế, và đã giành được nhiều giải thưởng, trở thành một trong những phim kinh điển trong lịch sử điện ảnh châu Á. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về các nhân vật hoặc những thông điệp cụ thể trong phim, hãy cho tôi biết!
    • 0 Downloads
    Joker
    Submitted