Điện Ảnh
Bộ sưu tập phim chất lượng remux 4K với điểm IMDb từ 6.6 trở lên
1,724 files
-
"November" (2022) là một bộ phim tâm lý và chính trị do đạo diễn Rainer Sarnet thực hiện, lấy bối cảnh ở một ngôi làng nhỏ trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết "Rehepapp" của Andrus Kivirähk.
Câu chuyện xoay quanh một cô gái trẻ tên Liina, người đang sống trong một thế giới đầy rẫy những khó khăn và thách thức. Trong bối cảnh hỗn loạn của chiến tranh, cô phải đối mặt với những quyết định khó khăn liên quan đến tình yêu, lòng trung thành và sự sống còn.
Phim mang đậm tính biểu tượng và chứa đựng những yếu tố thần thoại, với những hình ảnh sống động về cuộc sống hàng ngày và những mối quan hệ phức tạp giữa các nhân vật. Thông qua câu chuyện của Liina, "November" khám phá những chủ đề về chiến tranh, sự hy sinh và khát vọng tự do.
Với phong cách kể chuyện độc đáo và hình ảnh ấn tượng, "November" đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ cả giới phê bình và khán giả.
-
"Crooks in Clover" (1963) là một bộ phim hài của Anh, do đạo diễn Robert Hartford-Davis thực hiện. Phim xoay quanh một nhóm tội phạm không mấy tinh vi, cố gắng thực hiện một vụ cướp mà không gặp rắc rối.
Câu chuyện bắt đầu khi một nhóm tội phạm lên kế hoạch cho một vụ trộm lớn. Tuy nhiên, mọi thứ không diễn ra như dự định và họ liên tục gặp phải những tình huống dở khóc dở cười. Sự vụng về và kém cỏi của các nhân vật tạo ra những tình huống hài hước, khiến người xem không thể không bật cười.
Phim khai thác các chủ đề về tội phạm theo cách nhẹ nhàng, đồng thời mang lại những bài học về sự tham lam và hậu quả của nó. Với phong cách hài hước đặc trưng, "Crooks in Clover" trở thành một tác phẩm giải trí thú vị, phản ánh sự châm biếm đối với thế giới tội phạm.
-
Câu chuyện xoay quanh Charlie Burns (Guy Pearce), một người đàn ông bị buộc phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn. Anh và anh trai là thành viên của một băng nhóm tội phạm, và khi bị bắt, Charlie được chính quyền đưa ra một thỏa thuận: nếu anh giết người anh trai tàn bạo của mình, Arthur Burns, thì anh sẽ được tha bổng. Ngược lại, nếu không làm như vậy, cả gia đình anh sẽ phải chịu hậu quả nghiêm trọng.
Trong hành trình của mình, Charlie phải vật lộn với cảm giác tội lỗi, tình cảm gia đình và những giá trị đạo đức. Bộ phim không chỉ là một cuộc hành trình về sự sống còn mà còn đặt ra những câu hỏi về công lý, sự trung thành và bản chất của con người.
-
"The Mad Adventures of Rabbi Jacob" (1973) là một bộ phim hài Pháp do Louis de Funès thủ vai chính. Phim kể về câu chuyện của Rabbi Jacob, một người Do Thái có tính cách hài hước, và ông bị cuốn vào một cuộc phiêu lưu đầy rắc rối.
Cốt truyện bắt đầu khi một nhà lãnh đạo tôn giáo bị mắc kẹt trong một cuộc xung đột chính trị. Rabbi Jacob, cùng với một nhóm người khác, phải trốn khỏi một băng nhóm tội phạm và một cuộc săn lùng do chính quyền phát động. Trong khi đó, ông phải giả mạo một người khác để thoát khỏi những tình huống nguy hiểm.
Phim không chỉ mang lại những tình huống hài hước mà còn phản ánh những vấn đề về văn hóa, tôn giáo và sự chấp nhận. Với sự kết hợp giữa hành động, hài hước và thông điệp nhân văn, "The Mad Adventures of Rabbi Jacob" đã trở thành một tác phẩm kinh điển trong điện ảnh Pháp.
-
Trước khi trình bày cảm nhận của mình về bộ phim, mình lại sa vào một vấn đề khá quen thuộc với khán giả của phim này: Gian hay Gián mới là đúng? Theo nhiều cách giải thích liên quan đến tên và ý nghĩa của phim, vô gián đạo ám chỉ tới A tì địa ngục (avici) hay còn gọi là vô gián địa ngục, nơi chúng sinh mang tội phải chết và tái sinh không ngừng nghỉ, không thực sự chết mà chỉ bỏ thân này thụ thân khác để chịu hành hình đời đời (vô gián). Chữ “gián” này vừa hay cũng là “gián” trong “gián điệp” gợi liên tưởng đến hai nhân vật trung tâm của phim đều là gián điệp của phe đối diện. Tuy nhiên “gian” hay “gián” thì lại vẫn là cùng một chữ tiếng Trung thôi, sao lại có hai cách phát âm thì mình không hiểu nổi.
Ấn tượng tổng thể của mình đối với phim là sự tỉ mỉ trong dàn dựng. Một biểu hiện rõ nét của sự trau chuốt này là phần âm thanh của phim, mà ví dụ điển hình nhất là bản nhạc Forgotten Time. Khi Giang giới thiệu với Lưu về chất lượng loa, bản nhạc phát ra thực sự đi thẳng vào lòng người nghe như lời anh nói. Để có thể so sánh, trong phần 2 Lưu cũng được giới thiệu một bộ loa không tốt lắm, tiếng nhạc nghe kém sâu sắc hơn hẳn bản nhạc anh và Giang cùng ngồi nghe ở đầu phần 1.
Mình nghĩ phim được quay và dựng thực sự tốt. Mình nhớ bản thân đã phải “ồ” lên trong một cảnh quay Lưu trong văn phòng, màn hình xoay trong một chớp mắt như chính tâm trạng anh ta, những cảnh cận của Giang và cô bác sĩ Lý rất tình dù họ đôi khi còn chẳng nhìn nhau, không gian chết lặng sau khi Giang nhìn thấy xác thanh tra Huỳnh như chính tâm trí chết lặng chơi vơi của anh vì người duy nhất chứng thực cái thân phận anh luôn vươn tới không còn nữa. Cảnh gần cuối phim khi Giang chĩa súng vào Lưu cũng là một cảnh ấn tượng. Lưu dù bị còng tay, bị áp giải vẫn quần áo chỉnh tề lịch thiệp như một ngày làm việc nhàn nhã trong sở cảnh sát, còn Giang tuyên bố mình là cảnh sát trong dáng vẻ của một tên du côn. Dù đứng dưới nắng trời rực rỡ, người ta làm sao mà phân biệt được đây? HongKong trong phim không phải chỉ có sân thượng ngập tràn ánh nắng và những quán hàng xập xề tối mù, không phải chỉ có những đường phố đông đúc nhộn nhịp và bến cảng vắng vẻ lạnh lẽo, HongKong còn có những buồng thang máy sáng choang trượt trong khoảng tối nơi người ta bước vào mà không biết mình chẳng thể bước ra.
Bình thường mình không xem nhiều phim điều tra phá án hay phim gián điệp vì cảm thấy kết cấu phim có phần “đoán trước được”. Xét cho cùng đều là quá trình tìm ra tay trong của đối phương trong nội bộ thôi mà. Tuy nhiên bộ phim này không hoàn toàn là như vậy. Mình nghĩ phim không quá tập trung vào việc mô tả quá trình hay các mánh lới phản gián và điều tra nội bộ cũng như không nhiều plot twist đến mức “xoắn não” hay đòi hỏi người xem phải chú ý tới từng chi tiết mà tập trung sâu hơn vào việc khắc họa sự bế tắc về bản ngã của hai con người đã ngụp lặn quá sâu trong môi trường của đối thủ.
Giang là một tên giang hồ thực sự, hay gây gổ đánh lộn, mình đầy vết thương, thân xác gầy gò tóc dài rũ rượi, nhìn là thấy vật vờ lông bông, đến cái sự thật anh là cảnh sát ngoài tự anh nhắc mình cũng chỉ có một người khác trên đời biết. Còn cảnh sát Lưu thì gọn ghẽ sạch đẹp, mặt mày sáng sủa quần áo phẳng phiu, cuộc đời dương quang xán lạn hanh thông dù anh là tay trong của tội phạm. Xuyên suốt cả bộ phim hai nhân vật xuyên qua nhau, xuyên qua ranh giới hai miền chính – tà vốn xoắn quyện vào nhau trong xã hội HongKong tranh tối tranh sáng. Càng về cuối phim sự bế tắc trong nhận định mình là ai, mình nên làm gì, mình có thể làm gì lại càng rõ nét. Và đặc biệt là, dần dần người xem đã phát hiện ra Giang và Lưu không phải những người nằm vùng duy nhất. Thế giới hỗn mang không chỉ đối với họ, mà cả xung quanh họ nữa. Đó mới là vô gián đạo thực sự.
Bộ phim này không tạo cho mình nhiều cảm giác hồi hộp mà nhiều hơn là cảm giác buồn, buồn tú túng như chính bài hát chủ đề Forgotten Time, buồn như quá khứ luôn ngập tràn tâm trí, ám ảnh người ta trong hiện tại, cái tôi không nói nên lời trong mỗi người. Cảnh sát Lưu yêu thích bài hát này đến thế, có lẽ cũng bởi vì nó diễn tả đúng cảm xúc của anh ta.
Bộ phim này cũng thực sự buồn khi đến cuối phim, cả thanh tra Huỳnh và Giang đều chết, nhất là Giang, sau bao tháng ngày khổ sở đằng đẵng mong đợi được làm một người đàng hoàng, được ngồi làm việc bên cửa sổ nhìn ra biển, sau gần 10 năm trời biến mình thành một tên côn đồ thực sự chỉ để được sống quang minh chính đại, lại chết ngay khi tưởng như anh đã giải quyết được vấn đề dai dẳng suốt 10 năm này, sau khi thanh tra Huỳnh và Cường chết để bảo vệ anh. Ít nhất đối với Lưu, anh ta còn sống, anh ta đã đưa ra vài lựa chọn đúng, dù đó là cái đúng ích kỉ để bảo vệ chính mình, dù sau đó anh ta dằn vặt đau khổ, thì anh ta vẫn sống dưới ánh mặt trời. Anh ta vẫn còn cơ hội lựa chọn. Giang thì khác, đi từ chỗ hăm hở tiến vào hàng ngũ tội phạm, rồi vất vưởng ba năm lại ba năm rồi lại ba năm, số người biết anh thực sự là cảnh sát từ hai chỉ còn một, rồi chẳng còn ai, rồi kết thúc mệt mỏi, rồi chết ngay khi chiến thắng đã gần kề. Giang đã luôn kiên định với lựa chọn ban đầu, nhưng hồi báo của anh không như anh mong đợi. Trong bộ phim này mình nghĩ nhân vật của Lưu là một nhân vật có nhiều không gian để khai thác hơn, bởi cuộc đời anh ta có nhiều khúc quanh hơn, có nhiều trăn trở và lựa chọn hơn.
Nếu có điểm gì đó khiến mình không hài lòng ở phim này, thì có lẽ đó là việc giản lược cuộc đời Giang. Có lẽ vì nhân vật này của Lương Triều Vĩ thực sự đánh động mình, nên mình cảm thấy muốn biết nhiều hơn về anh ta, về những dằn vặt trong bản ngã của anh, những lúc dao động, những lúc chán nản, những lúc muốn buông xuôi, những mối tình dang dở, những vết thương, … Screentime của Giang cũng như chính cuộc đời nhân vật, đã định trước là phải chìm vào bóng tối.
Sau khi xem phim mình đã xem cả phần 2 và phần 3, những phần mình nghĩ có thể tính là phiên ngoại của phim. Phần 2 là những chuyện xảy ra trước câu chuyện chính. Phần này cũng lại là một cuộc chiến mà phía cảnh sát thiệt hại nặng và nó cũng không đi sâu vào phá án mà tập trung hơn vào sự pha trộn trong bản chất mỗi người. Ta có thể thấy rõ hơn quá trình phát triển của cả Lưu và Giang để tới vị trí của họ trong phần 1. Câu chuyện về Giang rõ nét hơn, Lưu trở nên đời hơn với tình cảm ngây ngô mà bền bỉ với Mary, thanh tra Huỳnh cũng lộ rõ những điểm yếu trong thủ pháp không mấy quang minh chính đại của mình.
Phần 3 làm mình cảm giác như bị ép phải sản xuất thêm ^^. Nó dường như là một phần câu chuyện khác, được cố ghép vào câu chuyện của phần 1. Những nhân vật mới xuất hiện xen vào giữa nhóm nhân vật cũ, những tình tiết mới xuất hiện xen vào các tình tiết cũ, vẫn chỉ để khắc sâu ý tưởng chung của phần 1. Mình có cảm tưởng phần 3 chỉ làm được duy nhất một việc mà phần 1 chưa hoàn thành, là bóc trần thân phận của Lưu, mang lại cảm giác công lý phải được thực thi. Đó vẫn là một cuộc chiến mà phía cảnh sát tổn thất nghiêm trọng, và Lưu vẫn sống trong khi đối thủ của anh ta đã chết. Điều đó càng củng cố cho mình niềm tin rằng Lưu mới là nhân vật trung tâm thực sự của loạt phim này, kẻ thực sự bị vây hãm trong vô gián đạo mãi không thoát nổi.
Mình khá thích tình tiết cô bác sĩ Lý dùng cách nào đó (hoặc chẳng dùng cách nào cả) khiến Lưu tưởng rằng mình là Giang, và tìm mọi cách bắt chính bản thân mình, đó có lẽ là plot twist tốt nhất của loạt phim này. Cốt truyện sẽ rõ ràng hơn nếu cô Lý có nhiều screentime hơn, hay kịch bản đi sâu hơn vào phần thủ pháp. Nhưng cũng như phần 1, trọng tâm của phim chưa bao giờ là việc phá án, mà là những mâu thuẫn sâu sắc trong nội tâm nhân vật, nên thay vì thấy cô bác sĩ dẫn dắt Lưu, ta chỉ thấy Lưu tự mắc kẹt, tự quằn quại vùng vẫy trong nhà tù tâm trí.
-
"Infernal Affairs III" (2003) là phần cuối của bộ ba phim nổi tiếng "Infernal Affairs" từ Hồng Kông. Nội dung phim tiếp tục khai thác cuộc chiến giữa cảnh sát và mafia, với những mối quan hệ phức tạp và những cú twist bất ngờ.
Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính: Lau Kin-ming (do Tony Leung đóng), một cảnh sát chìm đang cố gắng duy trì danh tính của mình trong khi làm việc trong tổ chức tội phạm, và Yan (do Andy Lau đóng), một điệp viên nằm vùng trong cảnh sát. Phim diễn ra sau sự kiện của phần hai, khi cả hai nhân vật đều phải đối mặt với những hậu quả từ những lựa chọn của mình.
Trong phần này, một nhân vật mới xuất hiện, giúp làm sáng tỏ những bí mật và căng thẳng giữa các bên. Phim khám phá sâu hơn về tâm lý của các nhân vật, cũng như những khía cạnh về sự phản bội, trung thành và sự hy sinh.
Cuối cùng, phim dẫn đến một cuộc đối đầu căng thẳng, với những quyết định khó khăn và các tiết lộ khiến người xem không thể ngờ tới. "Infernal Affairs III" không chỉ là một phần kết hấp dẫn mà còn là một tác phẩm sâu sắc về con người và các mối quan hệ phức tạp trong xã hội.
-
Nghê Khôn – trùm xã hội đen bị sát hại. Nghê Vĩnh Hiếu – đứa con trai, lên kế vị và phát hiện ra viên cảnh sát trẻ Trần Vĩnh Nhân là con trai riêng của cha mình. Vĩnh Nhân bị đuổi khỏi sở cảnh sát.
Đội trưởng Huỳnh nhận Nhân làm tay trong để điều tra về gia đình của Nghê Vĩnh Hiếu. Nhưng Vĩnh Hiếu rất cao tay, đã tìm ra được bằng chứng cho thấy chính Huỳnh cấu kết với mary, vợ của hán Thẩm, đã sai người giết cha hắn. Nghê Vĩnh Hiếu cho đàn em báo thù, nhưng Huỳnh và Hán Thẩm thoát chết.
-
Với diễn xuất nội lực của Charlize Theron, Nicole Kidman và Margot Robbie, 'Bombshell' khắc họa hành trình có thật của những phụ nữ can đảm lật tẩy tội ác tình dục của ông hoàng truyền thông Roger Ailes.
Kể lại vụ việc gây chấn động nước Mỹ, bộ phim ra mắt năm 2019 nhận nhiều đề cử từ các giải thưởng điện ảnh lớn tại Mỹ và Anh, đặc biệt là cho bộ ba diễn viên chính. Phim mang về cho Margot Robbie giải "Nữ diễn viên phụ xuất sắc" tại Giải thưởng AACTA và Giải thưởng Hiệp hội Phê bình St. Louis. Ngoài ra, phim thắng giải "Trang điểm và thiết kế tóc xuất sắc" ở nhiều giải thưởng, bao gồm Oscar.
Ba sao nữ gây ấn tượng mạnh trong hình ảnh những phóng viên "đúng chuẩn" của tập đoàn truyền thông cánh tả, đặc sệt định kiến Mỹ: những cô gái tóc vàng, mắt xanh, bó chặt trong những chiếc váy ngắn lộ chân. Họ là những con chiên ngoan đạo, truyền thống của nước Mỹ. Đó là hình tượng bạn cần có để gia nhập "gã khổng lồ" Fox News, hãng thông tấn do Roger Ailes (John Lithgow) làm Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc 20 năm.
Roger Ailes khi đó là quyền lực tuyệt đối, luôn theo dõi mọi hoạt động từ tầng hai tòa nhà, ngay phía trên toàn bộ văn phòng và trường quay. Ông ta xây dựng văn hóa dựa trên lòng trung thành tuyệt đối, ví mình chính là Fox News, sẵn sàng lao vào trường quay để quát mắng, bắt sửa nội dung. Người xem biết được điều này ngay từ đầu phim, khi được phát thanh viên hàng đầu Megyn Kelly (Charlize Theron) "dẫn tour" hậu trường.
Cảnh phim thu hút với cách cắt dựng gấp gáp, kéo người xem vào nhịp làm việc của ngành tin tức. Kèm đó là giọng nói, dáng vẻ tự tin, chuyên nghiệp, đúng mực của Megyn. Cô là cái neo vững chắc, đáng tin cậy trong những khung hình dập dình theo tay máy. Trong cả phim, Megyn hiện lên với dáng vẻ trung dung và xa cách khi lên hình, nhưng đầy sự vật lộn và đấu tranh trong cả cuộc sống cá nhân và công việc. Cô là người phụ nữ mang nhiều giằng xé.
Sải bước qua những đồng nghiệp nam liên tục soi xét mình từ đầu tới chân, Megyn không ngoảnh lại, không lỡ một nhịp nói. Ở nơi Roger Ailes sử dụng thân thể phụ nữ như công cụ giữ chân khán giả, đó dường như là chuẩn mực làm việc của nhân viên nữ. Họ im lặng cho qua những hành vi sỗ sàng, phân biệt giới tính, thậm chí quấy rối đến từ cánh đàn ông quyền lực.
Ba tuyến truyện của các nữ chính bắt đầu trong cùng năm, họ thay phiên nhau nhận một bài học đau đớn. Nếu dám gọi đích danh hành vi xấu xí của những người đàn ông đang ngồi vắt chân trên ghế, họ sẽ bị trừng phạt vì thiếu trung thành. Trong môi trường nam trị, Megyn bị bủa vây bởi sự tấn công của Donald Trump và đám đông cuồng nộ sau buổi phỏng vấn giông bão. Gretchen (Nicole Kidman) mất show vì chỉ trích cách hành xử quấy rối. Còn Kayla (Margot Robbie) sợ hãi phát khóc vì đặt câu hỏi không hợp ý cấp trên.
Ba sự kiện này là nút thắt đầu tiên của phim. Lúc đầu, ba nhân vật chọn cách im lặng, như tất cả hệ thống trung thành với Roger. Từ thư ký lâu năm của Roger, đội ngũ nhà đài đến các phát thanh viên cũ và mới, người tình của Kayla... đều nhắm mắt làm ngơ trước các hành vi xâm hại, rời xa nạn nhân khi họ kêu cứu. Bộ phim để cho mỗi nhân vật một khoảng trống nhất định để người xem nhìn thấy rõ phản ứng của họ, càng làm tăng thêm nỗi kinh sợ, ghê tởm của sự việc và tâm trạng hoảng sợ, bất lực của nạn nhân.
Sự im lặng đẩy căng thẳng lên tột độ khi ba nhân vật chính chạm mặt trong thang máy, trên đường đến chỗ Roger. Ba thế hệ phản chiếu bản thân mình trong người kia, ở ba mốc sự nghiệp khác nhau. Một người thỏa hiệp, dè chừng để bảo vệ đỉnh vinh quang. Một người bình thản rời bỏ để khơi mào cuộc chiến. Một người sợ hãi rụng rời vì vừa sa chân thành con mồi. Những người phụ nữ lộ rõ sự chia cách, không biết ai bạn, ai thù. Văn hóa của Fox do Roger tạo ra, như Megyn nói, biến họ thành quân tốt ngoan ngoãn: "Nó đẩy chúng tôi đối đầu nhau, ganh đua để làm ông ta hài lòng".
Nhưng theo sau im lặng đó là giông tố. Kayla cúi đầu làm theo yêu cầu của Roger. Cô là hiện thân cho những cô gái bị lợi dụng hoài bão, bị tước mất sự ngây thơ và nhiệt huyết. Gretchen kiên trì thu thập bằng chứng và khởi kiện, ngầm cố gắng vì tương lai tốt đẹp hơn cho con gái. Megyn - thấm đòn bị phản bội vì Roger không bảo vệ cô trước Trump và đám đông cuồng loạn - ngỡ ngàng nhận ra số lượng nạn nhân đến không tưởng, buộc cô phải lên tiếng.
Nếu không nhờ diễn xuất đỉnh cao của Charlize Theron và Nicole Kidman, hai nhân vật có thật Megyn và Gretchen có thể đã lu mờ trước câu chuyện của Kayla - tuyến vai hư cấu hoàn toàn. Trong một cảnh phim rúng động, bộ phim bỗng chậm chạp kể lại chi tiết Roger "kiểm tra hình thể" Kayla, bắt cô vén váy lên để lộ đồ lót. Vốn đến từ một gia đình ngoan đạo truyền thống, Kayla sợ hãi hiểu ra thực tế, ý chí bị bẻ gãy và bị xâm phạm cả về thể chất lẫn tinh thần.
Do không có thật, câu chuyện của Kayla là một mũi tên trúng nhiều đích. Nó vừa là hiện chứng cách thao túng tâm lý nạn nhân của Roger (so với các sự việc khác ở quá khứ chỉ xuất hiện qua lời kể), vừa cho thấy số phận những phụ nữ chịu đựng "trên đe dưới búa" của cả hệ thống đứng về phía quyền lực nam trị. Họ bị cô lập, không ai dám hỗ trợ, không ai nghe họ nói. Cô cũng là tấm gương phản chiếu cho những gì Megyn, Gretchen và các nạn nhân có thật đã trải qua.
Megyn trên đỉnh vinh quang nhưng phải lựa chọn trở thành kẻ phản bội, ra đòn quyết định đưa sự thật ra ánh sáng đối trọng với một Kayla bị đày đọa trong bóng tối, trả giá để cố gắng bám víu lấy công việc. Hai nhân vật mâu thuẫn đã có màn đối thoại kinh điển, Kayla bật ra câu hỏi là tiếng lòng của khán giả: "Liệu chị có nghĩ nếu chị nói ra sớm hơn sẽ giúp được cho chúng tôi, những người đi sau, thế nào không?".
Chính Megyn Kelly nguyên mẫu ngoài đời cũng không kiềm chế được khi xem cảnh này, vì viễn cảnh "giá như" luôn là điều làm người trong cuộc buồn nhất. Cất tiếng nói tố cáo cho mình và cho cả những người đi sau là cách duy nhất để giải thoát cho tất cả các nạn nhân.
Kết phim một lần nữa cảnh tỉnh rất thực tế. Một cây làm chẳng nên non, một sự vụ chẳng thể thay đổi ngay lập tức cả hệ thống thâm căn cố rễ tại Fox News. Nhưng những người phụ nữ hợp lực lại với nhau đã hạ bệ được Roger Ailes, kéo ông ta khỏi cái ngai của mình. Khi nhận thấy những thay đổi ở hãng thông tấn chỉ là bề mặt, Megyn và Kelly cuối cùng can đảm rời bỏ, để tạo ra những thay đổi đích thực ở nơi khác.
Trong Bombshell, những cú cắt máy nhanh và zoom cận gợi nhớ đến The Big Short (2015) - cùng do biên kịch Charles Randolph chắp bút. Tuy vậy, kịch bản và cách kể của Bombshell hụt hơn so với bộ phim đi trước. Có lẽ do chỉ trong 90 phút, bộ phim xử lý nhiều diễn biến xảy ra trên cả ba tuyến truyện, gói gọn từ cuộc bầu cử năm 2016 đến 15 ngày "chiến đấu" kịch liệt giữa phe Roger và các nạn nhân. Bộ phim đã đưa ra những giải thích logic cho tâm lý và hành động của các nhân vật có thực, nhưng nhiều lúc đánh rơi về cảm xúc, nếu không được chính diễn xuất của dàn diễn viên gạo cội vực lại.
-
Ở Tinker Tailor Soldier Spy có rất nhiều điều để người ta chờ đợi. Đó là màn trình diễn “quốc tế” lớn đầu tiên của Tomas Alfredson, đạo diễn bộ phim vampire gây chấn động năm 2008 Let the right one in. Đó là sự tò mò không rõ cuốn tiểu thuyết cùng tên của John le Carré (BBC phải chuyển thể thành 7 tập phim truyền hình) được tái hiện ra sao chỉ trong 127 phút. Nhưng trên hết, đó là nỗi khắc khoải chờ đợi sự tái xuất của Gary Oldman trong vai diễn lớn đầu tiên kể từ Léon (dù gì đi nữa, Sirius của Harry Potter và Cảnh sát trưởng Gordon của Batman vẫn chỉ là vai phụ). Mười bảy năm, một thời gian quá dài cho người được Brad Pitt thần tượng, Anthony Hopkins xem là thiên tài, và Colin Firth xếp vào hàng ngũ những nam diễn viên xuất sắc nhất thời đại.
Những ai đã quen với thể loại trinh thám siêu công nghệ, hàng họ đầy mình như Bond, Bourne hay Mission: Impossible chắc sẽ bật cười trước thế giới tình báo thô sơ và quê mùa trong Tinker. Thế giới của George Smiley (Oldman) và đồng nghiệp – Chiến tranh Lạnh những năm 70 – không có gì khác ngoài những văn phòng xấu xí và u ám, những tập tài liệu viết tay, và, ở trung tâm thế giới ấy, những người đàn ông. Quả vậy, suốt hai tiếng, MI6 chỉ xuất hiện hai người phụ nữ – một già, xấu, béo, đã về hưu và một cô thư ký văn phòng mà lời gợi ý đi chơi cuối tuần bị anh chàng Peter Guillam điển trai (Benedict Cumberbatch) lạnh lùng từ chối với lý do “phải đi thăm các bà cô”. Nếu như M, trên cương vị sếp sòng MI6, mang lại cho series James Bond nét lãng mạn của phụ nữ, thì bộ sậu của Cục Tình báo Anh dưới sự lãnh đạo của Control (cây đại thụ của điện ảnh sương mù, Sir John Hurt) chỉ có năm anh đực rựa, biến toa xe cách âm nơi họ hội họp thành sào huyệt của mưu mô, lạnh lùng, khắc nghiệt, và nam tính.
Sau vụ bại lộ khiến Jim Prideaux (Mark Strong) bị bắt tại Budapest, Control buộc phải từ chức và chết trong cô độc. Smiley được giao nhiệm vụ điều tra kẻ phản bội trong bốn nhân vật đầu não, được Control đặt bí danh là Tinker (Toby Jones), Tailor (Colin Firth), Soldier (Ciarán Hinds), và Poorman (David Dencik). Được sự trợ giúp của Peter và Ricki Tarr (Tom Hardy), một điệp viên bị gài bẫy vì tiết lộ sự tồn tại của kẻ phản bội, Smiley âm thầm xúc tiến cuộc điều tra.
Với nhiều bộ phim tương tự, danh tính của kẻ sát nhân/tên phản bội là điều cuốn hút khán giả đến giây phút cuối cùng. Tinker thì không thế. Những ai tinh ý sẽ có thể đoán ra điều đó ngay từ đầu qua danh sách diễn viên. Cái hấp dẫn ở Tinker là con đường đến câu trả lời, và đặc biệt là người dẫn chúng ta đến câu trả lời ấy.
Từ khi hóa thân thành tên sĩ quan DEA trong Léon, Oldman đã “chết” những vai phản diện quái dị, cuồng tín, và biến thái… Smiley là cơ hội lớn đầu tiên cho ông rũ bỏ vầng hào quang cũ. Đây là một nhân vật, theo lời chính John le Carré, sở hữu “sự quỷ quyệt của Satan và lương tâm trinh nữ”. Và Smiley của Gary đúng là như thế, chính là như thế. Lạnh lùng, âm trầm, quyết đoán, lão mưu thâm toán, mừng giận không lộ ra ngoài mặt, nhưng không vì thế mà mất đi cái tình của con người. Với đồng nghiệp, Smiley chân thành; với địch thủ – Karla của KGB, ông tôn trọng; với thuộc cấp như Ricki và Peter, là một tình cảm bảo bọc gần như cha con. Nhưng khi cần tàn nhẫn, cần quyết tuyệt, ông sẵn sàng hành động, không nhíu mày, không biến sắc. Và, như bao người khác, ở Smiley cũng có điểm yếu trong tình cảm, mà Karla – đại địch của ông từ KGB, đã phát hiện ra và lợi dụng. Ngần ấy sắc thái, ngần ấy khía cạnh ở Smiley đều được Gary thể hiện ung dung và trọn vẹn qua từng cử chỉ, nét mặt, ánh mắt, ngữ điệu, phong thái và khí độ của một tay điệp viên cáo già.
Nhưng, Tinker không chỉ có mình Gary. Nói không ngoa, đây là màn phô trương sức mạnh hùng hậu của dàn diễn viên nam Anh quốc. Bốn thế hệ cùng góp mặt, và ai cũng đáng mặt anh hào – từ Hurt (72) tới Hinds (59), từ Firth (51) và Strong (48) đến Cumberbatch (35) và Hardy (34). Firth vẫn lịch lãm như thường lệ trong khi Hardy đầy chất hài hước trong Inception lại diễn rất ra một Ricki Tarr bi kịch và rất con người. Strong khiến khán giả bất ngờ khi lột xác thành “anh giáo làng” Jim Prideaux, khổ sở để vượt qua cú sốc ở Budapest. Và không thể không kể tới Cumberbatch trong vai trợ thủ của Smiley, với ánh mắt xanh biếc và vẻ lãnh đạm rất Anh, đầy hứa hẹn trở thành một Alan Rickman mới.
Những gì đã đem lại thành công cho Let the right one in, Tomas Alfredson tiếp tục mang theo sang Tinker. Tomas dẫn dắt câu chuyện một cách rất điềm tĩnh, từ tốn, và đặc biệt tiết chế, với những khoảng lặng được tính toán kỹ lưỡng, để cảm giác khắc khoải và không khí bế tắc của mỗi cá nhân và của cả một thời đại ngấm vào tâm trí người xem. Đó là sự bế tắc của chính Smiley trong mối quan hệ vợ chồng; sự bế tắc của Prideaux khi mãi mắc kẹt trong hồi ức về những tháng ngày khủng khiếp ở Bulgaria; sự bế tắc của Ricki khi bất lực nhìn người đàn bà mình yêu biến mất một cách lặng lẽ; và sự bế tắc của một thế hệ điệp viên không biết cuộc chiến thầm lặng và dai dẳng hơn hai thập niên của họ rồi sẽ đi về đâu. Diễn ra không nhanh, nhưng câu chuyện của Tinker lại khiến khán giả không hề thấy chậm. Bởi nó hút người xem vào không khí đặc quánh của bộ phim, cái cách mà Let the right one in từng làm ba năm trước. Để giải mã được câu chuyện của Tinker, người xem phải tập trung cao độ và không thể bỏ sót một khuôn hình nào, vì trong cái chậm rãi này lại luôn dồn dập những dấu vết và chi tiết.
Không chỉ chậm rãi một cách dồn dập, Tinker còn chậm rãi một cách duyên dáng. Những cú máy trung bình hay tele, ống kính chuyển động từ từ và rê êm ru như nước, vừa giữ khoảng cách với nhân vật, vừa “mời gọi” người xem dấn thân vào câu chuyện, vừa phản ánh một góc nhìn tươi mới của đạo diễn người Thụy Điển. Sự tương phản giữa chất mềm mại và mượt mà của khuôn hình và nét kích thích đầy căng thẳng tích tụ trong khuôn hình ấy đã trở thành phong cách đặc hữu của Tomas Alfredson, được phóng đại qua ống kính của Hoyte van Hoytema trên vai trò quay phim chính.
Dấu ấn của Hoyte không chỉ dừng ở đó. Tinker xét cho cùng là period movie, kể về một thời đại đã qua. Những tông màu lợt lạt, những thước phim nổi hạt (grainy), những bộ quần áo được chăm chút kỹ lưỡng, cùng tiếng đàn dây dìu dặt đến thê lương của Alberto Iglesias đã phả vào khán giả một luồng gió ảm đạm mang hơi hướng rõ rệt thập niên 70, khi Chiến tranh Lạnh ở thời kỳ lắng dịu, nhưng sự thù địch giữa hai phe vẫn dữ dội và âm ỉ. Một phim như Tinker đòi hỏi chất nhạc dày dặn, có chiều sâu phức cảm, và người cộng sự quen thuộc của Pedro Almodovar đã chứng minh Tomas không hề sai lầm khi chọn ông.
Điểm cuối cùng song không thể không nhắc đến ở Tinker, là những ngón hài tỉnh rụi đặc sệt chất Anh, từ cảnh đôi chim cu hôn nhau tíu tít tại nhà nữ đồng nghiệp của Smiley, tới chuyện cả MI6 nói tiếng Nga nhem nhẻm trong lễ Giáng sinh với sự chủ trì của Santa Lenin. Ở nơi tưởng như không có chỗ cho tiếng cười, những tình tiết hài lại xuất hiện, thản nhiên mà không gượng ép, điểm nét duyên dáng Ănglê cho một bộ phim đã gần như hoàn hảo.
-
Một trong những cảnh quay lãng mạn của phim: King kong và Ann ngắm hoàng hôn trên cao, vượt hết những sân si của thế giới văn minh phía duới
Và không phải ngẫu nhiên, các mẩu bình luận phim trên mạng đều đồng ý: đây là một chuyện tình đẹp và một bài học làm người đắt giá.
Chuyện phim không mới, nhưng lần này những tình tiết, phân cảnh được tính toán và sử dụng kỹ xảo đến mức tối đa. Người ta dễ dàng nhận ra một tình yêu nghệ thuật, chính xác là một đam mê vô bờ bến trong việc mang đến một tác phẩm điện ảnh để đời của nhà quay phim Carl Denham.
Carl Denham bất chấp tất cả, đánh cắp vật dụng, lừa đảo bạn bè lên tàu và chấp nhận cái giá phải trả là rất đắt nếu không thành công để có thể giong buồm đi tìm và quay một điều chưa ai biết. Carl là hiện thân của một con người sống chết với khát vọng điện ảnh của mình - và có lúc, người xem chia sẻ được cái tình yêu nghệ thuật chân chính đó của anh.
Và như một quy luật tự nhiên, khi máy quay phim vỡ nát, những thước phim được đổi bằng mạng sống của đồng đội không còn nữa, thì Carl cố níu kéo một cái gì khác. Và lòng tham trỗi dậy, chối bỏ chính những người đã cùng mình vào sinh ra tử để trở nên nổi tiếng khi mang về cho thế giới văn minh một con thú khổng lồ.
Người ta thấy gương mặt Carl đanh lại, ánh mắt rất tối và một Carl đam mê nghệ thuật của ngày xưa đã chết, chỉ còn là một gã con buôn sống bằng sự dối trá của sự ích kỷ và tham lam trong chính mình.
Người ta có thể thót tim vì cảnh đánh nhau hoành tráng giữa bầy khủng long và King Kong. Người ta có thể sững sờ trước một cánh rừng nguyên sơ quá huyền bí. Nhưng rồi người ta sẽ quên rất nhanh. Để nhớ, đó phải là cảnh cô diễn viên xinh đẹp Ann ngồi lặng bên King Kong để ngắm hoàng hôn đỏ rực phía xa rồi ngủ quên trong cái ráng chiều tím thẫm.
Để nhớ, đó phải là cảnh King Kong dỗi hờn quay đi sau khi chiến đấu đến kiệt sức vì Ann.
Và để khóc, đó phải là khoảnh khắc King Kong vỗ tay vào ngực để nói "đẹp quá" khi cùng người con gái mà nó yêu quý ngồi trên đỉnh cao của thế giới hiện đại.
Còn để day dứt, hãy nhìn những ngón tay của con thú hung hãn cố vươn về phía Ann khi tuyệt vọng...
Cái khoảng lặng rất dài khi King Kong rơi xuống từ tòa nhà cao tầng đủ để những hình ảnh hạnh phúc hiện về trong lòng khán giả: khi cả hai cùng trượt tuyết, lúc Ann đưa tay sờ lên mũi Kong...
Phim kết thúc bằng một sự day dứt: lòng tham của con người đã giết chết một giấc mơ nghệ thuật, còn con thú thì chết vì tình yêu của mình.
-
Phim xoay quanh Frank Dux, một võ sĩ có kỹ năng đặc biệt, quyết định tham gia vào một giải đấu võ thuật bí mật mang tên Kumite, diễn ra tại Hồng Kông. Giải đấu này quy tụ những võ sĩ xuất sắc từ khắp nơi trên thế giới, nơi họ thi đấu trong một môi trường không có quy tắc.
Trong hành trình tham gia Kumite, Frank phải đối mặt với nhiều đối thủ mạnh mẽ, bao gồm cả một võ sĩ tàn bạo tên là Chong Li. Bên cạnh những trận chiến, phim cũng khám phá mối quan hệ của Frank với bạn bè và tình yêu, cùng với quyết tâm của anh trong việc chứng minh khả năng của bản thân.
-
Có lẽ sau Interstellar của Christopher Nolan, Boyhood (Thời Thơ Ấu) - bộ phim được làm trong 12 năm của đạo diễn Richard Linklater là cái tên được nhắc đến nhiều nhất của điện ảnh năm 2014. Trong các đề cử của Oscar 87 vừa qua, Boyhood đã cũng có tên trong hai hạng mục đề cử quan trọng như Phim xuất sắc nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Tuy chỉ giành được một giải cho đề cử "Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất" cho Patricia Arquette (Vai người mẹ), Boyhood cũng đại thắng khi giành giải Phim xuất sắc nhất thể loại phim chính kịch và Đạo diễn xuất sắc nhất ở lễ trao giải Quả Cầu Vàng lần thứ 72. Hiếm có bộ phim nào dành được sự ưu ái của các khán giả lẫn các nhà phê bình như Boyhood. Trên IMDB, rating của khán giả dành cho phim là 8,3/10 còn trang Rotten Tomatoes là 98%. Điểm Metascore trên trang Metacritic đạt số điểm tuyệt đối 100/100 từ các trang báo và nhà phê bình uy tín như Time Out New York, The Hollywood Reporter hay The Guardian. Boyhood thực sự trở thành một hiện tượng trong lịch sử điện ảnh, bộ phim cũng đã đoạt danh thu gần 43,8 triệu USD (~ 920 tỷ VNĐ), gấp 10 lần so với kinh phí 4 triệu USD (~ 84 tỷ VNĐ).
Ellar Coltrane vào vai Mason khi Mason mới 6 tuổi Boyhood nói về cuộc sống của cậu bé Mason Evans Jr. (Ellar Coltrane) cùng chị gái Samantha (Rorelei Linklater) và người mẹ Olivia (Patricia Arquette), cùng người cha (Ethan Hawke) luôn sống ở xa vì ông và mẹ của Mason đã li dị. Bộ phim là chuỗi những sự kiện xảy ra trong đời của Mason từ lúc cậu 5 tuổi cho đến khi rời nhà vào trường đại học. Có thể nói, nội dung của phim cực kì giản dị, dễ hiểu và có phần nhàm chán nếu đem ra để kể cho nhau nghe. Tuy nhiên, bạn hãy coi việc xem Boyhood giống như việc lục tìm những đoạn băng cũ trong một ngày đẹp trời, mở lên xem và trầm ngâm về những sự kiện đã xảy ra trong cuộc đời của mình. Để cảm nhận và hiểu thêm một chút về cuộc sống hay chính bản thân mình. Mason lúc cậu 17 tuổi Sử dụng toàn bộ dàn diễn viên để quay trong 12 năm, đó là một ý tưởng điên rồ và tưởng như sẽ không có một nhà đầu tư nào dám bỏ tiền để thực hiện. Tuy nhiên, nhà đầu tư IFC đã đồng ý giúp Richard Linklater thực hiện bộ phim và kết quả đã không làm họ thất vọng. Nhiều người cho rằng Richard Linklater đã làm một việc mất thời gian trong khi công nghệ kĩ xảo cũng như trang điểm có thể giúp ông làm phim trong thời gian ngắn hơn rất nhiều. Đã có rất nhiều bộ phim miêu tả về một nhân vật từ lúc họ còn nhỏ, trưởng thành và già đi chỉ trong vỏn vẹn vài tiếng đồng hồ bởi sự can thiệp bởi công nghệ. Còn trong Boyhood, sự thay đổi của nhân vật được can thiệp bởi "thời gian", và dường như không có gì có thể lừa dối được thời gian. Hình ảnh đầu tiên của Mason xuất hiện trong phim là khi cậu nằm dài trên cỏ và ngắm nhìn bầu trời xanh, gợi cho chúng ta việc trong Mason luôn có một điều gì đó khiến cậu bé luôn băn khoăn. Theo thời gian, suy nghĩ của Mason thay đổi, cách nhìn nhận mọi việc của cậu cũng khác đi, ở những khung hình cuối phim, khi người xem bắt gặp ánh mắt của Mason, sự băn khoăn vẫn còn đó, nhưng Mason lúc này đã để cho "khoảnh khắc", hay nói cách khác, cuộc sống chiếm lấy mình và Mason học cách cảm nhận mọi thứ bằng cảm xúc nhiều hơn. Để làm được điều này, hoặc phải là một diễn viên kiệt xuất, hoặc chỉ có sự thay đổi thật sự bằng thời gian mới làm được. Richard Linklater có lẽ đã không uổng phí 12 năm khi làm ra bộ phim này. Bên cạnh đó, Boyhood còn là một bộ phim điểm lại những sự kiện nổi bật của nước Mỹ trong vòng 12 năm như việc bầu cử tổng thống Obama, bộ sách Harry Porter được ra mắt hay việc ca sĩ Lady Gaga bắt đầu khuấy đảo âm nhạc thế giới. Ở Boyhood, người xem thấy được giá trị "gia đình" theo cách nhìn nhận của Richard Linklater, một giá trị của văn hóa Mỹ. Các cá thể trong một gia đình cực kì độc lập, giống như Mason, cậu lớn lên trong một gia đình không mấy hạnh phúc khi bố mẹ ly thân, sau đó mẹ cậu tiếp tục với hai cuộc hôn nhân không thành công với hai người chồng nữa. Nhưng người mà Mason chia sẻ tâm tư hay học hỏi nhiều nhất vẫn là từ người bố đẻ của cậu, người cha nghệ sĩ do Ethan Hawke thủ vai. Có lẽ nếu bỏ qua cái tính lông bông và nghệ sĩ, Mason Senior là một người cha rất lý tưởng khi ông luôn lắng nghe hai đứa con của mình và cho chúng những lời khuyên bổ ích khi cần thiết. Phim đưa ra một cách nhìn khác về sự nuôi dạy một đứa trẻ, bố mẹ không nên cứ kè kè "quản thúc" mọi lúc mọi nơi, hãy để chúng tự lớn lên, hãy có mặt và ở bên cạnh chúng ở thời điểm cần thiết. Mason và bố Trong phim, không chỉ có Mason và chị của mình lớn lên, hai vị phụ huynh của Mason trưởng thành theo thời gian. Mở đầu phim, cả bố và mẹ của Mason cũng đều như những đứa trẻ mới lớn, họ yêu nhau trong vội vàng và rồi đường ai nấy đi. Đặc biệt là vai người mẹ của nữ diễn viên Patricia Arquette, cô đã hóa thân vào vai một người mẹ thương con, người phụ nữ độc lập một cách xuất sắc. Sống kiên cường, một mình nuôi con, tự đi học thêm rồi trở thành giáo viên của một trường đại học, cô như một người "đàn ông" mạnh mẽ và cứng rắn. Nhưng chỉ đến khi chứng kiến cảnh cậu con trai rời nhà vào đại học mà không có chút luyến tiếc, cô bật khóc khi nghĩ rằng đáng nhẽ cuộc sống của mình phải có nhiều hơn những cuộc hôn nhân không hạnh phúc hay những hóa đơn phải trả hàng tháng. Có lẽ đó là phân đoạn xúc động nhất trong phim, nó giống như hiện thực hằng ngày của cuộc sống, cha mẹ yêu thương và bao bọc những đứa con của mình từ lúc mới sinh ra, khi chúng đã đủ lông đủ cánh, chúng sẽ tự bước đi và không cần đến bố mẹ nữa.Vai diễn xuất sắc đã đem lại cho Patricia Arquette một giải Oscar danh giá Có thể nói, Boyhood là một bộ phim dành cho mọi lứa tuổi, nó đơn sơ và giản dị nhưng cũng hết sức sâu sắc. Không đi theo công thức làm phim bình thường, có nghĩa nó cũng không bắt người xem suy nghĩ theo một cách nhất định và máy móc. Nó chỉ đơn giản là gom lại những khoảnh khắc đẹp và ấn tượng nhất trong giai đoạn trưởng thành của một cậu bé, qua đó, để cho người xem tự cảm nhận, tự tìm hiểu những ý nghĩa của khoảnh khắc đó. Boyhood là một bộ phim thích hợp để xem cùng với gia đình, qua đó, chúng ta có thể nhìn nhận lại mối quan hệ giữa ta và mọi người xung quanh, để hiểu thêm được việc cảm nhận cuộc sống bằng cảm xúc và sự thật thà là rất quan trọng. Nhạc phim cũng là một điểm đáng chú ý của phim, nó đem lại một cảm giác hoài cổ khi làm người xem gợi nhớ đến những ca khúc nổi tiếng của những năm 2000. Boyhood (Thời Thơ Ấu) hiện đang được khởi chiếu trên toàn quốc.
-
Sự thiệt hại to lớn của Hồng quân Liên Xô là do đâu? Là vì bị động, những cậu lính chưa kịp học xong khóa huấn luyện cơ bản đã phải xông ra làm bia trên chiến trường, là ở đường lối và kế hoạch sai lầm, vũ trang thiếu, khả năng tổ chức cũng như sự linh động lãnh đạo trên chiến trường yếu kém... Đó cũng là bài học cho những người muốn chiến thắng trên thương trường.
Ngay khi bộ phim được công chiếu, đã có khá nhiều bình luận trái chiều. Người Nga chỉ trích đạo diễn Jean Jaques Annaud không hiểu tình hình thực tế của Hồng quân Liên Xô cũng như phong tục tập quán của người Nga (diễn đàn nuocnga.net). Trong khi người Mỹ lại nói rằng đó là một bộ phim trung thực và xứng đáng được so sánh với Giải cứu binh nhì Ryan (5 giải Oscar năm 1999) (theo bài viết của Roger Ebert trên tạp chí Chicago Sun -times).
Bộ phim tái hiện cuộc tấn công điên cuồng của Hitler vào Stalingrat (Liên Xô) mùa thu năm 1942, điểm nhấn của phim là cuộc săn đuổi của hai tay lính bắn tỉa, một là Vassili gã chăn cừu Urals chuyên bắn sói, một là thiếu tá Heinz König – quý tộc từ Bavaria trước đây săn nai.
Bên cạnh đó là chuyện tình đẹp đẽ của người hùng nước Nga Vassili Zaitse với Tania Chernova, một cô gái Do Thái xinh đẹp.
Mới đầu Vassili không có gì nổi bật hơn những người lính cùng ra trận khác, khi giả chết nằm trong đống xác ngổn ngang ở một đài phun nước cạn, anh đã gặp chính trị viên Danilov và bắn hạ 5 tên lính Đức bằng 5 phát súng trước mắt ông ta thì tài năng mới được phát huy. Nhờ sự giới thiệu của Danilov, anh được tướng Nikita Khrushchev điều động vào đội bắn tỉa chuyên “săn” những sĩ quan cao cấp của quân Đức.
Mở đầu bộ phim là hình ảnh ông Vassili dạy cậu bé cách săn sói. Cảnh quay rất đẹp, hình ảnh tuyết trắng xóa, con sói có đôi mắt ngơ ngác, cậu bé Vassili ẩn nấp sau tảng đá phủ tuyết với sự hồi hộp của lần đầu tiên bóp cò súng, giọng thì thầm của ông vang bên tai như lời chỉ dẫn. Và rồi viên đạn cũng được bắn ra dưới nòng súng run rẩy.
Lớn lên, Vassili nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, lên đường nhập ngũ. Trên toa tàu, những cậu lính mặt mũi non nớt với ánh mắt tò mò quan sát mọi thứ lạ lẫm xung quanh. Họ cũng đều lần đầu ra trận. Cảnh nhốn nháo khi những cậu lính Xô Viết ùa xuống bến cảng và người sĩ quan liên tục phất cờ, gào lên trong loa về tinh thần bất khuất dễ làm người xem liên tưởng đến cảnh người dân Xô Viết chạy trên bậc thềm Odessa trước họng súng của kẻ thù trong phim Chiến hạm Potemkin của Sergei Eisenstein chứ không phải là hai hàng lính trật tự hành quân ra mặt trận như bao phim khác.
Một trong những cảnh gây bức xúc nhất trong phim là cảnh những cậu lính Nga, tay không vũ khí, phải hứng chịu thương vong khi trên đầu là máy bay phát xít, bên cạnh là cấp trên của mình đang lăm lăm cây súng. Trong chiến tranh không phải ai cũng dũng cảm tiến lên với khẩu hiểu: Chết cho Tổ Quốc. Chết vì Tự Do! Có nỗi sợ hãi nào lớn hơn việc mới ra chiến trường đã gặp phải cảnh đổ máu mất mát đầy rẫy xung quanh, kẻ vừa đứng bên nói chuyện giờ đã thoi thóp nằm đó với vết máu loang lổ trên người.
Đó là điều dễ hiểu khi những tên chỉ huy trốn tránh phía sau và chĩa súng ra bắn bỏ lính đào ngũ.
Tinh thần về trách nhiệm đồng đội được đạo diễn thể hiện thông qua việc miêu tả cách ghép hai người thành một đội, một người cầm súng một người cầm đạn, súng và đạn phải đi liền với nhau. Anh chàng Vassili ngơ ngác cầm theo năm viên đạn đi tìm người cầm súng của mình. "Bức tường người" xung phong, kẻ có súng thì không có đạn, kẻ cầm đạn lại không muốn đưa cho kẻ cầm súng vì nếu thế mình sẽ chẳng có gì.
Thậm chí, có lẽ trong bản thân những nhân vật của đạo diễn Annaud còn mong đồng đội chết đi để được cầm súng vớt lại chút an toàn cho bản thân. Họ đang chiến đấu vì bị ép buộc, họ sống với bản ngã của mình. Đau đớn hơn là những lính mới, hai người chỉ được phát 5 viên đạn trong khi những kẻ chỉ huy phía sau, dùng những băng đạn súng máy để xả vào đồng chí của họ.
Đó có phải là hiện thực của Hồng quân Liên Xô trong “Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại” - thứ mà người Nga hết mực tự hào? Hay xưa nay những bí mật quân sự luôn được dấu kín, và người ta chỉ nhìn vào những chiến thắng, những tấm gương quả cảm anh dũng để bình luận và truyền đi khắp nơi?
Hồng quân Liên Xô trong những tác phẩm, những phim của người Xô Viết không giống như thế. Họ đầy tinh thần trách nhiệm và sự chủ động trước cơn bão chiến tranh ở phim Đội cận vệ thanh niên (1948) của Sergei Gerasimov hay tràn trề tình người, tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong Số phận một con người (1965) của Sergei Bondarchuk.
Nhân vật Pavel Corsaghin trong Thép đã tôi thế đấy của nhà văn Nikolai A.Ostrovsky đã đưa ra một tuyên ngôn, một phương châm sống của thế hệ thanh niên lúc đó: “Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người....” Chia tay người yêu Pavel nói: "Anh trước hết là người của Đảng - sau đó mới là người của em và những người thân khác. Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng".
Có thể đó là những con người tự nguyện giác ngộ lý tưởng mà chủ nghĩa anh hùng ca luôn ca ngợi. Và Jean-Jacques Annaud, một con mắt ngoài cuộc đến từ phương Tây, đã chỉ ra mặt trái bức tượng đồng vĩ đại đó. Sự thiệt hại to lớn của Hồng quân Liên Xô là do đâu? Là ở sự bị động, những cậu lính chưa kịp học xong khóa huấn luyện cơ bản đã phải xông ra làm bia ở chiến trường, là ở đường lối và kế hoạch sai lầm, vũ trang thiếu, khả năng tổ chức cũng như sự linh động lãnh đạo trên chiến trường yếu kém...
Lời kêu gọi đầu hàng của phát xít Đức cũng “rất hợp cảnh”: “Hãy theo những người bạn Đức! Họ hiểu nỗi khổ của bạn. Họ sẽ quan tâm đến bạn hơn chính cấp trên của bạn, những kẻ chỉ biết đưa bạn ra chỗ chết!...Kẻ thù chính là Stalin khát máu và quân đội của hắn...”
Đâu mất rồi tinh thần chỉ có trong các tác phẩm: Khi đàn sếu bay qua (1957), Bài ca người lính (1959), Họ đã chiến đấu vì tổ quốc (1975)...Jean-Jacques Annaud đem cái nhìn của một bên thứ ba, như một nhà quan sát đứng ngoài cuộc chiến, như một phóng viên tường thuật trên chiến trường. Bản “ghi chép” của ông để lại quá chi tiết và đầy tính chất diễn giải. Chẳng hạn vì sợ khán giả không hiểu được giây phút thay đổi cuộc đời của Vassili (khi Vassili hạ gục năm tên lính Đức trước mặt chính trị viên) nên đạo diễn đã lồng ghép vào một đoạn nhạc “bi hùng” để nhấn mạnh hình ảnh “một anh hùng đã ra đời! Một tài năng đã được khai phá”. Hay lời giải thích của viên chỉ huy trước thất bại ở chiến trường là một lời trốn trách trách nhiệm... rất hiếm có: “Tôi đã bảo các anh em tiến lên! Nhưng quân Đức quá mạnh!”.
Trong lễ tuyên dương chiến công của mình, Vassili đứng dưới bức tranh Chủ tịch Stalin và nhớ về cuộc đi săn đầu tiên trong đời. Cậu bé Vassili lúc đó đã bắn trượt con sói và cậu đã cầu xin ông nội tha thứ cho mình.
Chi tiết ẩn dụ mà đạo diễn Annaud nói đến là gì? Tình cảm trong sáng trong con người Vassili? Vassili chẳng hề sợ hãi khi lần đầu giết người. Anh hành động rất dứt khoát, trong khi tay chính trị viên còn đang ngạc nhiên tột độ thì 5 gã lính Đức đã chết. Hay cậu xin lỗi vì thất bại đã làm chết con ngựa? Nếu lớn lên trong sự dạy bảo nghiêm khắc của ông nội như vậy sao Vassili lại có nét mặt ngây ngô chưa hiểu sự đời?
Xen vào trong phim là những bài học triết lý về thợ săn – sói – con mồi, đôi lúc thợ săn phải đóng vai con mồi để dụ sói khỏi hang giống như trong cuộc sống, muốn đạt được mục đích phải chịu đi đường vòng, phải nhẫn nại chờ đợi thời cơ...Hay triết lý về nhân sinh: Con người bao giờ cũng vẫn là con người...Ta đã cố hết sức tạo ra một xã hội bình đẳng, để không ai có thể ganh tỵ nhưng luôn sẽ còn ganh tỵ, một nụ cười một tình bạn điều gì ta muốn sở hữu, điều gì ta muốn có...Giàu của cải, nghèo của cải. Giàu tình yêu, nghèo tình yêu...
Sự hy sinh của Danilov đã giúp Vassili bắn được tên thiếu tá Đức, và cũng để chuộc lại những lỗi lầm anh ta đã gây ra cho bạn mình. Tình yêu và tình bạn, thứ gì anh ta muốn có, thứ gì anh ta muốn sở hữu?
Một điều đặc biệt trong phim của Jean-Jacques Annaud nữa là khi bắt đầu một trường đoạn mới, ông thường mở đầu bằng một hình ảnh toàn cảnh trong diện rộng, rồi là cái nhìn từ phía sau binh lính, rất ít cận cảnh xuất hiện trong phim, chi tiết đặc tả xuất hiện nhiều lần nhất là ngón trỏ bóp cò súng của Vassili.
Lep Tonxtoi đã nói: “Nghệ thuật là cái kính hiển vi để người nghệ sĩ soi vào những bí mật của tâm hồn mình và chỉ ra rằng những điều bí ẩn ấy là của chung mọi người”.
Điều đó có nghĩa là những người làm nghệ thuật phải là những người khách quan nhất, không phân biệt tầng lớp giàu nghèo trình độ văn hóa hay màu sắc chủng tộc. Tạm không bàn đến tính chất đúng – sai trong phim và những tranh cãi của người Nga với người Mỹ, bộ phim có thể nói là thành công trong kỹ thuật quay và tạo bối cảnh.
Chiến trường với những bức tường đổ nát, mưa bom gió đạn dội xuống, những nhà máy bị phá còn đang cháy dở, thành phố chìm trong khói bụi.. tạo nên sự hoành tráng xứng đáng là phim chiến tranh do Holliwood sản xuất. Cảnh quay đẹp với màu đỏ rực của máu rải trên nền trắng tinh khôi của tuyết, không nhiễm bụi bẩn chiến tranh, giống như cảnh tượng trong giấc mơ của những cô gái về người hùng của mình.
Tình yêu giữa Vassili và Tania chính là như thế, giữa khoảnh khắc chiến tranh ác liệt, sự sống và cái chết chỉ cách nhau một tấm màn mỏng manh, tình yêu của họ như một bản nhạc trữ tình làm dịu đi máu tanh và khói lửa xung quanh. Để niềm tin, hy vọng xua đi bóng tối chết chóc và sợ hãi .
Họ yêu nhau chỉ thông qua ánh mắt và những câu chuyện phiếm không hề mang tính chất tán tỉnh hứa hẹn. Nếu có cũng chỉ là lời nói: Nếu chúng ta còn sống sót...Một câu hứa mơ hồ. Nhưng Tania lại muốn nắm bắt hiện tại vì điều đó đêm xuống Tania đã đến chỗ ngủ của Vassili. Cảnh vụng trộm của họ là một trong những cảnh đẹp nhất trong phim, không ai nói gì nhưng hành động và ánh mắt đã chứng minh tất cả. Khi Vassili từ biệt Tania, lần đầu tiên họ thổ lộ tình yêu với nhau.
Phim không kết thúc ở hình ảnh Vassili ngồi nhìn mặt trời nước Nga, dù đó là dấu hiệu của một sự khởi đầu mới nhưng người yêu anh đã chết thì chiến thắng của dân tộc không thể làm vơi đi nỗi đau trong lòng anh. Chính vì điều đó, đạo diễn đã để cảnh kết phim là Vassili tìm được Tania đang điều dưỡng trong bệnh viện. Và chắc chắn họ sẽ sống hạnh phúc bên nhau.
-
"Hunt" (2022) là một bộ phim hành động và giật gân của Hàn Quốc, do Lee Jung-jae đạo diễn và đồng thời đóng vai chính. Câu chuyện xoay quanh cuộc điều tra một tổ chức gián điệp Bắc Triều Tiên đang hoạt động tại Hàn Quốc.
Nội dung phim tập trung vào hai nhân vật chính: một đặc vụ của Cơ quan Tình báo Quốc gia Hàn Quốc (NIS) và một người đồng nghiệp. Họ bị cuốn vào một cuộc chơi mèo vờn chuột, khi những thông tin về một gián điệp nội gián đang ẩn náu trong hàng ngũ của họ dần lộ diện. Cả hai phải đối mặt với những âm mưu, sự phản bội và các tình huống căng thẳng để bảo vệ đất nước và giải quyết vấn đề.
Phim nổi bật với những pha hành động gay cấn, diễn xuất ấn tượng và một cốt truyện ly kỳ, khiến người xem không thể rời mắt. "Hunt" không chỉ đơn thuần là một bộ phim hành động mà còn khám phá các vấn đề liên quan đến lòng trung thành và sự phản bội trong môi trường tình báo.
-
"Naked Lunch" (1991) là một bộ phim được đạo diễn bởi David Cronenberg, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của William S. Burroughs. Phim kết hợp giữa thể loại khoa học viễn tưởng và kinh dị tâm lý, tạo ra một trải nghiệm điện ảnh độc đáo và khó quên.
Nội dung phim theo chân William Lee, một nhà văn thất bại, người đang sống ở New York vào những năm 1950. Sau khi bị ảnh hưởng bởi thuốc lá và ma túy, William trở thành một nhân vật bị ám ảnh và sa lầy trong một thế giới kỳ quặc, nơi các sinh vật kỳ lạ và những sự kiện siêu thực xảy ra. Khi vợ của anh qua đời vì một tai nạn, William bắt đầu khám phá một thế giới bí ẩn, đầy rẫy những kẻ buôn ma túy, bí mật và sự thao túng.
Phim không chỉ là một câu chuyện về việc viết lách và sự sáng tạo mà còn phản ánh những khía cạnh phức tạp của tâm lý con người và những ảnh hưởng của ma túy. Với phong cách hình ảnh độc đáo và các yếu tố hình thức đầy tính nghệ thuật, "Naked Lunch" đã trở thành một tác phẩm gây tranh cãi nhưng cũng được nhiều người coi là một kiệt tác trong thể loại điện ảnh phiêu lưu và siêu thực.
-
"The Conformist" (1970) là một bộ phim của đạo diễn Bernardo Bertolucci, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Alberto Moravia. Phim xoay quanh cuộc đời của Marcello Clerici, một người đàn ông sống ở Italy trong thời kỳ chế độ phát xít Mussolini.
Nội dung chính của phim tập trung vào nỗ lực của Marcello để hòa nhập và conform (tuân theo) với xã hội xung quanh, tránh xa những kỷ niệm đau thương trong quá khứ. Anh ta quyết định kết hôn và tham gia vào tổ chức chính trị của chế độ, đồng thời nhận nhiệm vụ ám sát một người bạn cũ là một nhà tư tưởng chống đối.
Phim khai thác những chủ đề như bản sắc, chính trị và tâm lý con người, đồng thời thể hiện sự đối kháng giữa cá nhân và xã hội. Với hình ảnh đẹp mắt và phong cách điện ảnh độc đáo, "The Conformist" đã trở thành một tác phẩm quan trọng, thể hiện sự phân tích sâu sắc về tâm lý và bản chất con người trong bối cảnh chính trị phức tạp.
-
Trần Công Công là một pháp sư điên sống dưới lòng đất chuyên đào tạo nhiều sát thủ chuyên nghiệp. Với mong muốn thống trị thế giới, hắn đã cho ra lệnh bắt nhốt hết tất cả những đứa trẻ mới sinh trong thành phố để từ đó hắn có thể cai trị lũ quỷ dữ để làm bá chủ thiên hạ. Rất nhiều cảnh sát đã đến để giải cứu và tiêu diệt pháp sư hung ác kia nhưng đều thất bại vì sức mạnh của hắn quá mạnh.
Trong hoàn cảnh đó, trên thành phố đã xuất hiện ba cô gái có tên Đông Đông, Trần Thất và Tâm Tĩnh. Họ là những người có nhiều sức mạnh khác nhau nhưng đều cùng chung một quá khứ đầy ám ảnh. Đứng trước nguy cơ diệt vong, cả ba cô gái quyết đi tìm tiêu diệt lão pháp sư để giải cứu thế giới.
-
Beetlejuice (1988) là một bộ phim hài kinh dị do Tim Burton đạo diễn, xoay quanh cặp vợ chồng mới cưới Adam và Barbara Maitland. Sau khi cả hai chết trong một tai nạn xe hơi, họ trở về nhà chỉ để phát hiện ra rằng ngôi nhà của họ đã được bán cho một gia đình mới, the Deetzs.
Để đuổi gia đình Deetz ra khỏi nhà, Adam và Barbara cố gắng xuất hiện như những hồn ma, nhưng không thành công. Cuối cùng, họ quyết định nhờ đến một hồn ma quái dị có tên Beetlejuice để giúp đỡ. Beetlejuice, với tính cách nghịch ngợm và lắm chiêu trò, tạo ra những tình huống dở khóc dở cười.
Bộ phim khám phá các chủ đề về sự sống, cái chết, và những mối quan hệ giữa con người với nhau, cùng với phong cách hình ảnh độc đáo và hài hước đặc trưng của Tim Burton. Beetlejuice đã trở thành một tác phẩm kinh điển và có ảnh hưởng lớn trong văn hóa pop.
-
"The Outsiders" theo chân hai nhóm thanh thiếu niên: Greasers và Socs (Sociables). Greasers là một nhóm các cậu bé có xuất thân từ tầng lớp lao động, trong khi Socs là những thanh thiếu niên giàu có hơn và thuộc tầng lớp thượng lưu. Mối quan hệ giữa hai nhóm này thường xuyên dẫn đến xung đột và bạo lực.
Nhân vật chính trong câu chuyện là Ponyboy Curtis, một thành viên của nhóm Greasers. Câu chuyện bắt đầu khi Ponyboy và anh trai của cậu, Darry, cùng với hai người bạn khác, Johnny Cade và Dallas "Dally" Winston, phải đối mặt với những thử thách trong cuộc sống hàng ngày của mình. Những căng thẳng giữa các nhóm gia tăng khi Ponyboy và Johnny bị tấn công bởi một nhóm Socs, dẫn đến một cuộc xung đột nghiêm trọng.
-
The Whale (2022) là dự án phim thứ tám của đạo diễn người Mỹ Darren Aronofsky. Mặc dù luôn được đánh giá cao về mặt nghệ thuật và tính chuyên môn, song những tác phẩm của ông cũng nhận không ít những phản ứng trái chiều về quan điểm tôn giáo và triết lý sống. Đó là sự hoài nghi về “giấc mơ Mỹ” trong Requiem for a dream (2000); quan điểm về cái chết và sự tái sinh trong The Fountain (2006); góc nhìn đầy u tối về cái giá của sự thành công và bản chất thực sự của con người trong Black Swan (2010); hay ranh giới mong manh giữa đức tin và sự sống trong Noah (2014). Dưới cái nhìn hoài nghi đầy khắc nghiệt, bạo lực và không kém phần dị biệt, Darren Aronofsky luôn tạo ra những tác phẩm khác lạ, đôi khi hơi nhạy cảm về mặt nội dung. Song đó là cách vị đạo diễn người Mỹ nhìn nhận về thế giới – một thế giới không hoàn hảo và đầy nỗi đau – mà ở đó, những nhân vật trung tâm của ông thường là những người yếu thế. Họ bắt buộc phải lựa chọn và đấu tranh với chính bản thân mình. Lý thuyết phân tâm học của Freud được ông vận dụng tối đa để mang tới một sự phát triển hoặc phân mảnh nhân cách của những nhân vật thành những mảnh nhỏ. Sự khoái cảm trong cơ chế phòng vệ bản thân của những nhân vật trong phim đã tạo nên sự căng thẳng điên rồ. Một sự ngột ngạt về mặt thể chất và tâm hồn nhằm bóp méo đi cái hiện thực, từ đó tạo ra những ảo mộng được cho là hợp lý đối với “cái tôi” trong thực tại.
Với phong cách kể chuyện đầy lãnh cảm, có phần thờ ơ và lạnh lùng, Darren Aronofsky tiếp tục trở lại màn ảnh rộng với dự án The Whale (2022) – một tác phẩm được dựa trên một vở kịch cùng tên của nhà biên kịch Samuel D. Hunter được viết vào năm 2012. The Whale là câu chuyện về những khó khăn trong cuộc sống của giáo sư Charlie – người mắc chứng béo phì luôn nhốt mình trong nhà – và câu chuyện cố gắng kết nối lại với người con mà anh ta đã bỏ rơi suốt chín năm, Ellie. Với sự chăm sóc của người bạn thân Liz – người đã nhiều lần khuyên Charlie đến bệnh viện nhưng luôn bị ông từ chối vì không có tiền trả bảo hiểm – Charlie mỗi ngày luôn chật vật trong sinh hoạt cá nhân. Ông không thể tự di chuyển nếu không có chiếc xe lăn, không thể tự nhặt chiếc chìa khóa bị đánh rơi dưới đất, thậm chí việc đứng lên với Charlie cũng cần một nỗ lực phi thường. Bộ phim khắc họa những ngày cuối cùng trong cuộc đời của Charlie, về sự tự ti của ngoại hình bản thân và sức khỏe, cũng như mong ước hàn gắn lại mối quan hệ với người con gái đang trong độ tuổi nổi loạn của mình. The Whale có một cốt truyện đơn giản, thậm chí có phần tẻ nhạt khi tóm tắt. Song điều hấp dẫn của tác phẩm không đến từ nội dung của bộ phim mà đến từ những quan điểm và góc nhìn về một bộ phận nhỏ những con người trong xã hội – những người mắc căn bệnh béo phì. Cùng với đó là quan điểm về giới tính, về tôn giáo và đức tin, mối quan hệ giữa những người thân trong gia đình. Nhìn lại thế giới những năm qua, khi phong trào LGBT đang dần được mọi người chấp nhận thì vẫn có một bộ phận những người lên tiếng chỉ trích gay gắt; hay những vụ án bạo hành, bỏ rơi, thiếu sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái. Tất cả những vấn đề ấy đã trở thành chủ đề được Darren Aronofsky đưa vào trong tác phẩm. Cũng giống như tác phẩm Noah (2014), khi nhìn nhận về đức tin và thái độ của con người đối với nó, The Whale (2022) không mang tới cho chúng ta một câu trả lời đúng hay sai, ngược lại tác phẩm còn đặt cho chúng ta những câu hỏi để tự vấn chính bản thân mình.
Không gian bộ phim trở nên ngột ngạt khi chỉ được gói gọn trong một căn nhà ẩm thấp, u tối và ảm đạm của Charlie. Căn nhà như một hầm mộ, được xây dựng nên bằng chính sự tự ti của ông. Ra đời trong bối cảnh đại dịch, Charlie sử dụng chiếc laptop của mình để dạy học online cho các sinh viên và camera luôn được ông tắt với lý do bị hỏng. Xuất hiện trên màn hình của những sinh viên chỉ là một màn hình đen với giọng nói truyền cảm về cách xây dựng và viết một bài luận. Khoảnh khắc đó, chính khán giả cũng không thể hình dung đằng sau màn hình ấy là một người đàn ông nặng gần 300kg, đang chật vật trong sinh hoạt hàng ngày. Khi bộ phim dần trôi về cuối, Charlie lần đầu tiên bật camera lên, cho sinh viên thấy bộ dạng thảm hại thực sự của chính mình. Đó có phải lúc ông dám mở lòng để xóa bỏ sự tự ti của bản thân mình? Không, đó đơn giản chỉ là khoảnh khắc ông nhận ra mọi người đều ghê tởm ông, như cách ông ghê tởm chính bản thân mình và ông đã lựa chọn đối mặt với nó để không còn vướng bận trong lòng. Hành động trước khi kết thúc khóa học của Charlie nói về sự sự thật, một sự thật đôi khi nghiệt ngã nhưng đó là sự thật chúng ta vẫn thường trốn tránh để xây dựng nên một vỏ bọc cho chính mình. Giống như cách chúng ta viết một bài luận, về một đề tài nhàm chán nhưng luôn phải xây dựng một vỏ bọc tán dương để che đi những quan điểm thực sự. Hành động ném bỏ chiếc laptop khiến nó vỡ vụn của Charlie cho thấy, dù ông có thể dám nhìn nhận sự thật thì đôi khi sự thật đó vẫn quá nghiệt ngã để có thể chấp nhận. Sự chối bỏ bản thân ấy mới chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Charlie chứ không phải căn bệnh béo phì.
Sự chối bỏ bản thân của ông xuất phát từ tình yêu đồng giới của ông với người yêu mình Alan. Cả hai đã làm tất cả mọi việc, bất chấp mọi sự phản đối để có thể chung sống với nhau, vì vậy khi Alan tự tử, mọi thứ xung quanh Charlie bắt đầu sụp đổ. Vốn là một nhà truyền giáo, Alan đã đi ngược lại với đức tin của mình, từ bỏ giáo hội và điều này đã cật vấn lương tâm của anh. Liệu khi đặt lên bàn cân giữa tình yêu và tôn giáo, điều gì mạnh mẽ hơn để giúp con người có niềm tin để tiếp tục sống? Alan không có câu trả lời, vì vậy tự tử để trốn chạy khỏi sự thật là cách anh lựa chọn. Về mặt nội dung, The Whale (2022) không phủ nhận mặt đức tin đối với tôn giáo, nhưng những nhân vật trong phim luôn có một cái nhìn về một khía cạnh u tối hơn về mặt đức tin. Rằng đức tin ấy có thể cứu sống con người trong ngày tận thế để giúp họ tái sinh trong một hình hài hoàn toàn mới? Hay đó vốn dĩ chỉ là những lời nói suông, không căn cứ của những nhà truyền giáo, mà thực tế khi muốn cứu giúp những người như Charlie về mặt tinh thần nhằm thoát khỏi sự tự ti và chối bỏ bản thân, vẫn luôn cảm thấy ghê tởm khi nhìn thấy ông như cách mà nhà truyền giáo trẻ tuổi Thomas đã bật ra khi hoảng sợ? Không giống như sự thờ ơ nhưng có phần lịch sự của Charlie, Liz – người bạn thân của Charlie và đồng thời là em gái của Alan – thể hiện sự chối bỏ về mặt đức tin có phần mạnh mẽ hơn khi luôn cố gắng đuổi Thomas ra khỏi nhà Charlie. Song có thực sự Charlie thờ ơ với tôn giáo? Bản thân ông cũng đã chối bỏ đức tin về tôn giáo và sự cứu rỗi của bản thân mình khi nói với Alan rằng tình yêu của ông sẽ khỏa lấp đức tin trong anh, rằng Alan sẽ không cần một ai khác ngoài ông. Đó là sự phủ nhận đức tin mạnh mẽ, vượt qua chính tôn giáo mà Charlie muốn bao trùm lên Alan. Nói cách khác, Charlie muốn trở thành một vị Chúa trong tôn giáo mới để Alan tin vào nó. Và sự giằng xé bản thân khi phải lựa chọn của Alan đã dẫn anh tới cái chết – lối thoát duy nhất anh có thể chọn giữa những lựa chọn không có câu trả lời.
Sự chối bỏ bản thân của Charlie còn đến từ việc ông từ bỏ gia đình. Đối mặt với sự chì chiết và ghê tởm của vợ và con gái, Charlie không đưa ra bất kỳ lời biện hộ hay giải thích nào. Ông luôn cố gắng nhìn vào mặt tích cực của người khác để ủng hộ hay luận giải việc họ làm. Hoặc những cố gắng đó của ông là một hình thức khỏa lấp đi những lỗi lầm của bản thân trong quá khứ khi đã bỏ rơi vợ và con gái mình một cách tàn nhẫn, mà ở đây gần như là đoạn tuyệt. Có thể Mary – vợ cũ của ông – luôn ngăn cấm việc ông liên lạc hay đến gần Ellie, song thực tế, ngoài việc gửi tiền nuôi con hàng tháng, ta có thể thấy Charlie có phần vô trách nhiệm của một người cha khi không thực sự quan tâm tới con gái. Họ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh trớ trêu nhất đó là khi ông đã gần chết, chỉ để tiếp tục buông những lời cay nghiệt và một thái độ ghê tởm đối với thân hình của ông. Có thể một phần Ellie vẫn luôn yêu mến và muốn ông trở thành một phần trong cuộc đời của cô, song sự vô trách nhiệm và thái độ thờ ơ của ông đã làm cô bé trở nên khó kiểm soát, mà ở đây theo cách nói của Mary là xấu tính. Ellie không ngần ngại buông những lời lẽ nhục mạ người cha cả ngoài đời hay trên mạng xã hội, hay mỉa mai người truyền giáo trẻ Thomas khi anh đến nhà Charlie rằng họ chỉ quan tâm đến nhau bởi tình dục. Cô bé thậm chí còn trộn thuốc ngủ vào thức ăn của ông bất chấp tình trạng sức khỏe ngày càng xấu của Charlie. Ở một chiều hướng khác về hành động này, khán giả có thể giả định cô bé thực chất chưa hiểu rõ tình trạng sức khỏe của ông và chỉ có ý muốn khám phá cuộc sống trong căn nhà ẩm thấp của người cha. Song những gì mà Ellie thể hiện ra vẻ ngoài bằng cả hành động và lời nói, khiến hầu hết chúng ta không mấy thiện cảm về cô. Cô chấp nhận làm bài luận hay tới nhà Charlie chỉ vì tiền, xúc phạm người cha bệnh tật và ghê tởm con người thực sự của ông. Cô đại diện cho một thế hệ trẻ, một thế hệ có phần nổi loạn, luôn giận dữ với những sai lầm của cha mẹ mình và luôn phủ nhận những nỗ lực của họ. Đó là tất cả những gì chúng ta ấn tượng về Ellie và đồng thời cũng chính là cách xã hội nhìn nhận về cô bé. Có vô vàn những giả định được đạo diễn Darren Aronofsky sử dụng để chúng ta liên tưởng tới sự xấu xí của con người cô. Như cách cô chụp hình người khác khi không được phép và mỉa mai họ trên mạng xã hội; dồn ép những người lớn tuổi hơn mình vào thế không thể từ chối cô bằng những lời đe dọa; hay hình ảnh chiếc đĩa bị vỡ nát bên ngoài khung cửa sổ – nơi Charlie để những mẩu vụn thức ăn cho những chú chim – và Ellie là người duy nhất trong cả bộ phim để ý đến chúng. Liệu cô có đập vỡ chiếc đĩa hay không? Hay lý do tại sao Ellie lại xấu tính đến vậy? Về mặt trần thuật, bộ phim không cho chúng ta bất kỳ lời giải thích nào mà chỉ có những suy nghĩ tích cực của Charlie về con gái. Một lần nữa, khán giả có thể giả định việc ông luôn ủng hộ cô bởi muốn khỏa lấp những sai lầm trong quá khứ, song trong bài luận yêu thích nhất của ông – mà thực chất là một bài luận thể hiện sự giận dữ và quan điểm của Ellie về một tác phẩm tẻ nhạt – Charlie đã nhìn thấy một tia sáng le lói, rằng cô là người duy nhất trong cả cuộc đời ông dám nhìn nhận thẳng thắn vào sự thật. Một quan điểm gai góc, đi ngược lại đám đông nhưng đó là sự thật mà Ellie cảm nhận và cô bé là người duy nhất dám nói ra điều này. Nói cách khác, Ellie là người dũng cảm nhất là Charlie từng biết tới, người không xây dựng một vỏ bọc hào nhoáng hay đẹp đẽ để nói về những thứ bản thân mình không yêu thích. Dám đối diện với sự thật là khao khát mà suốt đời Charlie và những người xung quanh ông cả đời không thể làm nổi.
Xuyên suốt tác phẩm, khán giả nhận ra những nhân vật đều đang cố gắng chạy trốn khỏi nỗi đau của bản thân mình. Dù không trực tiếp xuất hiện, nhưng ba gia đình (bao gồm gia đình Charlie, Liz và Thomas) đều hiện lên với những nỗi đau không nói thành lời. Đó là vị giáo sư mắc bệnh béo phì chạy trốn khỏi sự chối bỏ và tự ti về bản thân; một Alan chạy trốn khỏi sự lựa chọn giữa tình yêu và đức tin; một Liz khi chạy trốn khỏi nỗi đau mất người thân; nhà truyền giáo trẻ tuổi Thomas chạy trốn khỏi quê nhà và gia đình bởi những quy chuẩn về mặt đạo đức hay đức tin của giáo hội; một Mary chạy trốn khỏi nỗi đau buồn trong cuộc hôn nhân với người chồng cũ và lo sợ sự xấu tính của Ellie sẽ làm ông thất vọng; hay người giao bánh pizza Dan chạy khỏi nhà Charlie khi nhìn thấy hình dáng thật sự của Charlie. Tất cả bọn họ đều xuất hiện tại nhà Charlie trong những cơn mưa tầm tã như để thể hiện sự u tối và ảm đạm trong tâm hồn họ. Chỉ duy nhất trong phân cảnh cuối phim, Ellie xuất hiện trước cửa nhà Charlie trong ánh sáng ngập tràn, bao trùm lên cô bé. Ẩn ý của đạo diễn Darren Aronofsky trong phân cảnh này là gì? Đó có phải việc Ellie là ánh sáng của cuộc đời Charlie, hay bản thân ông đã tìm thấy ánh sáng và ý nghĩa của cuộc đời mình?
“Liệu có ai muốn một người như bố trở thành một phần trong cuộc đời của họ?” Charlie hỏi con gái mình khi cô nói đã từng muốn ông là một phần trong cuộc đời của cô bé. Bản thân Charlie cũng trở nên hoài nghi về chính bản thân mình, liệu anh có xứng đáng để được yêu, để được người khác đón nhận trong cuộc đời. Khi mà giờ đây, phòng ngủ cũ của Charlie và Alan – nơi giống như thiên đường với vị giáo sư – đã giống như một cấm địa mà ông không thể tự mình đặt chân vào, mà chỉ có thể cảm nhận không khí trong căn phòng. Và những chú chim mà ông vẫn thường cho ăn ngoài cửa sổ, giống như giấc mơ được thoát ly khỏi thực tại khắc nghiệt.
Một góc nhìn khác mà tác phẩm muốn đề cập tới đó là cách xã hội nhìn nhận về những con người mắc căn bệnh béo phì như Charlie và cách họ nhìn nhận về giới tính. Sự cứu rỗi mà nhà truyền giáo trẻ Thomas hướng tới, liệu có đúng đắn? Mặc dù anh ta chỉ làm theo những gì mình tin, những gì mình đã biết tới trong phần lớn cuộc đời, song tình yêu đồng giới liệu có đi ngược với bất kỳ quy chuẩn nào của xã hội quy định? Nói một cách khác, “cái ác” trong Charlie mà theo cách nói của Thomas sẽ bị tiêu diệt là tình yêu đồng giới của ông liệu có thực sự là điều đúng đắn? Cùng với đó là sự thành thật của Charlie đối với sinh viên của ông, khi ông đã dũng cảm nhìn nhận vào sự thật bằng cách bật camera cho họ thấy bộ dạng thực sự của mình. Hầu hết phản ứng của những sinh viên lúc này đều là kinh ngạc. Họ sốc trước những gì đang được chứng kiến. Có người phải che miệng cười, có người dùng điện thoại để ghi lại khoảnh khắc ấy, cũng có người bàng hoàng không nói nên lời. Phải chăng đó sẽ là phản ứng của phần lớn xã hội khi đối diện với một thứ bị coi là dị biệt?
Trong đoạn kết của phim, như đã nói, Ellie xuất hiện trong ánh sáng ngập tràn và đọc bài luận của cô cho Charlie nghe. Bằng một nỗ lực phi thường, Charlie đã đứng dậy và tiến về phía con gái mình. Ánh sáng ngập tràn ông như thể muốn rũ bỏ đi sự tự ti và chối bỏ bản thân của ông bấy lâu. Cuối cùng, ông như thể được bay bổng, đôi chân lơ lửng. Điều đó dẫn tới việc có hai giả thiết chúng ta có thể hướng tới. Giả thiết thứ nhất, đó là việc Charlie đã được cứu rỗi và ông đã lên thiên đàng sau khi qua đời. Điều này gần như đã phá bỏ đi ranh giới của đức tin và những tội lỗi bản thân ông (và những người khác cho rằng) mắc phải. Từ đó tạo nên một cái nhìn cởi mở hơn giữa tôn giáo về những quan điểm về giới tính, tình yêu và con người. Giả thiết thứ hai đó là việc Charlie đứng lên và tiến tới con gái mình hoàn toàn do ông tưởng tượng ra trước khi qua đời. Bởi ngay trong lúc sức khỏe chưa nguy kịch, Charlie cũng đã rất chật vật để có thể đứng thẳng mà không có sự trợ giúp của xe lăn. Điều này giúp chúng ta liên tưởng tới “lý thuyết phân tâm học của Freud” mà đạo diễn Darren Aronofsky thường sử dụng trong những tác phẩm của mình. Một cơ chế phòng vệ bản thân đã tạo ra khoái cảm, giúp Charlie bóp méo đi thực tại và tạo ra một ảo mộng phù hợp với “cái tôi” của chính ông. Song điều quan trọng nhất ở đây, đó là việc Charlie đã có thể thoát khỏi sự tự ti, chấp nhận bản thân và tha thứ cho chính mình.
Nam diễn viên Brendan Fraser đã bật khóc trước tình cảm của công chúng dành cho anh và cho bộ phim. Tác phẩm đã nhận được tràng pháo tay dài sáu phút tại liên hoan phim Venice 2022. Để vào vai vị giáo sư mắc căn bệnh béo phì, nam diễn viên đã mặc bộ đồ nặng 136kg và mất sáu tiếng để hóa trang. Vai diễn vô cùng xuất sắc của Brendan đã mang về đề cử Oscar đầu tiên trong sự nghiệp cho hạng mục Nam chính xuất sắc nhất. Bên cạnh đó, đạo diễn Darren Aronofsky chia sẻ ông chưa từng xem hay có ấn tượng gì về những tác phẩm khác mà nam diễn viên Brendan Fraser từng thủ vai nhưng ông biết chắc chắn nam diễn viên là người phù hợp nhất. “Tôi đã mất mười năm để chuyển thể câu chuyện này lên màn ảnh, với lý do không thể tìm ra một diễn viên nào phù hợp. Sau này tôi tình cờ xem được một đoạn giới thiệu ngắn về một bộ phim độc lập kinh phí thấp của Brazil mà Brendan đóng một vai nhỏ trong đó. Thành thật mà nói, tôi chưa thực sự xem bất kỳ phim nào anh ấy đóng. Nhưng tôi đã chọn Brendan, và tôi biết anh ấy là người phù hợp nhất”, vị đạo diễn chia sẻ.
The Whale (2022) là một tác phẩm gai góc, dị biệt nhưng vô cùng cảm động. Sự thờ ơ và lạnh lùng trong lối dẫn chuyện quen thuộc của Darren Aronofsky một lần nữa đã khiến bầu không khí của tác phẩm trở nên bi ai, ngột ngạt của nỗi đau trong mỗi gia đình và sự thống khổ của việc làm người.
-
"The Way of the Dragon" (1972) là bộ phim võ thuật do Lý Tiểu Long viết kịch bản, đạo diễn và đóng chính. Phim kể về nhân vật Tang Lung, một võ sĩ Trung Quốc trở về từ quê hương để giúp gia đình và bạn bè bảo vệ nhà hàng của họ tại Rome, Ý, khỏi những kẻ cướp và băng nhóm tội phạm địa phương.
Trong phim, Tang Lung phải đối mặt với một băng nhóm Nhật Bản và người đứng đầu của họ là một võ sĩ mạnh mẽ tên là Colt. Câu chuyện xoay quanh các cuộc chiến đấu giữa Tang Lung và băng nhóm này, cũng như các mối quan hệ với những người xung quanh, bao gồm cả một người bạn gái tên là Chen Ching-Hua.
Phim nổi bật với những cảnh hành động ấn tượng, đặc biệt là trận đấu giữa Lý Tiểu Long và Chuck Norris tại Đấu trường La Mã, một trong những trận chiến kinh điển trong lịch sử điện ảnh võ thuật. "The Way of the Dragon" không chỉ mang tính giải trí mà còn thể hiện triết lý võ thuật và lòng tự hào văn hóa Trung Quốc, đồng thời góp phần khẳng định vị thế của Lý Tiểu Long trên toàn cầu.
-
"Game of Death" (1978) là bộ phim võ thuật nổi tiếng của Lý Tiểu Long, tuy nhiên, bộ phim này không hoàn thành trước khi ông qua đời, nên có nhiều cảnh được hoàn thiện bởi các diễn viên khác và sử dụng các kỹ thuật dựng phim.
Câu chuyện xoay quanh nhân vật Billy Lo, một ngôi sao võ thuật nổi tiếng. Sau khi bị một tổ chức tội phạm đe dọa, Billy quyết định rời khỏi Hollywood để tìm kiếm sự bình yên. Tuy nhiên, khi phát hiện ra rằng bạn bè của mình bị đe dọa, anh quyết định trở lại và đấu tranh chống lại những kẻ xấu.
Bộ phim nổi bật với những màn võ thuật mãn nhãn và đặc biệt là những cảnh chiến đấu trong một tòa tháp với bốn tầng khác nhau, mỗi tầng có một đối thủ mạnh mẽ. "Game of Death" không chỉ có những pha hành động ấn tượng mà còn thể hiện triết lý võ thuật và tinh thần kiên cường của nhân vật chính. Dù bị tranh cãi về cách dựng phim, tác phẩm vẫn để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người hâm mộ.
-
"Fist of Fury" (1972) là một bộ phim võ thuật nổi tiếng của Lý Tiểu Long, xoay quanh nhân vật Chen Zhen. Câu chuyện diễn ra tại Thượng Hải trong bối cảnh đầu thế kỷ 20, khi Chen Zhen trở về từ Nhật Bản sau cái chết của sư phụ.
Khi trở về, Chen Zhen phát hiện ra rằng sư phụ của mình đã bị sát hại. Anh quyết tâm điều tra và trả thù cho cái chết của người thầy. Trong quá trình điều tra, Chen Zhen phải đối mặt với các thế lực đen tối từ Nhật Bản, bao gồm cả một trường võ thuật cạnh tranh. Phim không chỉ thể hiện những pha hành động mãn nhãn mà còn phản ánh những vấn đề xã hội, văn hóa và lòng tự hào dân tộc.
Bên cạnh những màn đánh đấm kịch tính, "Fist of Fury" cũng mang thông điệp về sự kiên cường và lòng trung thành với di sản văn hóa. Bộ phim đã trở thành một biểu tượng trong thể loại võ thuật và góp phần khẳng định tên tuổi của Lý Tiểu Long trên toàn thế giới.
-
Bốn thành viên gia đình trong phim độc lập “CODA” không thể nghe giọng nói của nhau, nhưng tình cảm chưa bao giờ phai nhạt.
Ruby Rossi (Emilia Jones) sinh ra trong gia đình đặc biệt, cha mẹ và anh trai đều khiếm thính. Là người duy nhất nghe được, cô trở thành "thông dịch viên", dùng ngôn ngữ ký hiệu để giao tiếp với cả nhà. Gia đình Rossi sống bằng nghề đánh bắt hải sản tại thành phố Gloucester, tiểu bang Massachusetts. Mỗi sáng trước khi đến lớp, Ruby cùng cha và anh trai ra khơi, rồi cô đại diện trả giá với thương lái địa phương. Ở trường, vì thích một bạn trai nên Ruby đăng ký vào đội hợp xướng. Thấy cô có năng khiếu, thầy dạy hát khuyến khích học trò theo đuổi nghệ thuật tại trường Berklee. Điều đó đồng nghĩa Ruby phải xa gia đình khi đang là người duy nhất kết nối họ với thế giới.
Cùng chủ đề Sound Of Metal (2020) nhưng phim không nặng về bi kịch. Kịch bản do nữ đạo diễn Sian Heder chấp bút, làm lại từ bản Pháp La Famille Bélier (2014), lồng ghép nhiều tình huống và lời thoại gây cười để dẫn dắt câu chuyện. Trong thời lượng 111 phút, đạo diễn pha trộn nhiều thể loại từ tuổi mới lớn (coming-of-age) đến melodrama về gia đình, một chút âm nhạc của High School Musical và tình yêu học đường của The Kissing Booth. Dựa trên những yếu tố quen thuộc trong điện ảnh Mỹ, Sian Heder nhào nặn thành tác phẩm mang dấu ấn riêng, gây bất ngờ từ đầu đến cuối.
Tên phim CODA viết tắt của "child of deaf adults", chỉ đứa trẻ bình thường được nuôi dạy bởi ít nhất một người khiếm thính, trong phim là Ruby. Cuộc sống nhà Rossie phần lớn được kể lại qua góc nhìn của cô bé 17 tuổi. Ruby ở trường và ở nhà là hai hình ảnh khác biệt. Cô ít bạn bè vì mặc cảm hoàn cảnh, chẳng có ai để tâm sự. Bạn cùng trường không thông cảm mà còn lấy cha mẹ Ruby làm trò đùa. Trái lại, khi bên cạnh người thân, Ruby được là chính mình, thoải mái bộc lộ cái tôi. Cô trở thành trụ cột chính của gia đình, đứng ra bảo vệ họ trước người khác.
Ngoài Ruby, các thành viên khác trong gia đình Rossie đều có không gian để tỏa sáng. Dù khiếm thính, họ luôn mỉm cười với cuộc sống, toát ra năng lượng tích cực. Cha Frank (Troy Kotsur) và mẹ Jackie (Marlee Matlin) thuộc mẫu phụ huynh hiện đại. Cả hai không ngăn cấm mà còn ủng hộ con gái quen bạn trai, theo đuổi ca hát. Anh trai Leo (Daniel Durant) bề ngoài lạnh lùng nhưng rất thương em, không muốn Rossie hy sinh tuổi trẻ vì mọi người.
Lấy bối cảnh phương Tây nhưng không khí gia đình trong phim gần gũi, gợi nhớ các tác phẩm của đạo diễn Nhật Hirokazu Koreeda hay phim về Hàn kiều Minari năm ngoái. Không thể dùng lời nói để trò chuyện, các thành viên trong nhà Rossi kết nối với nhau bằng xúc cảm con tim. Mâu thuẫn được xây dựng và giải quyết nhẹ nhàng, để lại nhiều ý nghĩa. Mỗi cuộc hội thoại của Ruby với cha mẹ, anh trai là một bài học không có trường lớp nào dạy, giúp cô hiểu hơn về bản thân lẫn gia đình.
Phim cài cắm nhiều tình tiết gây xúc động. Âm nhạc kết nối Ruby với bạn bè nhưng là thứ cô không thể sẻ chia cùng gia đình. Trong một cảnh quay, đạo diễn tắt hết âm thanh để khán giả được sống trong cảm giác của người khiếm thính. Cả nhà Rossi ngồi lắng nghe con gái hát nhưng đổi lại chỉ là sự tĩnh lặng. Cảnh cuối phim gợi nhớ Roma (2018) của Alfonso Cuarón khi Ruby chạy đến ôm gia đình. Bốn người tựa đầu vào nhau, không còn là cá thể tách biệt mà như hòa làm một, cho thấy yêu thương là cảm xúc không cần thể hiện bằng lời.
Đạo diễn Sian Heder cho biết dự án bắt đầu từ năm 2015 khi cô thực hiện xong phim đầu tay Tallulah. Trên Decider, Sian đánh giá bản gốc của Pháp tập trung nhiều vào Ruby, còn cô muốn phát triển các thành viên còn lại, tạo thành câu chuyện gia đình trọn vẹn. Để xây dựng kịch bản, cô dành nhiều năm học ngôn ngữ ký hiệu, tiếp xúc với cộng đồng điếc, làm việc với diễn viên điếc. Theo cô, khó khăn lớn nhất là tìm người đóng Ruby vì vai diễn đòi hỏi nhiều kỹ năng.
Đảm nhận vai chính Ruby là nữ diễn viên Anh Emilia Jones, sinh năm 2002, có kinh nghiệm diễn xuất từ năm tám tuổi. Emilia không phải gồng mình khi hóa thân thành một cô bé mới lớn, nhưng mất chín tháng để học ngôn ngữ ký hiệu. Emilia kết hợp những cử chỉ bằng tay và nét diễn tự nhiên trên khuôn mặt để lột tả một Ruby có nhiều tâm sự. Tác giả Glenn Whipp của Los Angeles Times đánh giá cô diễn xuất "chân thực", "nắm bắt được sự nhạy cảm và bốc đồng của nhân vật". Nhà phê bình Jon Frosch của The Hollywood Reporter khen cô "tinh tế", có "giọng hát trầm ấm, du dương và tự nhiên".
Cả ba diễn viên còn lại trong gia đình Rossi đều là người khiếm thính. Trong đó, Marlee Matlin là nữ diễn viên từng thắng giải Oscar hạng mục "Nữ chính xuất sắc" với Children of a Lesser God (1986). Ngay khi tham gia dự án, Marlee tuyên bố sẽ hủy hợp đồng nếu nhà sản xuất mời diễn viên bình thường đóng vai khiếm thính. Qua sự phối hợp của dàn diễn viên, thế giới người điếc được tái hiện đúng thực tế, không tô vẽ, tạo nét riêng cho phim.
Phản ứng của giới phê bình và khán giả đều tích cực, với 7.9/10 điểm trên Rotten Tomatoes, 75/100 điểm trên Metacritic và 8.2/10 điểm trên IMDb. Tờ New York Times nhận xét cốt truyện dễ đoán, nhưng "diễn viên phối hợp nhịp nhàng", cho khán giả "một cái nhìn rộng mở về văn hóa điếc". Cây viết Owen Gleiberman của Variety đánh giá phim "nhẹ nhàng, sống động, hài hước", khiến người xem không thể rời mắt. Tờ Washington Post chấm phim 4/4 sao, cho rằng phim mang lại nhiều cảm xúc cho người xem, "bạn sẽ cười, bạn sẽ khóc".
Trước khi được phát hành rộng rãi, CODA có màn ra mắt ấn tượng tại Liên hoan phim độc lập Sundance tháng 1 năm nay, thắng bốn giải bao gồm "Đạo diễn xuất sắc" và "Giải thưởng lớn của Ban giám khảo" cho hạng mục Chính kịch Mỹ. Phim còn lập kỷ lục khi được Apple TV+ mua lại với giá 25 triệu USD, mức giá cao nhất cho phim Sundance tính đến hiện tại.
-
Ha Sang-hyun là chủ một cửa tiệm giặt ủi ngập đầu trong nợ nần, còn Dong-soo từng là đứa trẻ mồ côi từ sớm và hiện đang làm việc cho một cơ sở vận hành "chiếc hộp em bé" trong nhà thờ cùng với Sang-hyun. Vào một đêm mưa gió, Sang-hyun và Dong-soo lén lút mang đi một đứa bé vừa bị bỏ rơi trong hộp. Trớ trêu thay, bà mẹ trẻ Moon So-young đột nhiên đổi ý và quay trở lại tìm con mình. Dù bán tín bán nghi, So-young vẫn quyết định tham gia vào chuyến đi kỳ lạ tìm kiếm gia đình và ngôi nhà mới cho chính con mình.
Trong lúc đó, nữ cảnh sát Ahn Soo-jin cùng cấp dưới Lee Eun-joo của mình đã luôn lặng lẽ theo sát và chứng kiến toàn bộ quá trình hành động của bộ ba để thu thập những bằng chứng mang tính quyết định. Cuộc hành trình bám theo những người môi giới của hai thanh tra đã dẫn đến một chiều hướng mà chính họ lẫn những người môi giới cũng không thể lường trước được, và tất cả mọi chuyện đều bắt đầu từ "chiếc hộp em bé" này.